Top 10 bài văn hay phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
- 610 views
- 4 likes
Đoàn thuyền đánh cá là một trong những bài thơ rất thành công của tác giả Huy Cận. Bài thơ nổi bật lên bức tranh thiên nhiên miền biển vô cùng sinh động. Khi hoàng hôn sắp sữa buông xuống trên mặt biển cũng là lúc những đoàn thuyền dong buồm ra khơi, bắt đầu cho buổi đánh bắt mới. Biển thật đẹp và giàu có lại càng hùng vĩ hơn với nhịp lao động rộn ràng của con người. Tác giả Huy Cận thể hiện trọn vẹn một quá trình từ khi đoàn thuyền ra khơi tới khi trở lại bờ đầy những tôm cá của biển. Bức tranh thiên nhiên ấy thật sự đã tạo nên điểm nhấn xuyên suốt cho cả bài thơ. Để hiểu hơn về bức tranh thiên nhiên tuyệt vời ấy, hãy cùng đến với những dàn ý và bài phân tích được sưu tầm và chọn lọc dưới đây bạn nhé!
6
Bài phân tích số 4

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã dấy lên một phong trào Mỗi người làm việc bằng hai vừa xây dựng miền Bắc, đã chi viện cho chiến trường tiền tuyến miền Nam. Khắp nơi mọi người ra sức lao động không quản ngày đêm, khổ cực. Với tinh thần đó, các nhà văn, nhà thơ đã đi sát với cuộc sống của những người lao động để phản ánh và ca ngợi họ. Trong đó, tác phẩm để lại được nhiều ấn tượng nhất, có lẽ là Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.
Nhà thơ Huy Cận (1919-2005), tên đầy đủ là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Vũ Quang (trước đây thuộc huyện Hương Sơn, nay là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Hơn sáu mươi năm hoạt động Văn học nói chung và làm thơ nói riêng, với gần rất nhiều thi phẩm thơ đi từ nỗi buồn từ ngàn xưa đến niềm vui lớn hôm nay, Huy Cận luôn gắn liền với mạch đời chung của dân tộc. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá thể hiện sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và cảm hứng thiên nhiên, vũ trụ của nhà thơ Huy Cận. Bài thơ được bố cục theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá. Hai khổ đầu là cảnh lên đường và tâm trạng náo nức của con người, bốn khổ tiếp theo là hoạt động của đoàn thuyền đánh cá và khổ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh của một ngày mới.
Nhà thơ Huy Cận từng tâm sự: Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá nằm trong cảm hứng chung của thơ tôi trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tôi viết bài thơ tương đối nhanh, chỉ vài giờ của một buổi chiều trên vùng biển Hạ Long. Bài thơ được viết liền mạch và ít phải sửa chữa. Tôi nghĩ rằng đó cũng không phải là chuyện ngẫu nhiên mà thực sự là cảm hứng đã được tích tụ trên một đề tài quen thuộc của tôi và được viết ra trong không khí rất vui của những năm tháng đầu xây dựng của chủ nghĩa xã hội. (Huy Cận, Tác phẩm văn học, NXB Văn học, 2001).
Mở đầu bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền ra khơi:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Bằng giọng thơ gân guốc, với cặp mắt quan sát tinh tế, tác giả đã chọn một thời điểm hết sức đặc biệt đó là lúc hoàng hôn. Mặt trời từ từ lặn sâu xuống lòng biển được tác giả ví như hòn lửa. Với cách so sánh này, làm hiện ra trước mặt người đọc một không gian huy hoàng và tráng lệ làm ngây ngất lòng người. Nhưng không gian đẹp đẽ ấy cũng chỉ diễn ra trong chốc lát rồi nhường chỗ cho màn đêm lan tỏa. Nghệ thuật nhân hóa Sóng cài then, đêm sập cửa đã thể hiện sự dứt khoát về chuyển giao không gian. Sau một ngày làm việc vất vả, vũ trụ đã đi vào nghỉ ngơi, thư giãn. Trong hoàn cảnh đó, con người lại bắt tay vào lao động. Sự đối lập giữa thiên nhiên và con người cùng với các biện pháp nghệ thuật độc đáo đã tạo nên một không gian lộng lẫy, gợi bao cảm xúc cho người đọc. Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi, thể hiện rõ nét đây không phải là lần đầu đi biển mà công việc đó được lặp đi lặp lại một cách đều đặn, thường xuyên. Phải nói rằng, đi đánh cá trên biển đã trở thành nề nếp, không phải của con thuyền mà của cả đoàn thuyền. Họ ra đi với tinh thần đoàn kết, phấn khởi, lạc quan, khí thế khẩn trương trong lao động. Tinh thần đó được thể hiện qua câu hát khỏe khoắn, lời hát của họ như hòa vào trong gió, thổi căng buồm đẩy con thuyền thẳng tiến ra khơi.
Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả miêu tả nổi bật về nét đẹp của người dân làng chài:
Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi
Câu hát của những người đi biển, nó không những thể hiện được tâm hồn lạc quan và khí thế khẩn trương mà còn nói lên niềm mong ước của con người. Đi đánh cá từ ngàn đời nay may rủi là chuyện thường tình. Vì vậy, trong câu hát ta đọc được những ước mong của họ. Đó là ước mong về trời yên biển lặng, gặp được luồng cá để đánh bắt được nhiều. Giọng điệu lời thơ như ngân lên ngọt ngào, ngân dài và xa mãi. Các hình ảnh của cá được so sánh, ẩn dụ là những nét sáng tạo độc đáo đem đến cho người đọc một cảm nhận thú vị về con người lao động trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Ở khổ thơ thứ ba là hình ảnh con thuyền với cảnh đánh bắt cá trên biển:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Có thể nói rằng, toàn bộ khổ thơ là một bức tranh sơn mài lộng lẫy. Tất cả các hình ảnh: mây, nước, sao, trời được vẽ nên bằng ngôn ngữ lung linh, huyền ảo. Đặc biệt là hình ảnh con thuyền vừa có tính hiện thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. Lái gió, buồm trăng - đọc câu thơ, ta có cảm nhận thiên nhiên cũng góp phần vào công cuộc đánh bắt. Trăng sao như soi rõ hơn cho con người phát hiện ra luồng cá. Giữa biển trời mênh mông, trời và biển như hòa vào một. Còn đối với người dân chài, tác giả miêu tả họ với tinh thần làm chủ biển khơi. Họ chủ động, sáng tạo trong lao động, bố trí đánh bắt cá như một trận đánh. Với tinh thần lao động hăng hái, lạc quan như thế, thì chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn. Ở khổ thơ thứ tư, tác giả dành riêng để miêu tả sự giàu có của biển cả:
7
Bài phân tích số 5

Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận được biết đến như là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới. Tiếng thơ “ảo não” mang nặng “nỗi sầu vạn cổ”, “nỗi buồn thiên thu” của ông đã nói lên được tâm trạng chung của tầng lớp tiểu tư sản đương thời. Nhưng tựu chung lại, có thể thấy nổi bật lên trong thơ Huy Cận là khát vọng được hòa nhập giữa cá thể và vũ trụ, con người và thiên nhiên. Sau Cách mạng, cũng vẫn mang ước vọng lớn lao ấy, nhưng được ngọn gió cách mạng thổi vào những luồng sinh khí mới, thơ Huy Cận tràn ngập niềm hân hoan, hòa mình vào cuộc chiến đấu của đất nước, và sự hồi sinh từng ngày của quê hương. Chính điều đó tạo nên màu sắc tươi sáng cho những trang thơ Huy Cận. Đoàn thuyền đánh cá là một trong những bài thơ thể hiện rõ nét nhất sự thay đổi đó trong thơ ông.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là khúc ca về người dân lao động vùng chài lưới — những con người sống cùng biển và sống nhờ biển. Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh con người và trời biển, thiên nhiên, vũ trụ luôn hòa hợp, gắn bó với nhau, soi sáng nhau để cùng làm nên bài ca lao động hùng tráng.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh thiên nhiên, vũ trụ hiện ra vô cùng độc đáo qua cái nhìn của một tâm hồn lãng mạn, bay bổng :
Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Hai câu thơ ngắn mà như vẽ nên được cả một bức tranh hoàn mĩ, sống động về cảnh hoàng hôn trên biển. Mặt trời cuối ngày từ từ “xuống biển”, mang theo những tia nắng cuối cùng của một ngày, như một “hòn lửa” khổng lồ. Đây quả là một sự so sánh độc đáo. Ta có cảm tưởng như cả một vùng biển dát hồng, lẫn màu trời chạng vạng theo những con sóng bạc đầu tạo nên một cảnh sắc tuyệt đẹp giữa vùng trời nước hòa nhập làm một. Hoàng hôn nhưng vũ trụ không hề gợi cảm giác tàn lụi mà lại chuyển động khỏe khoắn. Điều này khác xa phong cách của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám - một con người luôn cô đơn, nhỏ bé, một mình ôm “mối sầu vạn cổ” đối diện với vũ trụ bao la, rợn ngợp. Ở đây, cũng là trời biển mênh mông nhưng con người như hòa nhập cùng nhịp đập của thiên nhiên. Biện pháp nhân hoá tài tình không chỉ cho ta thấy một cây bút tài hoa mà còn làm hiện lên trước mắt ta một khung cảnh thiên nhiên trác tuyệt : sóng biển như chiếc then cửa, nhốt ánh sáng bằng một động tác “sập cửa” mau lẹ. Thiên nhiên hùng vĩ, mênh mang mà cũng gần gũi biết bao khi được ví với những thứ thân thuộc trong ngôi nhà của mỗi người. Thì ra Huy Cận đang nhìn biển bằng con mắt của những người ngư dân gắn bó cả đời với biển, coi biển là nhà. Và khi thiên nhiên ngừng nghỉ sau một ngày chiếu sáng vất vả thì cũng là lúc người dân chài bắt đầu hành trình của một ngày lao động mới. Những người con khoẻ khoắn của biển hào hứng ra khơi :
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Tinh thần lao động hăng say khiến họ quên đi màn đêm đang bao trùm biển cả, không ngại khó, sợ khổ. Một cụm từ “lại ra khơi” đủ để Huy Cận khắc họa cho người đọc thấy đây là công việc hết sức quen thuộc với những ngư dân này. Nhưng quen thuộc mà không hề tẻ nhạt, nhàm chán, trái lại vẫn tràn đầy hứng khởi, say mê. Niềm say mê ấy cất lên thành khúc hát:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Câu hát chính là lòng say mê, là tinh thần lao động nhiệt thành của con người ngân lên, để hòa nhập cùng biển khơi mênh mông. Chính tiếng hát ấy đã nâng con người lên ngang tầm vũ trụ. Câu hát - cánh buồm - gió khơi biểu thị cho mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên - tất cả cùng hòa nhập, trở thành động lực đưa con thuyền tiến ra biển cả hùng vĩ. Và đoàn thuyền ra khơi mang theo khúc hát lên đường tràn đầy hứa hẹn, hi vọng vào một thành quả lao động tốt đẹp của những người dân chài.
Khổ thơ ngắn nhưng tràn ngập hình ảnh. Nghệ thuật liên tưởng, so sánh, nhân hoá độc đáo đã giúp Huy Cận dựng lên một bức tranh hùng vĩ về thiên nhiên và con người. Những nét vẻ khoẻ khoắn của cây bút tài hoa ấy tiếp tục được thể hiện trong những dòng thơ tiếp theo, mang đến cho ta những ấn tượng hết sức độc đáo :
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Con người và thiên nhiên cùng hòa nhịp với vũ trụ bao la. Khoảng không vũ trụ được đo bằng trời, bằng biển - một không gian thoáng đãng, vượt ra khỏi tầm mắt con người nhưng ấm áp chứ không lạnh lẽo kiểu “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”. Hình ảnh con thuyền là một sáng tạo độc đáo của Huy Cận. Ta chợt nhớ tới những câu thơ của Tế Hanh :
Chiếc thuyền hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.
(Tế Hanh - Quê hương)
Nếu như con thuyền trong Quê hương hiện lên như một con “tuấn mã”, mạnh mẽ, hùng hực khí thế thì con thuyền của Huy Cận lại mang nhiều nét bay bổng, lãng mạn hơn. Tế Hanh gắn cho con thuyền của mình những động từ, tính từ mạnh : hăng, phăng, mạnh mẽ, rướn,… trong khi Huy Cận lại vẽ con thuyền của mình bằng những nét nhẹ nhàng, nên thơ khi gắn nó với những hình ảnh của thiên nhiên : người cầm lái là gió trời, cánh buồm là vầng trăng. Thuyền và người hoà nhịp vào thiên nhiên, hòa trong cái thơ mộng gió trăng, trời biển. Con thuyền đánh cá quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của người dân chài tựa như được gió trời, khí biển chắp cánh hay chính tâm hồn phơi phới của con người đã thổi hồn vào đó, biến nó thành chiếc thuyền lung linh, lướt nhẹ giữa thiên nhiên rộng lớn, tươi đẹp ? Giữa khung cảnh kì vĩ ấy, con người bắt tay vào công việc lao động :
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Đoàn thuyền đánh cá trên biển như một đoàn quân ra trận, cũng “dò”, “dàn đan thế trận”, “vây giăng”. Huy Cận đã sử dụng một loạt những từ ngữ thuộc lĩnh vực quân sự nhưng không hề làm cho câu thơ trở nên khô khan, mà ngược lại, mang đến cho ta những hình dung lí thú về công việc đánh cá của những người dân chài. Giữa biển khơi bao la hùng vĩ, con người không hề sợ hãi phải chăng vì một điều hết sức giản dị mà sâu sắc : biển là người mẹ gắn bó, nâng đỡ con người:
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Biển muôn đời vẫn thế, dù có lúc bão nổi sóng cồn nhưng vẫn luôn bao dung, ưu ái đối với con người. Biển giàu đẹp là thế giới của muôn vàn loài cá :
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long.
Hai câu thơ đầu tưởng chừng chỉ là những dòng liệt kê về tên các loài cá trên biến, vậy mà lại mang đến những khoái cảm thẩm mĩ độc đáo cho người đọc. Một sự liên tưởng, so sánh thú vị : cá song như những ngọn đuốc, tô thêm cho biển đêm những màu sắc lấp lánh. Những chú cá vui đùa dưới ánh trăng, quẫy đuôi, làm vỡ ánh trăng soi bóng trên mặt nước, sắc “vàng chóe” của trăng hòa cùng những chấm màu hồng của cá, sáng rực lên trong đêm, tạo nên vẻ đẹp hư ảo, kì lạ. Biển như cung điện lộng lẫy sắc màu và trăng cùng các chú cá đang tham gia vào vũ hội thần tiên. Vũ hội ấy còn có sự tham dự của một trời sao bạt ngàn. Tác giả đã thể hiện khả năng liên tưởng tuyệt vời của mình qua hình ảnh nhân hoá : “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”. Đêm yên bình, biển dịu êm, những đợt thủy triều lên xuống, những con sóng dập dờn tạo ra hơi thở của đêm. Mọi vật trong vũ trụ như đang hòa cùng nhau để bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ khắc nên một bức tranh đẹp tuyệt sắc.
Biển giàu có là thế, thiên nhiên đẹp là vậy, nên thơ là vậy, khiến cho công việc lao động của con người bỗng trở nên thi vị biết bao. Ta không nhận ra ở đây bóng dáng của sự cực nhọc trong công việc chài lưới, bởi có thiên nhiên giúp sức :
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Bài ca lao động khỏe khoắn của con người vang lên, hòa cùng nhịp gõ thuyền của vầng trăng trên cao. Thiên nhiên, con người hòa ca trong niềm say mê lao động :
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Thiên nhiên đang chuyển dịch dần và một ngày lao động của con người cũng đã đến chặng cuối. Huy Cận như một bức tượng về người ngư dân trong tư thế của người làm chủ thiên nhiên, khỏe mạnh, đẹp đẽ, sánh ngang cùng vũ trụ : “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”. Công việc lao động nặng của người đánh cá đã trở thành bài ca đầy niềm vui nhịp nhàng với thiên nhiên, thể hiện tinh thần lao động say mê, khẩn trương và đạt hiệu quả cao.
8
Bài phân tích số 6

Nếu như trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận được biết đến với những bài thơ chở nặng nỗi buồn, "nỗi sầu nhân thế" thì sau Cách mạng tháng Tám, trong thơ ông lại tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan gắn chặt với công cuộc đổi thay của cuộc sống mới. Điều này đã được thể hiện rõ qua bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" - kết quả của chuyến đi thực tế tại vùng mỏ Quảng Ninh của tác giả. Trong tác phẩm, công cuộc lao động cùng sự đổi thay trong cuộc sống mới đã được làm nổi bật thông qua hình ảnh con người lao động và bức tranh thiên nhiên.
Mở đầu tác phẩm, vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên đã được miêu tả qua buổi hoàng hôn khi đoàn thuyền đánh cá bắt đầu ra khơi:
"Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa"
Trên bức phông nền của ánh hoàng hôn buổi chiều tà, mặt trời từ từ lặn xuống từ phía tây trong phép so sánh độc đáo "như hòn lửa". Hình ảnh quen thuộc miêu tả mặt trời chìm xuống lòng biển khơi với sắc đỏ rực, đồng thời gợi lên sự trôi chảy và bước đi của dòng thời gian trong sự biến động hết sức kì vĩ và tráng lệ. Vẻ đẹp của thiên nhiên còn được làm nổi bật thông qua biện pháp nhân hóa "Sóng đã cài then đêm sập cửa". Những con sóng ngày đêm vỗ vào bờ được hình dung như những chiếc then cài, khép lại màn đêm như đóng kín cánh cửa của biển khơi. Vũ trụ vốn bao la, rộng lớn đã được hình dung như một ngôi nhà lớn thân thương, gần gũi đối với con người.
Bức tranh thiên nhiên còn được miêu tả với vẻ đẹp giàu có, trù phú của mẹ biển cả bao la. Đó là những đoàn cá "cá bạc biển Đông lặng", "Cá thu biển Đông như đoàn thoi" hiện lên cùng âm hưởng ngợi ca, tự hào và biết ơn đối với những món quà mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Và hành trình đoàn thuyền đánh cá trên biển luôn gắn bó chặt chẽ với sự phong phú, giàu có của tài nguyên thiên nhiên:
"Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cá đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long"
Bức tranh thiên nhiên được phác họa bằng thủ pháp liệt kê, khiến những loài cá hiện lên sinh động, chân thực nhưng cũng vô cùng lộng lẫy và kì vĩ. Đó là "cá song lấp lánh đuốc đen hồng" miêu tả những chú cá song, thân dài và có chấm nhỏ màu đen hồng xuất hiện trên vảy, đồng thời gợi ra hình ảnh đoàn cá mang vẻ đẹp lấp lánh như những cây đuốc được thắp sáng giữa đêm trăng. Đó là những con cá "đuôi em" đang vui đùa cùng làn nước như "quẫy trăng vàng chóe", góp phần tô điểm cho một đêm trăng đẹp, lung linh ánh nước mờ ảo. Những con sóng cũng mang trong mình nhịp thở của biển, khiến cho bức tranh thiên nhiên hiện lên gần gũi, thân thuộc.
Và khi đoàn thuyền trở về trong khúc hát của lòng biết ơn thì thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp hết sức thơ mộng, trữ tình:
"Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi"
Vòng tuần hoàn của thời gian được gợi ra từ sự biến chuyển từ lúc hoàng hôn - đoàn thuyền đánh cá ra khơi đến khi mặt trời ló dạng - đoàn thuyền đánh cá trở về. Lúc này vẻ đẹp của thiên nhiên lại được miêu tả trong sự hồi sinh "Mặt trời đội biển nhô màu mới". Đồng thời, bức tranh muôn triệu mắt cá li ti trong ánh rạng đông không chỉ thể hiện sự giàu có của thiên nhiên mà còn ẩn chứa niềm vui và thành quả lao động của những người ngư dân.
Như vậy, bằng cảm hứng ngợi ca và cảm hứng vũ trụ, tác giả đã sử dụng thành công những hình ảnh thơ giàu sức gợi để miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên. Thông qua bức tranh thiên nhiên, chúng ta thấy được sự biết ơn của con người đối với những món quà mà mẹ biển cả đã ban tặng. Đồng thời, vẻ đẹp của bức tranh đó còn là phông nền để tác giả làm nổi bật hình tượng con người lao động trong khúc ca làm chủ thiên nhiên, đất trời.
9
Bài phân tích số 7

Biển cả mênh mông luôn mang lại nguồn cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Nếu Xuân Quỳnh cảm nhận những cơn sóng biển dạt dào luôn khao khát yêu thương thì Huy Cận lại nhìn về biển với sức sống mãnh liệt, là một bức tranh kì vĩ, mĩ lệ của thiên nhiên. Trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận mang hồn thơ của một sức sống mới, sự hồi sinh của một tâm hồn và một đất nước. Bài thơ khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
Mở đầu bài thơ là bức tranh về hoàng hôn trên biển rộng. Giữa màn đêm đang dần lấn chiếm không gian bao la của vũ trụ, mặt trời được ví như một hòn lửa khổng lồ, sáng rực dần lặn xuống mặt biển:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Màn đêm buông xuống như tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng là chiếc then cài vững chắc. Hình ảnh so sánh kết hợp nhân hóa tạo nên nét huyền diệu, mĩ lệ của thiên nhiên vừa tạo ra sự nhanh chóng, gấp gáp kết thúc một ngày dài. Nhưng đó không phải ngày tàn, u ám như trong bức tranh của tác phẩm Hai đứa trẻ mà là một ngày mới mở ra cho những người con của biển cả. - một ngày lao động trên biển bắt đầu:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả miêu tả vẻ đẹp của biển với nguồn tài nguyên vô tận, mặt trời lắng và giấc ngủ sâu sau một ngày dài cũng là lúc các sự vật trên biển bừng thức:
Hát rằng : cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi.
Nếu như cả bài thơ là một bức tranh sáng tạo về không khí lao động của những người đi biển, thì chi tiết về đàn cá là một sáng tạo đặc sắc. Các biện pháp nghệ thuật ở đây được sử dụng một cách linh hoạt, làm người đọc cảm thấy được sự giàu có của biển cả. Kết hợp giữa bút pháp tả thực và trí tưởng tượng vô cùng phong phú, những luồng cá được ví như đoàn thoi, dệt lên muôn luồng sáng trên tấm lưới khổng lồ. Trong đêm đen giữa biển cả bao la, những luồng sáng vút lên như chứa chan bao hy vọng của người đi biển và đó cũng là sự ưu ái ban tặng nguồn tài nguyên phong phú của biển cả cho những ngư dân. Không chỉ có cá thu, cá bạc, mà các loài cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song,… cũng đang hòa chung khúc hát, tạo nên khúc ca hùng tráng của biển khơi.
Mặt trời đã tắt nhưng ánh trăng chiếu rọi luồng sáng trên cao xuống mặt biển dập dìu sóng nước, tạo ra không gian lãng mạn, huyền ảo Sự phối hợp màu sắc của thiên nhiên với màu sắc của các loài cá trên biển tạo nên những màu sắc rực rỡ: lấp lánh, đen hồng, vàng chóe,… đã khiến bức tranh trở nên đa dạng về màu sắc, sinh động, có hồn hơn.Vẻ đẹp thiên nhiên thật đẹp đẽ, tràn đầy hơi thở sự sống: Đêm thở sao lùa nước Hạ Long. Biển cả trù phú, giàu có chính là nguồn sống nuôi dưỡng con người khôn lớn, trưởng thành. Người dân chài gắn liền cuộc đời mình với biển cả, vì thế biển đối với họ thật gần gũi, thân thiết biết bao.
Sau một đêm lao động vất vả, khẩn trương, trời đã trở về sáng. Hình ảnh mặt trời một lần nữa xuất hiện trong bài thơ. Cảnh rạng đông và mặt trời từ từ đội biển nhô lên thật tuyệt diệu. Bình minh lên cũng là lúc người ngư dân trở về bến cảng, với những khoang thuyền đầy ắp cá. Mặt trời và ánh sáng của bình minh tươi đẹp đã chiếu rọi vào đôi mắt cá như khẳng định những thành quả lao động của con người sau bao vất vả. Mặt trời ngày mới như ánh hoàng quang rực rỡ tô điểm cho chiến thắng của những người ngư dân sau một chuyến ra khơi thành công rực rỡ.
Cảnh hoàng hôn và cảnh bình minh trên biển được đặt ở vị trí đầu và cuối bài thơ đã mở ra một không gian rộng lớn là thời gian là nhịp tuần hoàn của vũ trụ, đó cũng là nhịp sinh hoạt của những người ngư dân về một đêm đánh cá trên biển. Cùng với đó, câu hát cũng được những người ra khơi cất lên từ lúc ra đi cho đến trở về. Những câu hát khi trở về thể hiện rõ một niềm hân hoan, phấn khởi. Câu hát mang âm điệu nhẹ nhàng phơi phới diễn tả khí thế hăm hở và sảng khoái vì thành quả tốt đẹp của đêm lao động cật lực. Hình ảnh hoán dụ “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” khép lại bài thơ nhưng lại mở ra một trường liên tưởng về một tương lai tốt đẹp, những hi vọng vào một cuộc sống mới đủ đầy cho đất nước hôm nay.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động. Qua đó, cũng cho thấy khả năng quan sát tỉ mỉ về bức tranh thiên nhiên đầy sinh động, trí tưởng tượng phong phú cùng sự chắt lọc ngôn từ tinh tế của Huy Cận. Bài thơ đã giúp người đọc cảm nhận được tình yêu thiên nhiên.
10
Bài phân tích số 8

Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu, nổi tiếng trong phong trào thơ Mới cả trước và sau cách mạng. Hòa cùng với không khí của ngày hội dân tộc, Huy Cận như tận mắt chứng kiến sự hồi sinh của đất nước, của nhân dân sau khi hòa bình lập lại trên toàn miền Bắc. Vì thế, hồn thơ Huy Cận bỗng nảy nở trở lại sau bao năm không cầm bút. Và bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" (1958) được ra đời như một định mệnh. Bài thơ là bài ca lao động, ca khúc khải hoàn về sự đổi thay của cuộc sống nhân dân, sau bao năm lửa đạn đau thương dưới sự xâm lược của thực dân. Đọc xong bài thơ, chúng ta không chỉ cảm nhận được tinh thần khỏe khoắn, lao động hăng say của những người ngư dân miền biển, mà bài thơ còn sáng lên vẻ đẹp lấp lánh của một bức tranh thiên vừa hùng vĩ, tráng lệ, vừa lung linh huyền ảo và rực rỡ tươi sáng của biển trời bao la.
Trước hết, mở đầu bài thơ là một bức tranh thiên nhiên trên biển vào lúc buổi chiều hoàng hôn buông xuống thật huy hoàng, tráng lệ:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Hình ảnh “mặt trời” được nhân hóa (xuống biển) và so sánh (như hòn lửa) trở nên sống động, huy hoàng, gần gũi và ấm áp. Đó là tín hiệu của sự vận động, chảy trôi của thời gian, báo hiệu thời khắc của ngày tàn đêm đến. “Sóng” và “đêm” cũng được nhân hóa với hành động “cài then” , “sập cửa”. Vũ trụ được hình dung như một ngôi nhà lớn đang vào đêm với động tác như con người: tắt lửa, cài then, sập cửa. Màn đêm như là tấm cửa khổng lồ đã sập xuống, còn những con sóng lượn là cái then cài. Thiên nhiên như dọn dẹp để nghỉ ngơi sau một chu trình hoạt động. Cảnh thật đẹp, diễm lệ, xuất phát từ cảm hứng vũ trụ mạnh mẽ, có phần thi vị lãng mạn hóa.
Theo nhịp bước vận động của thời gian, của một chuyến hành trình tiến ra khơi xa của đoàn thuyền đánh cá, mọi vẻ đẹp và sự giàu có trù phú của biển cả như dần hiện hình, nổi sắc dưới ống kính quay chậm của nhà thơ. Các loài cá biển được liệt kê ra như biểu trưng cho sự giàu đẹp của biển Đông mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người:
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Những đàn cá thu được so sánh "như thoi đưa", có tác dụng diễn tả cá ở biển Đông thật nhiều, thật đông và bơi nhanh như thoi đưa vậy. Và chính các loài cá tôm, thủy sản ở dưới biển ấy, đã làm nên những "luồng sáng", sự sống của biển cả thiên nhiên. Và sau khi đã đưa chiếc thuyền tiến ra khơi xa, quăng lưới bủa vây đánh bắt cá thì tất cả cảnh đẹp giàu có và hết sức thơ mộng của biển cả như thu lại vào trong tầm mắt của người ngư dân trên khoang thuyền:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa: nước Hạ Long.
Nhà thơ như nhập thân vào những người ngư dân trên biển cả mà cảm nhận tất cả vẻ đẹp vốn có của thiên nhiên. Biển đẹp và giàu có đã tô điểm cho sức sống của biển cả và làm cho bức tranh lao động thêm rực rỡ, tươi vui. Nghệ thuật liệt kê các loài cá: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song có tác dụng thể hiện sự giàu có của biển cả. Biển cả rất phong phú thủy hải sản, toàn loài cá hiếm, cá ngon ( chim, thu, nhụ, đé là tứ quý của biển Đông) đang đợi con người tới đánh bắt. Biển không chỉ giàu mà còn rất đẹp, rất thơ mộng. Điều đó được tạo nên bởi sự phối hợp màu sắc của thiên nhiên với sắc màu của các loài cá trên biển: lấp lánh, đen hồng, vàng chóe. Những con cá song hiện lên như những ngọn đuốc đen hồng đang bơi trong luồng nước dưới ánh trăng đêm. Những đàn cá tung tăng, bơi lội quẫy đuôi làm cho ánh trăng in xuống mặt nước như bị tan ra thành biển trăng “vàng chóe”. . Câu thơ cuối qua phép nhân hóa, khiến cho thấy vũ trụ hiện lên như một người khổng lồ, biển cả như một cái lồng ngực đang phập phồng những hơi thở đều đặn. Những ánh sao đêm in xuống mặt nước, thủy triều xô bóng sao dưới mặt nước mà tạo thành sao lùa nước Hạ Long. Và trong hình dung của nhà thơ, ấy chính là tiếng thở của đêm, của biển cả thiên nhiên sóng nước. Không gian biển cả chao nghiêng vừa như thực, vừa như hư, đậm chất lãng mạn bay bổng.
Và chính sự giàu đẹp của biển đã đem lại cho những người ngư dân vùng chài một mùa lao động bội thu:
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Hình ảnh người lao động kéo lưới "xoăn tay" là một nét vẽ tạo hình đầy góc cạnh, không chỉ cho thấy vẻ đẹp gân guốc, cường tráng mạnh mẽ của những bắp thịt trên cánh tay các chàng thanh niên khỏe mạnh mà còn cho thấy sức nặng như "ngàn cân" của những chùm cá nặng trĩu, đầy ắp. Ánh nắng hồng của bình minh hòa cùng với sắc màu của cá: “bạc”, “vàng” có tác dụng tô đậm thêm sự giàu có và quý giá “rừng vàng biển bạc” của biển cả mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Vì thế, con người như càng thấm thía biết ơn trước biển cả quê hương:
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Nghệ thuật so sánh và nhân hóa vừa cho thấy được tình cảm bao la, vĩ đại, cao cả của người mẹ biển cả tự nhiên; lại vừa bộc lộ niềm biết ơn sâu sắc của con người ngư dân đối với người mẹ thiên nhiên, vũ trụ.
Cuối cùng, vẻ đẹp thiên nhiên biển cả hiện lên lung linh, rực rỡ, chan hòa ánh sáng trong buổi sớm bình minh, cùng với đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về:
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Kết cấu vòng tròn đã tạo nên sự tuần hoàn của vũ trụ. Hình ảnh mặt trời ở khổ đầu đã mở ra tứ thơ và khép lại ở khổ cuối, diễn tả một chu trình hoạt động của một đêm đánh cá trên biển của người ngư dân vùng chài. Mặt trời với ánh sáng của bình minh tươi đẹp đã chiếu rọi vào đôi mắt cá như điểm tô cho thành quả lao động của con người thêm rực rỡ, huy hoàng. Mặt trời chiếu rọi vào những mắt cá khiến muôn mắt cá như muôn mặt trời tỏa ánh hào quang. Đồng thời, ánh sáng mặt trời chiếu rọi khắp muôn nơi trên biển cả đại dương mênh mông bát ngát ấy, không chỉ dừng lại ở việc khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn có ý nghĩa biểu tượng cho sự hồi sinh của đất nước, của nhân dân trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống mới sau bao nhiêu năm đọa đầy dưới làn bom, mũi súng của kẻ thù thực dân.
Tóm lại, qua vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên vùng biển, chúng ta thấy được khả năng quan sát, miêu tả cảnh vật thiên nhiên thật sinh động, tỉ mỉ, kĩ càng của nhà thơ; đồng thời cho thấy tưởng tượng bay bổng, phong phú cùng cảm hứng vũ trụ thật mãnh liệt của Huy Cận. Từ đó, làm cho bức tranh thiên nhiên như một bức tranh sơn mài đẹp, rực rỡ, cuốn hút lạ thường, góp phần làm tôn nên vẻ đẹp của con người lao động: khỏe khoắn, tươi vui, tràn đầy sức sống. Qua đó người đọc cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, niềm rung cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên và tình yêu cuộc sống, yêu con người của hồn thơ Huy Cận sau cách mạng.
- đoàn thuyền đánh cá
- bài thơ đoàn thuyền đánh cá
- phân tích đoàn thuyền đánh cá
- đoàn thuyền đánh cá huy cận
- bố cục đoàn thuyền đánh cá
- bức tranh thiên nhiên trong đoàn thuyền đánh cá
- cảm nhận đoàn thuyền đánh cá
- đặc sắc nghệ thuật bài thơ đoàn thuyền đánh cá
- bình giảng văn học
- văn mẫu
- văn hay
- những bài làm văn hay
- ngữ văn lớp 9
- ngữ văn ôn thi
- tác phẩm văn học ôn thi
- bài làm văn mẫu
- ôn thi cấp 3
- tác phẩm thơ lớp 9
- cảm nhận bức tranh thiên nhiên đoàn thuyền đánh cá
- bức tranh thiên nhiên trong văn học
Phù hợp với bạn
29-05-2025 Thông Còi
11-01-2024 Chanh
22-01-2024 Chanh
28-12-2023 Chanh
19-12-2023 Chanh