Thông báo mới! TOP SHARE

Top 10 bài văn hay và chi tiết nhất phân tích khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang

  • 247 views
  • 1 likes
  • Add Favorite
  • Be a liked
  • Báo lỗi
  • Tài trợ

by Chanh 16-11-2023

Tràng giang là bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Huy Cận với ấn tượng về không gian và thời gian trong thơ làm người đọc tưởng như đang được đứng trước khung ảnh ấy. Đặc biệt khổ thơ cuối trong bài thơ là một minh chứng cho thấy thơ Huy Cận như men, được ấp ủ và sức sống sức gợi vừa lan toả nhưng lại rất cô đọng. Để hiểu hơn về khổ thơ cuối trong bài thơ Tràng giang, hãy cùng Topshare khám phá một số bài phân tích được tổng hợp và tham khảo dưới đây bạn nhé!

1 Bài văn hay phân tích khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang - Mẫu số 1
Vote
33%

1

by Chanh 16-11-2023

Ai đó đã từng nhận xét như này về thơ Huy Cận: rằng, thơ ông không phải là rượu đã rót vào chén mà là men được lên, không phải là hoa trên cành, mà là dòng nhựa đương chuyển. Phải chăng muốn nói đến sức sống cũng như sức gợi của sự hàm súc, cô đọng trong cách dùng từ đặt câu của thi nhân. Khổ thơ 4 bài Tràng Giang có thể xem là chuẩn mực cho nhận định ấy.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc...
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Thế giới thiên nhiên được Huy Cận tạo ra bao giờ cũng là một không gian hùng vĩ rợn ngợp và gợi buồn. Mà như Hoài Thanh đã nói, rằng "tưởng như Huy Cận đã lượm lặt hết những chút buồn rơi rải rác để viết nên những vần thơ âu sầu ảo não như thế". Vừa bước vào thế giới thơ, ta đã bắt gặp ngay hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ mà thấm màu buồn đã được phác lên làm toàn bộ bức phông nền cho cảnh vật. Lớp lớp, mây cao và núi bạc. Những chất liệu rất quen thuộc trong thơ cổ điển, được Huy Cận sử dụng, nhưng cái mới ở đây chính là cách nhà thơ kết hợp, nhào nặn chúng bằng tư duy thơ hiện đại của mình. Vậy cho nên, Huy Cận tập cổ mà không nệ cổ. Hình ảnh trong câu thơ này gợi cho ta nhớ đến dáng dấp của một câu thơ trong thơ Đỗ Phủ:

“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”

Đều là cách diễn đạt gợi nên không gian buổi chiều, buổi hoàng hôn đẹp mà buồn nhưng diễm lệ, mờ ảo. Cũng đồng thời, gợi nên chất hùng vĩ nét khoáng đạt của cảnh vật. Để tiếp tục câu thơ sau, là nghệ thuật đối rất chỉnh của thi nhân:

“Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”

Cánh chim nghiêng như đã đỡ cả buổi hoàng hôn rực rỡ trên đôi cánh nhỏ bé của mình, như đang mang trong nó cả cái lồng lộng hùng vĩ của dáng chiều. Vẫn là sự thủ pháp đối lập quen thuộc trong thơ cổ, cánh chim nhỏ nhoi, đơn độc giữa chân trời của nó và đối lập là hình ảnh thiên nhiên, là bóng chiều rợn ngợp, rộng lớn, mênh mông. Điều đó tạo cảm giác mới mẻ trong cảm nhận cho người đọc. Dấu hai chấm chính là dụng ý nghệ thuật mà Huy Cận đặt vào dòng thơ. Tưởng như không chỉ trong cảm giác, mà cả trong dòng chảy của nghệ thuật đang tiếp diễn trên trang giấy, thì cánh chim đơn côi và cô đơn ấy cũng đang gồng gánh và mang trong nó cả bóng chiều lồng lộng.

Đứng trước không gian rộng lớn ấy, nhân vật trữ tình chảy tràn những xúc cảm bồi hồi về quê hương:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Từ "dợn dợn" thực sự là điểm mấu chốt để ta thấy bút thơ tài hoa của Huy Cận, vừa gợi được cái cồn cào khắc khoải trong lòng người, vừa cho thấy sự day dứt khôn nguôi trong tâm can, sự khắc khoải, đau đáu của một kẻ đứng trên quê hương mà vẫn cảm thấy thiếu quê hương. Câu thơ cuối, là một chỉ dấu để ta hiểu hơn về cảm giác của nhân vật trữ tình. Rằng dẫu không cần một điểm tựa, điểm gợi đến từ khói trắng của chiều tà, của hoàng hôn thì trong lòng nhân vật trữ tình vẫn dấy lên nỗi niềm tha thiết với quê hương. Đây là cảm giác trống vắng, thiếu thốn bất định của cái tôi thơ Mới thời kì bấy giờ. Nhưng đồng thời cũng đặt ra cho ta một câu hỏi, phải chăng giữa con người và cảnh vật, con người và con người nơi đây không còn sự gắn kết, cho nên tôi mới cảm thấy bơ vơ, cô quạnh và lạc lõng đến vậy. Nó phải chăng là một sự đứt gãy có tính phổ quát và sự gắn kết trong xã hội, cũng đồng thời là sự biến mất của những giá trị truyền thống và thay vào đó là sự chuyển mình của dòng chảy hiện đại.

Khổ 4 cuối là khổ thơ đặc sắc, nắm giữ hồn cốt thơ Huy Cận, và cho ta hay, nỗi buồn sầu ảo não trong thơ ông, còn là nỗi buồn của một hồn thơ luôn tha thiết, vọng ngưỡng về quê hương của mình.

2 Bài văn hay phân tích khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang - Mẫu số 2
Vote
33%

1

by Chanh 16-11-2023

"Huy Cận nhặt những chút buồn rơi rắc để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thì người lại có thể đúc thành bao châu ngọc. Ai có ngờ những bước chân đã tan trên đường kia còn ghi lại trong văn thơ. Những dấu tích không bao giờ tan được". Quả thực là như vậy trong tác phẩm Tràng Giang khi đứng trước thiên nhiên rộng lớn ông đã bày tỏ cái tôi nhỏ bé cô đơn những nỗi buồn man mác.

Huy Cận quê ở Hà Tĩnh, đây là một trong những đại diện tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới. Nếu như thơ của Xuân Diệu thể hiện sự trẻ trung sáng tạo, thì Huy Cận với những tiếng thơ trầm ngâm sâu sắc, mang nhiều nỗi niềm bâng khuâng vui buồn của một hồn thơ đa cảm của diễn đàn văn học Việt Nam. Huy Cận được mệnh danh là một nhà thơ đa tài. Giáo sư Hà Minh Đức nhận xét: "Huy Cận không chỉ là một nhà thơ, ông còn là một nhà văn hóa, nhà hoạt động chính trị, xã hội với những dấu ấn quan trọng trong suốt cuộc đời sự nghiệp của mình". Nhà thơ đã trực tiếp góp mặt trong nhiều sự kiện trọng đại của đất nước, đồng hành cùng nhiều bước ngoặt quan trọng của lịch sử dân tộc với những cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng và thơ ca Việt Nam. Huy Cận đã được Đảng Nhà nước trao tặng huân chương Sao vàng, huân chương Hồ Chí Minh, giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Bên cạnh vai trò là một nhà thơ, nhà văn hóa Huy Cận còn là một nhà hoạt động chính trị xã hội với nhiều dấu ấn quan trọng Ông tham gia cách mạng từ rất sớm, tham gia mặt trận Việt Minh hoà mình vào đời sống đấu tranh của quần chúng nhân dân. Ông từng đảm nhận nhiều trọng trách quan trọng trong bộ máy của Đảng và nhà nước.

Tràng Giang được viết vào mùa thu năm 1939 với cảm hứng được khơi gợi từ hình ảnh sông Hồng mênh mông sóng nước bốn bể bao la vắng lặng. Bài thơ là nỗi buồn của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, bao la trong đó thấm đẫm tình người, tình đời lòng yêu nước thầm kín và thiết tha.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Khổ thơ cuối của Tràng Giang vẽ lên khung cảnh thiên nhiên với không gian hùng vĩ, choáng ngợp nhưng cũng đượm buồn. "Lớp lớp", "mây cao", "núi bạc". Đây là những hình ảnh chúng ta thường thấy trong thơ cổ điển, nhưng trong thơ Huy Cận nó trở nên thật mới mẻ. Điểm đặc biệt của Huy Cận đó là kết hợp cái cổ điển và cái hiện đại đưa cái cũ biến hóa chúng bằng tư duy thơ hiện đại của mình. Hình ảnh mây và núi gợi nhớ cho ta đến câu thơ trong thơ của Đỗ Phủ

Mặt đất mây đùn cửa ải xa

Hai câu thơ của hai nhà thơ cách nhau nhiều thế kỷ nhưng đều có một điểm chung đó là gợi nên không gian buổi chiều, một buổi hoàng hôn đẹp nhưng buồn. Đồng thời gợi lên chất hùng vĩ, khoáng đạt của cảnh vật. "Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa", cánh chim nghiêng như đỡ cả buổi hoàng hôn trên đôi cánh bé nhỏ của mình. Với thủ pháp đối lập cánh chim nhỏ nhoi đơn độc giữa chân trời với hình ảnh thiên nhiên bóng chiều rộng lớn mênh mông. Dấu hai chấm chính là dụng ý nghệ thuật mà Huy Cận đặt vào dòng thơ, dấu hai chấm không chỉ thể hiện cảm giác cô đơn trong tâm hồn mà ngay cả trên trang giấy cánh chim ấy vẫn đơn côi, đang gồng gánh mang trong mình cả bóng chiều. Khi đứng trước không gian rộng lớn nhân vật trữ tình bồi hồi

Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Từ "dợn dợn" gợi nỗi nhớ cồn cào khắc khoải trong lòng người, vừa cho thấy sự day dứt trong thâm tâm của một kẻ đang đứng trên quê hương mà vẫn cảm thấy thiếu quê hương. Câu thơ cuối giúp ta hiểu hơn về cảm giác của nhân vật trữ tình. Nếu như Nguyễn Du viết tâm trạng con người buồn sẽ ảnh hưởng tới cảnh vật:

"Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"

Còn trong thơ Huy Cận không cần một sự gợi tả từ cảnh mà nhân vật trữ tình vẫn có thể nhớ quê hương tha thiết. Đó là cảm giác trống vắng thiếu thốn của cái tôi trong thơ mới thời kỳ lúc ấy. Phải chăng giữa thiên nhiên và con người không có sự gắn kết nên nhân vật trữ tình cảm thấy bơ vơ cô quạnh và lạc lõng. Nỗi nhớ quê hương trong thơ Huy Cận giống với hai câu thơ của Tô Hiệu thời Đường:

Quê Hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai

Đây cũng là tâm trạng của Huy Cận với nỗi nhớ quê sâu sắc, nhớ nhà, nhớ những người ruột thịt.

Thơ Huy Cận hàm xúc cổ điển và thấm đẫm màu sắc triết lý tư tưởng. Với một hồn thơ bơ vơ, sầu não luôn hướng tới sự giao hòa giữa con người và tạo hóa trên một không gian mênh mông, phẳng lặng. Trong tràng giang cảnh sắc tươi đẹp mà buồn. Đó là những vần thơ mãi mãi vấn vương lòng người. Với thể thơ thất ngôn, tràng giang mang vẻ đẹp cổ kính trang trọng thể hiện sâu sắc những cảm hứng và tác giả đã viết. Cảnh sắc hoàng hôn và lòng quê được nói đến trong đoạn thơ mãi khơi gợi trong ta hình bóng quê hương yêu dấu. Sự kết hợp hài hòa giữa nét cổ điển và hiện đại vẽ lên bức tranh thiên nhiên mênh mông, quạnh hiu, hoang vắng ở đó ta thấy một cái tôi bơ vơ lạc lõng giữa đất trời bao la. Ẩn sâu trong đó là tình yêu quê hương đất nước kín đáo sâu lắng.

Đọc xong khổ thơ cuối cùng của Tràng Giang có hai thứ ấn tượng để lại trong lòng người đọc đó là: không gian rộng lớn và nỗi buồn cô đơn của lòng người. Vượt lên trên hết bút pháp đặc trưng, giữa chất cổ điển và hiện đại đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên tốt đẹp có buồn nhưng người đọc vẫn nhìn thấy một tình yêu quê hương đất nước thầm kín hiện diện trong Tràng Giang.

3 Bài văn hay phân tích khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang - Mẫu số 3
Vote
33%

1

by Chanh 16-11-2023

Nhà thơ Huy Cận có nhiều tác phẩm hay tả cảnh thiên nhiên, nhớ về quê hương đất nước, trong đó nổi bật là bài thơ “Tràng Giang” là nỗi lòng chung của cái tôi cá nhân trong phong trào thơ Mới. Đặc biệt khổ thơ cuối của “Tràng Giang” đã nói lên tâm trạng cô đơn, buồn bã của tác giả khi nhớ nhà:

Huy Cận đã vẽ nên vẻ đẹp vừa hoài cổ vừa mang tinh thần hiện đại:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.”

Tác giả đã sử dụng tính từ “lớp lớp” miêu tả rõ hình ảnh từng lớp mây như đang dát bạc cả bầu trời. Câu thơ sử dụng phép so sánh hình ảnh ẩn dụ và lối ngắt câu với “mây cao đùn núi bạc” tạo thành “lớp lớp” khiến ta hình dung những đám mây dưới nắng như dát bạc. Hình ảnh cổ điển và càng thi vị được lấy cảm hứng từ một tác phẩm Đường cổ của nhà thơ Đỗ Phủ:

Để tô điểm cho vẻ đẹp thiên nhiên, tác giả đã so sánh mây trắng như “bạc”, từ “đùn” khiến mây chuyển động bằng nội lực hình thành lên núi bạc. Và tính thời đại càng thể hiện rõ ràng hơn qua dấu hai chấm ở câu thơ sau gợi nên mối quan hệ giữa cánh chim và bóng chiều.

Mây trời bao la, cùng tiếng chim nghiêng, mà nghiêng không phải là nghiêng bình thường mà lại là “chim nghiêng cánh nhỏ” trong bóng hoàng hôn. Bóng chiều đè nặng xuống cánh chim nhỏ, in bóng lê mặt nước khiến tất cả cùng nghiêng đi. “Cánh chim” và “bóng chiều” là những hình ảnh trong thơ cổ điển.

Nếu như những lời thơ của Bà Huyện Thanh Quan, và Lí Bạch … thì cánh chim là chỉ là sự báo hiệu về hoàng hôn thì trong thơ Huy Cận là cảm xúc đơn độc trước cuộc sống.

Thi nhân cho thấy gốc nhìn mới trong hai câu kết :

“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà ”

Hai câu thơ xuất phát từ thơ của Thôi Hiệu trong tác phẩm “ Hoàng Hạc Lâu ” :

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu ”

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai )

Thôi Hiệu nhìn khói mà nhớ quá khứ, nhớ miền quê, nơi chôn rau cắt rốn. Nỗi sầu đậm sắc tố cổ xưa. Còn Huy Cận, đang ở quê nhà mình nhưng vẫn dâng lên nỗi nhớ nhà. Nhớ nhà có thể hiểu là nỗi nhớ về quốc gia đang mất chủ quyền, nỗi buồn mang tầm thời đại. Lòng quê ở đây nói lên nỗi nhớ quê hương với hai từ “gợn” cho ta bóng hình sóng đang ở bên cạnh, sóng cũng biết cũng nhớ hay tác giả đang nhớ về quê hương? Sự lên xuống của con sóng hay nỗi nhớ da diết của nhà thơ không chỉ một lần mà liên tục. Câu thơ muốn nói lên nỗi nhớ về quê hương tự do thanh bình của tác giả khi sống trong cảnh sông nước.

“Hoàng hôn không khói cũng nhớ nhà”

Nhà thơ mượn từ “khói” trong thơ Thôi Hiệu để nói lên cảm xúc của mình, nếu nhà thơ nhìn khói mà nhớ nhà thì nhà thơ Huy Cận không có “khói” nhưng vẫn nhớ về mái ấm nơi chôn rau cắt rốn đã nuôi tôi khôn lớn. Huy Cận lại buồn trước cảnh vắng vẻ, những con sóng “gợn sóng” gợi nhớ quê hương nhưng lại chỉ thấy hư vô, Huy Cận một mình đối diện với cảnh trống vắng. Chính vì thế mà khát vọng được yêu thương và được gắn bó với đời là nguyện vọng của tác giả.

Bằng biện pháp so sánh tài tình và miêu tả khéo léo, nhà thơ Huy Cận đã thể hiện rõ nỗi buồn về quê hương da diết của tác giả. Nỗi nhớ, nỗi buồn càng da diết khi đứng ngay trên quê hương, nhưng quê hương không còn nữa mà trong cảnh nước mất nhà tan.

4 Bài văn hay phân tích khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang - Mẫu số 4
Vote
0%

1

by Chanh 16-11-2023

Đọc những vần thơ, những bài thơ của Tố Hữu, chúng ta như cảm nhận được một tâm hồn thơ dạt dào cảm xúc, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng trung trinh với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân và tình cảm gắn bó thân thiết keo sơn với đồng bào, đồng chí.

“Dù ai thay ngựa giữa dòng
Đời ta vẫn ngọn cờ hồng cứ đi
Vẫn là ta đó những khi
Đầu voi ra trận cứu nguy giống nòi”

Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mạng, vì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm, chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời.. Và một trong những giá trị tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, đậm đà qua các tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Gió lộng,…

Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói “ Từ ấy” là tiếng hát của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lênin trong ngày hội lớn của cách mạng:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

“Từ ấy” là một thời điểm lịch sử đã trực tiếp tác động đến cuộc đời nhà thơ khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mạng. Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vẫn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”. Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ , như mặt trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc.

Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”

Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu“ bừng nắng hạ” đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí.

“Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng
Ta đi tới chỉ một đường cách mạng”

Và đó mới là bản chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say mê, ngây ngất trước một điều kì diệu:

“Mặt trời chân lí chói qua tim”

Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách mạng , mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tưởng cách mạng cao đẹp. Bởi lí tưởng đã “chói” vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.

Lý tưởng Cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng đem lại:

Hồn tôi là một vườn hoa lá,
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.

Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rạo rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại :“hồn” người đã trở thành “vườn hoa”, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Ở đây hiện thực và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ.

5 Bài văn hay phân tích khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang - Mẫu số 5
Vote
1%

1

by Chanh 16-11-2023

Nhắc đến Huy Cận là nhắc đến hồn thơ u sầu, trong thơ ông luôn chất chứa những nỗi niềm của một kẻ sĩ vương nỗi sầu nhân thế. Một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách ấy của ông là “Tràng giang”, tác phẩm được viết vào mùa thu năm 1939. Khổ thơ cuối bài “Tràng giang” là những khổ hay nhất bài thơ, diễn tả nỗi buồn lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp của thi nhân.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Giữa trời đất rộng lớn, mênh mông nhưng nhà thơ Huy Cận lại không tìm được một tiếng nói đồng cảm, tri âm, không có một ai có thể thấu hiểu được tâm trạng và những nỗi buồn đang giăng kín trong tâm hồn nhà thơ. Nỗi phiền muộn, u sầu không thể giãi bày, chỉ có thể tự mình giữ lấy nên nó càng nhức nhối, khắc khoải.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.”

Những hình ảnh cổ điển “mây”, “cánh chim” được tác giả sử dụng kết hợp với các động từ “đùn”, “nghiêng”, “sa” đã diễn tả được cái hùng vĩ và sức sống tràn đầy của thiên nhiên. Những tầng mây “lớp lớp” chất chồng lên nhau tạo nên những dãy núi bạc khổng lồ, lơ lửng trên nền trời xanh ngắt. Một cảnh tượng thật hùng vĩ biết bao! Thiên nhiên lúc này không còn trong trạng thái tĩnh mịch nữa mà nét động dần thay thế. Mây đùn núi bạc trong ánh chiều, chim nghiêng cánh nhỏ mơ màng trong bóng hoàng hôn, tất cả tạo nên một không gian đẹp đẽ, rực rỡ và sống động. Tuy nhiên, trong khung cảnh ấy, ta vẫn thấy nét buồn, cô đơn của tâm hồn thi nhân khi bắt gặp hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Cánh chim nhỏ bé, mỏng manh bay giữa mây cao, núi bạc, cô đơn giữa đất trời mênh mông, hùng vĩ tựa như hình ảnh thi nhân đang bơ vơ, chán ngán giữa dòng đời. Bởi thế mà nỗi buồn cứ thế trào dâng, miên man bất tận, thấm đượm trong cảnh, chất chứa trong tình.

Có thể nói, tình quê là một tình cảm đáng trân trọng của các thi nhân dành cho quê hương, đất nước. Thôi Hiệu từng nhìn khói sóng trên sông mà nhớ nhà:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”

Hay Lí Bạch từng nhìn trăng mà nhớ quê hương da diết:

“Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.”

Người ta xa quê thì nhớ quê, nhưng với Huy Cận thì khác, tác giả đang đứng trên quê hương mà lại nhớ quê hương da diết:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Từ láy “dợn dợn” gợi tả nét chuyển động diễn ra liên tục trong tâm khảm nhà thơ, một nỗi nhớ luôn thường trực khôn nguôi, đầy sâu sắc và ám ảnh. Dường như, không giây phút nào là thi nhân không nhớ đến quê hương, đất nước mình, đặc biệt là trong cảnh tổ quốc đang bị xâm lăng, giày xéo bởi quân thù.

Có thể nói, khổ cuối bài thơ đã vẽ nên một bức tranh đẹp nhưng buồn sầu. Ẩn sâu trong từng con chữ là cái tôi thi sĩ cô đơn song lại chất chứa tình cảm sâu nặng, tha thiết với quê hương, đất nước.

Tears in Heaven