Top 10 bài văn mẫu giúp bạn phân tích Tự tình II dễ như trở bàn tay
- 1,149 views
- 6 likes
Hồ Xuân Hương là một trong những thi sĩ xuất sắc tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam. Được biết đến là một nhà thơ viết nhiều về thân phận phụ nữ, bà là người dũng cảm đề cao vẻ đẹp, sự hi sinh của người phụ nữ, đồng thời lên tiếng và phê phán gay gắt sự tàn bạo bất công của xã hội phong kiến xưa. Bà để lại số lượng tác phẩm khá nhiều, một trong số đó là chùm thơ Tự Tình hay tiêu biểu hơn cả là Tự Tình II. Một bài thơ khắc họa rõ nét nỗi buồn của người phụ nữ lỡ thì quá lứa, duyên phận hẩm hiu. Sau đây Topshare xin gửi đến bạn bài viết Top 10 tài liệu giúp bạn phân tích Tự tình II dễ như trở bàn tay.
1
Cảm nhận nỗi cô đơn, buồn tủi của người phụ nữ trong bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương

Nhà phê bình văn học Hegel đã từng nói: “Thi ca là thứ nghệ thuật chung của tâm hồn đã trở nên tự do, không bó buộc vào nhận thức giác quan vê vật chất bên ngoài. Thay vì thế nó diễn ra riêng tư trong không gian bên trong và thời gian bên trong của tác giả và cảm xúc”. Đúng, văn chương đích thực phải là thứ văn chương “chín đủ cảm xúc” (Xuân Diệu), cũng là thứ văn khi đọc lên mà ta như thấy được cả thế giới tâm hồn, tình cảm của người cầm bút, nhất định phải là thứ văn mà sau khi gấp lại, người ta vẫn bâng khuâng mãi khôn nguôi. Tự Tình II của Hồ Xuân Hương là một kiểu văn như thế. Nó khiến ta xúc động nghẹn ngào trước những tâm sự cay đắng của người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến, đồng thời trân trọng vẻ đẹp và khát vọng sống của họ.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đã mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Nửa đầu bài thơ là khoảng thời gian nghệ thuật “Đêm khuya”, khoảng thời gian thường gợi buồn nhất. Trong ca dao xưa, đêm khuya và chiều tà là lúc những làn sóng cảm xúc cuộn lên trong lòng người con xa xứ:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
Dịch bánh xe thời gian qua mảng văn học trung đại, khoảng thời gian này cũng xuất hiện khá nhiều tác phẩm văn học
“Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn”
(Bà Huyện Thanh Quan)
Dường như, trời chiều là lúc dòng tâm sự đọng lại, bước chân của đêm tối nặng nề chậm chạp khiến cho lòng người nặng trĩu. Đây cũng là lúc người vợ lẽ hay người góa phụ cảm nhận sâu sắc và thấm thía nhất nỗi bất hạnh cô đơ. Từng tiếng trống dồn dập, thúc giục, guồng quay thời gian cứ tiếp tục trôi đi mà nào có đợi chờ gì tuổi xuân của một người phụ nữ vân khao khát hạnh phúc lứa đôi nhưng sớm phải chịu cảnh chăn đơn gối chiếc.
Âm thanh tiếng trống lại “văng vẳng”, một thứ thanh âm hết sức mờ nhạt, mơ hồ, từ xa dội vào tâm hồn người phụ nữ. Quả thật, âm thanh từ xa nên mờ nhạt hay chính tâm hồn người phụ nữ đang xao động mải mê tìm kiếm một thứ phù du xa xôi nên thanh âm của tiếng trống nhạt mờ thoáng qua như một làn gió nhẹ.
Hồng nhan là một người con gái đẹp, nhưng “cái hồng nhan” gợi cho ta liên tưởng tới một vật vô tri vô giác. “Trơ cái hồng nhan”, cụm từ trần trụi, thô mộc gợi ra bóng hình người con gái đẹpnhưng tâm hồn lại quá chai sạn mọi cảm xúc, cảm giác. Đặt “hồng nhan” bên cạnh “nước non” ta đã phần nào thấy được sự đối lập giữa một bên nhỏ bé, một bên rộng lớn, một bên yếu ớt, một bên bao phủ choán ngợp khắp bốn phương. Tuy nhiên, sự đối lập ở đây không những không làm cho hình ảnh hồng nhan bị che khuất, bị lu mờ mà trái lại càng tô đậm cho mối sầu vạn kỉ, mệt mỏi, cô độc thấu tận tim gan.
Trong hoàn cảnh khổ đau, kiếp người đó tưởng như đã hóa đá nhưng không, thẩm sâu trong trái tim con người ấy là một tâm trạng bồn chồn không yên:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Tìm đến rượu để quên đi nỗi đau nhưng trớ trêu thay, càng uống, nỗi đau càng thấm thía, càng khắc sâu vào trong trái tim mong manh, yếu đuối. Say lại tỉnh, tỉnh lại say, quá trình diễn ra lặp đi lặp lại như một vòng tuần hoàn. Cuộc đời người phụ nữ chỉ chìm đắm trong chuỗi ngày tẻ nhạt cùng với tâm trạng u uất. Chợt ta nhớ đến nàng Thúy Kiều đáng thương, nàng cũng từng bị giam cầm trong chuỗi thời gian vô vị đó:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Hai con người ấy, hai thân phận khác nhau nhưng cùng chung một số phận, một hoàn cảnh, eo le đáng thương làm sao. Hình ảnh “vầng trăng bóng xế” có lẽ là một hình ảnh ẩn dụ hơn là một hình ảnh tả thực. Trăng xế bóng hay cũng là cuộc đời người phụ nữ đã ngả chiều. Trăng thường gợi kỉ niệm, gợi sự tròn đầy viên mãn của hạnh phúc lứa đôi, bao cuộc tình thủy chung nồng thắm cũng diễn ra dưới ánh trăng, nhờ vầng trăng chứng giám:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song”
Nhưng giờ đây, ánh trăng sắp tàn như cuộc tình dang dở của người phụ nữ đã đến hồi dang dở… Nhưng Xuân Hương là thế, một người phụ nữ không bao giờ chịu thua hoàn cảnh, luôn tìm cho mình một lối đi khác người, rất ngông, rất lạ đó, làm sao có thể để nỗi đau lấn át lí trí, tâm hồn? Trong tột cùng của khổ đau, cô độc, nữ sĩ vẫn tin ở chính mình, tìm thấy nguồn sức mạnh lớn lao để làm động lực:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”
Đưa con mắt lạc lõng ngắm nhìn mọi vật xung quanh, nhân vật trữ tình thấy “rêu từng đám” đang xiên ngang mặt đất, “đá” đang đâm toạc chân mây. “Xiên ngang, đâm toạc” là những động từ rất mạnh, cùng nghệ thuật đảo ngữ được sử dụng rất đắt đã diễn tả được sưc mạnh của sự sinh tồn trong những vật nhỏ bé, đơn sơ. Màu xanh non của rêu hiện diện trên sắc màu xám xịt của đất như khẳng định sức sống mãnh liệt của rêu. Không những thế, nó còn như biểu hiện của một tia hy vọng nhỏ bé nhưng hết sức thiết tha thoát khỏi xã hội đương thời phàm tục, dơ bẩn, cũng chính là thoát khỏi kiếp sống cô độc, lẻ loi như đang bóp nghẹt tuổi xuân của người phụ nữ.
Những hòn đá rắn rỏi chen vào khung trời rộng lớnnhưng trống trải cũng dủ làm khung cảnh trở nên sinh động hơn bao giờ hết. Chỉ với hai hình ảnh giản dị, nhỏ bé nhưng nữ sĩ đã đưa người đọc từ sự xót xa trước những khổ đau của người phụ nữ sang trân trọng sữ mạnh tinh thần, vẻ đẹp tính cách của họ. Đo cũng chính là một trong những nét độc đáo tạo nên cái “ngông” trong thơ của Hồ Xuân Hương. Tạo cho người đọc cảm giác mạnh, bất ngờ, đúng là chỉ có được trong nữ sĩ có một không hai của văn học Việt Nam.
Hai câu thơ cuối cùng:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Nhưng cho dù có thể hiện mình mạnh mẽ và đầy niềm tin như thế nào nhưng người phụ nữu vẫn không thể phủ nhận hiện thực khắc nghiệt. Hai câu cuối cùng cất lên như một tiếng thở dài đày chua xót, đắng cay, ngán ngẩm về kiếp sống của một kiếp hồng nhan bị giam cầm trong hai từ “định mệnh”. Tuổi xuân – nhan sắc, hai thứ một khi đã ra đi thì không bao giờ có thể quay lại. Mùa xuân của thiên nhiên đất trời như đã được lập trình để quay trong một vòng tuần hoàn không có điểm kết thúc, nhưng trớ trêu thay, mùa xuân của đời người lại hữu hạn, xuân năm ngoái có thể là sự cách biệt với xuân năm nay. Chính vì vậy, mỗi mùa xuân đi qua, người phụ nữ lại càng một héo hon, già nua trong sự vui tươi, hồi sinh của đất trời. Qua đây ta cũng thấy được ý thức của con người về bản thân mình với tư cách cá nhân, có ý thức về giá trị của tuổi thanh xuân và sự sống.
Mảnh tình có ý diễn tả chút tình cảm nhỏ nhoi nhưng ở đây lại phải san sẻ, cuối cùng chỉ còn lại là tí con con không đáng kể. Đọc câu thơ, ta thấy thâm trong từng câu chữ la tâm trạng xót xa cảu một người phụ nữ tài hoa bạc mệnh Hồ Xuân Hương. Cuộc đời của người phụ nữ ấy là một chuỗi những đắng cay tủi nhục, là cuộc đời của những dòng nước mặt lăn dài: qua hai lần đò đều không viên mãn. Làm lẽ ông Tổng Cóc, sau đó là ông phủ Vĩnh Tường nhưng cả hai lần, người phụ nữu bất hạnh này đều không có được hạnh phúc tương xứng.
Nhưng ẩn sâu trong từng câu chữ không phải là một sự tuyệt vọng, đau xót, càng không phải bởi vì đó chính là Hồ Xuân Hương – người phụ nữu mạnh mẽ, bản lĩnh, có đủ dũng cảm để đương đầu lại với cả hiện thực phong kiến, cả những quy tắc lễ giáo ràng buộc. Ta như thấy những tia hy vọng tuy nhỏ bé nhưng hết sưc mạnh mẽ, có cơ sở: thi sĩ vẫn muốnn tiếp tục đem san sẻ với mong ước chân thành đẻ cho nhân tình thế thái đỡ xanh như lá, bạc như vôi.
Bài thơ “Tự tình” không những thành công trên phương diện nội dung mà ở phương diện nghệ thuật cũng đạt được những thành tựu đáng kể. Cách sử dụng từ ngữ cảu Hồ Xuân Hương hết sức giản dị, giàu sức biểu cảm, táo bạo nhưng cũng không kém phần tinh tế. Cách sử dụng từ ngữ cũng góp phần tạo nên tính đa thanh của tác phẩm: khi thì tủi hổ phiền muộn, lúc phản kháng bực dọc, khi lại chua chát chán chường nhưng vẫn ánh lên niềm lạc quan hy vọng. Ngoài ra tác giả còn sử dụng những vế tiểu đối như “hồng nhan” – “nước non” hay phép tăng tiến,… Với những nét đặc sắc về nghệ thuật ấy, Hồ Xuân Hương đã góp phần hoàn thiện một tiếng thơ hết sức táo bạo, mới lạ cho nền văn học trung đại Việt Nam.
Cùng với “ Tự tình II”, Hồ Xuân Hương còn đóng góp rất nhiều tác phẩm khác vào nền văn học trung đại như “Bánh trôi nước”, “Cảnh làm lẽ”, “Quả mít”,… Nhưng dù viết về đối tượng nào thì cuối cùng điều mà nữ sĩ muốn phản ánh là số phận, cuộc đời cùng với tài năng và tính cách của người phụ nữu trongn xã hội phong kiến. Ngoài ra bà còn chĩa thẳng ngòi bút của mình vào cả một bộ máy phong kiến cổ hu, lạc hậu, ràng buộc moi quyền sống, quyền hạnh phúc của người phụ nữ bằng một thái độ mạnh mẽ, cứng rắn đậm chất “ngông” của bà, điều này lại một lần nữa tô đậm dấu ấn rất riêng trong phong cách nghệ thuật Hồ Xuân Hương lên văn đàn Việt Nam.
2
Bài phân tích Tự Tình II được 9 điểm có sử dụng trích dẫn từ ngôn tình

Tôi đã từng đọc trong một cuốn tiểu thuyết được câu nói:
"Nàng nắm tay ta,theo ta nửa đời phiêu bạt.
Ta hôn mắt nàng,che nàng nửa kiếp lênh đênh."
Lúc đó,tôi liền có thể cảm nhận được,đối với người phụ nữ,dù trong bất kỳ thời đại hay hoàn cảnh nào,mong ước nhỏ bé của họ vẫn là có được một hạnh phúc trọn vẹn cho riêng mình,có một người đàn ông luôn luônởbên họ"nửa đời phiêu bạt",che chở họ suốt nửa kiếp lênh đênh.
Nhưng trời trêu ngươi,'hồng nhan bạc mệnh,tài nữ Hồ Xuân Hương của nước ta ngay cả niềm hạnh phúc nhỏ nhoi đó cũng không có.Mặc dù bà là người tài năng,đi được nhiều nơi,quen biết nhiều danh sĩ nhưng lại chẳng tìm được lang quân như ý.
Bà gửi gắm sự buồn bã của mình vào thơ,viết ra những bài thơ về phụ nữ,vừa ca ngợi họ lại như có nỗi niềm thông cảm cho số phận đau chung.Trong đó có bài thơ'Tự tình II vô cùng nổi bật nói về tâm trạng bi phẫn,đau thương của Hồ Xuân Hương khi đã cố gắng đứng lên tìm hạnh phúc nhưng đổi lại chỉ là hiện thực phũ phàng.Bài thơ nằm trong chùm ba bài'Tự tình của bà,chỉ vẻn vẹn 8 câu,mỗi câu 7 chữ:
Đêm khuya văng vằng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất,rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây,đả mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.
Bốn câu đầu của bài thơ đã nói lên tâm trạng của Hồ Xuân Hương trong buổi đêm tĩnh mịch.Thử tưởng tượng xem,một người phụ nữ yếu đuối,trong'đêm khuya vắng,ởkhông gian nước non rộng lớn,tai'văng vẳng tiếng trống canh dồn'có bao nhiêu bơ vơ,bao nhiêu sầu tủi?
Chẳng những vậy,trong câu thơ thứ hai,cụm từ'hồng nhan vốn để chỉ người phụ nữ đẹp nhưng Hồ Xuân Hương lại cho nó đi với từ'cái-cụm từ đó nhuốm chút đau thương khi vẻ đẹp của người phụ nữ quý giá là thể mà không được coi trọng.
Người xưa hay nói uống rượu giải sầu,Hồ Xuân Hương cũng vậy,bà tìm đến rượu mong hơi men có thể giúp bà say,giúp bà quên đi,nhưng càng uống say càng khiến tâm thêm tỉnh,nỗi chua xót cứ vậy mà dâng cao.Các nhà thơ khác thường dùng hình ảnh vầng trăng để nói lên nỗi lòng nhớ nhà,nhớ cố hương da diết như Lý Bạch trong bài'Tĩnh dạ tứ':
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.
Nhưng trong bài Tự tình II tác giả đã dùng nó cho mục đích khác,mượn chu kỳ tròn khuyết của ánh trăng để nói lên nỗi đau thân phận,trăng đã tròn nhưng tình còn khuyết,càng nghĩ càng tủi thân! Bốn câu thơ trên đã nói lên tâm trạng buồn bã bị thương của Hồ Xuân Hương trong buổi đêm vắng vẻ dưới ánh trăng u buồn. Mà tâm tư Hồ Xuân Hương đâu chỉ có thế !Trong bài thơ nào của bà cũng có những câu nói lên sự kiên cường bất khuất. Điển hình là bài' Bánh trôi nước':
"Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son."
Mặc dù có cuộc đời bảy nổi ba chìm'nhưng bà vẫn giữ được tấm lòng son không hề phai nhạt. Còn trong Tự tình II,sự kiên cường đó lại được miêu tả theo cách khác:
'Xiên ngang mặt đất,rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây,đá mấy hòn.
Ở đây,bà dùng phương pháp đảo ngữ kết hợp động từ mạnh'xiên ngang','đâm toạc,giọngđiệu mạnh mẽ như chém đinh chặt sắt,dùng hình ảnh rêu đá để nói về bản thân.Rêu đá tuy nhỏ bé,nhỏ bé như số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.Nhưng đâu phải nhỏ bé
là sẽ buông xuôi?
Bà giống như rêu đá,dù có bị chôn vùi dưới lớp bùn đen vẫn ngạo nghễ vươn lên chống chọi số phận nghiệt ngã,tự tìm hạnh phúc cho mình.Tâm tư của bà trong hai câu thơ đó khiến người khác vạn phần bội phục.
Nhưng đến cuối cùng sự nỗ lực kiên cường đó đổi lại được những gì?Chẳng được gì cả,mà ngược lại khiến bà càng ngày càng buông xuôi.Người ta hay nói'hy vọng càng nhiều thất vọng càng sâu,Hồ Xuân Hương đâu chỉ hy vọng đơn thuần mà bà còn tự thân cố gắng vươn lên nhưng vẫn thất bại. Thử hỏi,so với người chỉ biết hy vọng,nỗi thất vọng của bà sâu bao nhiêu?Cũng có người nói
'Chờ đợi không đáng sợ,đáng sợ là không biết phải chờ đến bao giờ",Hồ Xuân Hương cũng chờ đợi.Bà ngán ngẩm trông chờ mãi đến khi mùa xuân vùn vụt trôi còn tuổi'xuân"dần hết.
Câu'Mảnh tình san sẻ tí con con,bà dùng biện pháp tăng tiến theo hướng giảm dần.Từ'mảnh tình"đến'san sẻ'rồi'tí cuối cùng là'con con'.Chỉ mỗi chữ'mảnh thôi đã thấy tình cảm của Hồ Xuân Hương nhận được đã vô cùng nhỏ bé vậy mà còn bị chia sẻ với người khác.
Bi thương bao nhiêu,chỉ có thể cười tự giễu!Nỗi bi kịch đó không phải chỉ mình bà gánh chịu. Trong cái xã hội phong kiến xem phụ nữ như rơm rạ này,nỗi đau chỉ có thể chôn giấu trong lòng hoặc gửi gắm vào thơ,như vậy làm con người ta càng thêm đau khổ.
Trong bài thơ ta có thể thấy được tác giả dùng giọng điệu có lúc bi thương,có lúc mạnh mẽ kiên cường,khi lại buông xuôi tất cả.Nó kết hợp với biện pháp tu từ tăng tiến theo hướng giảm dần,đảo ngữ cùng cách sử dụng động từ mạnh,từ láy một cách khéo léo làm cho bài thơ trở thành một tuyệt tác.
Bằng giọng thơ thay đổi liên tục,lúc buồn,lúc mạnh mẽ,lúc thất vọng,Hồ Xuân Hương đã thành công diễn tả được từ tâm trạng buồn tủi của bản thân trong đêm vắng cho đến sự mạnh mẽ kiên cường như rêu đá và rồi sự thất vọng nặng nề của bà khi phải chứng kiến cảnh cuộc tình của mình không được trọng vẹn,phải chia sẻ cùng người khác.
Đó cũng là bi kịch chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.Ngày nay,khi xã hội phát triển,vị thế của người phụ nữ ngày càng được nâng cao,không biết người phụ nữ ngày nay nhìn về những người phụ nữ phong kiến sẽ động được bao nhiêu lòng trắc ẩn?".
Bài viết của bạn Nguyễn Thụy Mỹ Huyền (17 tuổi,THPT Phước Hạnh 2,Tiền Giang)
3
Phân tích Tự tình II

Một nhà phê bình văn chương nổi tiếng đã từng đưa ra một quy luật : “Văn chương, thơ ca là tấm gương phản chiếu của tâm hồn, là tiếng nói tình cảm của nhân loại, là những rung động của trái tim trước cuộc đời tươi đẹp. Những giá trị tinh thần mà văn chương, thơ ca đem lại, đã thoát khỏi cái quy luật băng hoại của thời gian, để trường tồn mãi mãi”. Không nằm ngoài quy luật đó, Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng muốn để lại cho hậu thế những tác phẩm hoàn mỹ, đạt đến sự xuất sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất là bài thơ Tự Tình thứ 2 – Là tiếng nói thương cảm đối với số phận hẩm hiu của người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến, đồng thời để cao vẻ đẹp và khát vọng sống của họ.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Với thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật được viết theo ngôn ngữ Nôm thuần Việt, bài thơ có lẽ đã được nữ sĩ viết về cuộc đời của chính bản thân mình, torng một phút suy tư. Nữ sĩ đã cảm nhận cuộc sống qua những âm thanh, quang cảnh lạnh buồn, vắng lặng và tự cảm thương cho số phận hẩm hiu của bà. Đó cũng là số phận chung của những người phụ nữ trong Xã hội đương thời..
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Hai câu thơ mở đầu trên còn được gọi là hai câu thơ ĐỀ trong thể thơ độc đáo này. Nhắm mắt suy nghĩ về cuộc sống, từng nhịp thở của người phụ nữ trong đêm khuya lạnh tanh hoà theo tiếng trống thông báo dồn dập, diễn tả sự qua đi nhanh chóng của thời gian. Đêm nay, người phụ nữ đang lẻ loi, cô độc một mình. Không còn một âm vang nào khác, không còn những tiếng ồn ào náo nhiệt của một ngày dài, chỉ còn tiếng trống canh cùng người phụ nữ. Từ “Trơ” – một trong những từ ngữ thể hiện sự chua chát của cuộc đời và sự đối lập giữa vẻ đẹp “Hồng nhan” – “Nước non”. Tại sao nữ sĩ Hồ Xuân Hương lại đặt mình vào trong nhân vật với một không gian buồn bã, tàn lụi đến như vậy? Đối với riêng nữ sĩ khi đối mặt với cái thực tế đó, tâm trạng bà thế nào? Phải chăng bà muốn diễn tả thân phận không chỉ của riêng bà, mà còn là của những người phụ nữ khác trong cái quy luật cổ hủ, vô nhân đạo “Hồng nhan bạc phận” ? Hay cái thân phận phải đi làm “Vợ lẽ” – Không được tôn trọng cả về phẩm giá và tâm hồn ? Thật đớn đau …
Bước qua hai câu thơ kế, cũng là hai câu thực, liệu rằng ta có cảm nhận được diều gì trong sáng hơn, tươi đẹp hơn hay không ?
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Trong cái không gian cô quạnh không bóng người của bầu trời đêm, người phụ nữ tìm đến những chén rượu để giải thoát mình khỏi nỗi sầu não của cuộc đời. Thật độc đáo khi sử dụng nghệ thuật “Mượn cảnh ngụ tình” trong hai câu thực này. Nỗi buồn đau, tụi nhục – như đã đề cập ở trên, có thể là thân phận làm vợ lẽ, phải chịu sự ghen ghét, cay nghiệt của người vợ cả ? Một chút hương rượu nồng có thể đã đưa người phụ nữ đến những giấc mơ trong cơn mê để xoa dịu những nỗi đau trong giây phút thực tại. Nhưng… Càng về khuya, khi tiếng trống canh dãn dài ra, thời gian bắt đầu chậm lại, thì cũng là lúc mùi hương nhè nhẹ của những chén rượu không còn tác dụng. Người phụ nữ chợt bừng tỉnh về phút giây hiện tại chan chứa nỗi buồn. Ba từ : “Say lại tỉnh” đã chứng minh được điều đó. Càng uống càng tỉnh, cảng tỉnh lại càng nghĩ suy. Trong cái “Bóng xế khuyết chưa tròn” của Vầng trăng tưởng chừng như êm đềm, phải chăng tác giả đang nghĩ về nhan sắc của mình đang tàn phai theo năm tháng, mà tình duyên vẫn chưa thể vẹn toàn? Ánh trăng đêm là ánh trăng cuả kỷ niệm, của hẹn ước yêu đương, của bao đôi tình nhân. Ánh trăng cũng là biểu tượng của sự thuỷ chung của bao tình yêu đôi lứa. Giờ đây, ánh trăng đó sắp tàn và đang dần khuất bóng sau những rặng dừa cao, người phụ nữ vẫn chưa thể chìm sâu vào giấc ngủ. Trăng chưa thể tròn, như cuộc tình dang dở của người phụ nữ. Có lẽ, nữ sĩ Hồ Xuân Hương muốn đưa cái sự suy nghĩ về lẽ đời, về sự hạnh phúc mà tác giả đang mong đợi vào chính tâm trạng của nhân vật.
Trong lúc suy tư đó, mà đối với những bạn trẻ đang hạnh phúc là vầng trăng cổ tích, còn đối với người phụ nữ là ánh trăng suy tư, tác giả đã đánh động người đọc ra khỏi sự suy nghĩ về nỗi đau của phái đẹp trong xã hội phong kiến lạc hậu bằng hai câu thơ luận :
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”
Ánh mắt ngước nhìn bầu trời đếm có trăng, có sao, có mây trôi, có gió thổi tự lúc “Trống canh dồn”, giờ đây người phụ nữ lạc lõng đó đang ngắm nhìn những sự vật xung quanh mình. Có lẽ nào người phụ nữ ấy đang dạo quanh đâu đó trong khung cảnh khi bình mình chưa ló dạng, và phát hiện ra một sự thật hiển nhiên mà lâu nay không một ai để ý đến? Những động từ mạnh mẽ như “Xiên ngang” – “Đâm toạc” được sử dụng trong phép đảo ngữ đã toát lên được sức mạnh của sự sinh tồn từ trong những sự vật nhỏ bé. Giữa mặt đất đầy đất và đá, đâu đó mọc lên một nhành cây con con, xanh tươi. Cũng đâu đó dưới khung trời rộng lớn nhưng trống trải, những hòn đá tuy nhỏ bé thôi, cũng đủ làm khung cảnh trở nên sinh động… Ta đang cảm nhận được sức mạnh của thiên nhiên. Những ngọn cỏ tí hon hay những sự vật vô tri như hòn đá kia, đã được tác giả tô điểm bằng nghệ thuật vô cùng độc đáo. Chính điều đó đã đánh thức người đọc ra khỏi tâm trạng u uẩn của người phụ nữ cô đơn trong bóng đêm. Ta cũng cảm nhận được sức sống mãnh liệt để sinh tồn, dù trước mắt hiện tại đang rất rất khó khăn của từng sự vật thiên nhiên. Nếu như thế, phải chăng tác giả đang hướng người đọc đến sự hạnh phúc, niềm tin ở tương lai, dù khó khăn, bất hạnh ở phút hiện tại, đối với nhân vật trong bài thơ, với tác giả hay toàn thể những người phụ nữ trong Xã hội phong kiến? Dưới góc nhìn của chúng ta ở thời này, có thể cho là như vậy. Với hai câu Luận này, khát vọng sống và được sống, yêu và được yêu của nữ sĩ được thể hiện vô cùng quyết liệt ! Thật là một người phụ nữ có ý chí và niềm tin
Tưởng chừng như cảnh cửa cuộc đời đang mở ra cho người phụ nữ và toàn thể phái đẹp trong Xã hội phong kiến một hạnh phúc và niềm tin mới, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã kéo chúng ta về suy nghĩ hiện tại, cũng chính là hai câu thơ kết, vừa chua xót, vừa đắng cay của cuộc đời :
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Tâm trạng mong mỏi chờ đợi của người phụ nữ lại trở về khi ngày mới bắt đầu. Quy luật của thời gian chính là chỉ trôi theo một chiều chứ không tương tác song song. Xuân đến rồi Xuân lại đi. Ngày xuân hôm qua cũng chẳng giống ngày xuân hôm nay. Mùa xuân năm sau cũng khác hẳn mùa xuân năm nay. Chẳng có sự vật gì có thể thoát khỏi quy luật chung đó. Thế nhưng Xuân thì có thể đến, chứ người thì không thể trường tồn mãi mà không già đi. Tuổi xuân – là nhan sắc mà mỗi ngày một phai tàn của những “Hồng nhan”. Người phụ nữ ấy vẫn mong chờ một ngày nào đó được cảm nhận hạnh phúc trọn vẹn thật sự, bằng cả trái tim nồng cháy của người đối diện, để nàng có thể trao đi tất cả những gì được gọi là sự thuỷ chung, sự vẹn toàn của tình yêu. Đó cũng là nỗi uất ức khi “Tình đã nhỏ, mà còn xé nhỏ hơn” thì cũng tương tự việc chia cắt trái tim. Thật không còn gì có thể diễn tả được nỗi đau đó. Bằng nghệ thuật tăng tiến giảm dần, ta thấy được sự ít ỏi, nhỏ bé của hạnh phúc trong cảnh cái cảnh chồng chung đáng phê phán, chê trách ấy…
Có lẽ khi đọc đến đây, chúng ta mới cảm nhận được nỗi đau khổ đau đáu cũng những người phụ nữ thầm lặng, hi sinh cho chồng cho con, hay những số phận hẩm hiu khác trong xã hội đương thời. Bài thơ “Bánh trôi nước” cuản hà thờ cũng từng thể hiện được nội dung tương tự. Thế nhưng trong cái xã hội này, ta cũng thấy được những người phụ nữ được sống trong hạnh phúc, được sự quan tâm, yêu thương của chồng con, dù cuộc đời có bôn ba vất vả. Tiêu điểm cho nhận định này chính là bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương. Nói cho cùng thì bất kỳ ai, sống trong thời kỳ nào thì cũng có nỗi khổ riêng của chính họ mà thôi…
Nhà thơ Hồ Xuân Hương với tác phẩm Tự Tình là một trong những bản thơ Nôm hay nhất, diễn tả chân thực đời sống bất hạnh của người Phụ nữ Việt Nam xưa, đồng thời thể hiện được tài năng, sự ngang tàng của bà chúa thơ Nôm này. Tác phẩm xứng đáng đứng trong bộ thơ Nôm hay nhất nền văn học trung đại Việt Nam. Ngoài ra tác phẩm cũng thể hiện được ước nguyện cháy bỏng của tất cả phụ nữ của mọi thời đại. Giá trị của bản thơ vẫn còn, thậm chí là rất được đánh giá cao sau hơn 200 năm sáng tác. Hi vọng xã hội này sẽ không còn người phụ nữ nào phải chịu nỗi đau, nhục nhã, để không còn ai phải viết lên những nỗi đau thương về số phận đáng thương, như nhà thơ Hồ Xuân Hương cách đây 200 năm nữa …
4
Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương

Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Mỗi bài thơ là tiếng hát của trái tim, là những cảm xúc chân thành mà mãnh liệt của người nghệ sĩ. Bởi vậy, Diệp Tiến cho rằng, “ thơ là tiếng lòng”. Trong số những “ tiếng lòng” trong thơ, ta bắt gặp nỗi lòng người phụ nữ sống trong xã hội xưa đầy xót xa, tủi hổ, nổi bật là Hồ Xuân Hương với tác phẩm “ Tự tình II”.
Thơ là thư kí trung thành của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ phản ánh cuộc sống con người, xã hội để qua đó, nhà thơ bộc bạch nỗi lòng mình. Họ như những con ong chăm chỉ bay xa để đem về hương phấn làm nơi mật ngọt, tái tạo tài tình bằng những cảm xúc cá nhân để tạo mật ngọt toả ngát cho đời.
Trong những con ong chăm chỉ như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu,…Hồ Xuân Hương nổi lên là một hiện tượng văn học độc đáo chuyên viết về phụ nữ với thể loại trữ tình và trào phúng, kết hợp văn học dân gian và văn học bác học. Xuyên suốt các tác phẩm của bà là nỗi lòng người phụ nữ với những đau xót, buồn tủi về thân phận và khao khát một cuộc sống hạnh phúc, tự do. Bài thơ “ Tự tình II” đã thể hiện rõ điều đó.
Mở đầu bài thơ, chúng ta như đồng cảm với tâm trạng cô đơn, buồn tủi của Hồ Xuân Hương:
“ Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Câu thơ mở ra không gian vắng lặng, yên tĩnh trong đêm khuya tĩnh mịch. Trong không gian nghệ thuật ấy, cùng với bước đi vội vã của thời gian “ trống canh dồn”, “ trơ” lại “ cái hồng nhan với nước non”. “ Trơ” nghĩa là trơ trọi gợi lên nỗi cô đơn, cô độc nhưng cũng có nghĩa là trơ trẽn gợi lên nỗi xấu hổ, bẽ bàng. “ Trơ” lại một “ cái hồng nhan” gợi lên sự mỉa mai, rẻ rúng cùng nỗi tủi hổ, bẽ bàng, cô đơn của một thân phận phụ nữ nhỏ bé và bất hạnh.
Không chỉ cô đơn, buồn hổ, bài thơ còn thấm đượm nỗi xót xa, bẽ bàng, nỗi đau thân phận của nhân vật trữ tình:
“ Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”
Cụm từ “ say lại tỉnh” tạo nên một vòng luẩn quẩn cho câu thơ cũng là vòng luẩn quẩn của thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Mượn rượu để men cay làm quên sự đời, quên đi những tủi hổ, bẽ bàng nhưng, hơi rượu cũng không thể xua tan đi nỗi đau thân phận. Như vậy, uống rồi say, say rồi tỉnh, tỉnh rồi đau, đau rồi lại uống…
Ở đây, người phụ nữ đau bởi nhận thức rõ “ vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”. Hình ảnh ẩn dụ đầy sức gợi thể hiện rõ nỗi đau tột cùng của nhân vật trữ tình bởi tuổi xuân sắp qua đi như “ vầng trăng bóng xế” mà nhân duyên chưa trọn vẹn nên “ khuyết chưa tròn”. Dường như càng khao khát một hạnh phúc nhỏ nhoi, người phụ nữ càng xót xa, đau đớn cho phận mình.
Đau đớn, xót xa ắt dẫn đến phẫn uất, phản kháng. Người phụ nữ đã phản kháng lại số phận để mong muốn thay đổi cuộc đờ:
“ Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”
Phép đảo ngữ đưa những động từ mạnh “ xiên ngang”, “ đâm toạc” lên đầu câu nhấn mạnh sự phẫn uất phản kháng của người phụ nữ. “ Rêu”, “ đá” là những vật vô tri, bé nhỏ, yếu mềm chính là thân phận người phụ nữ tuy nhỏ bé, tầm thường, vô dụng trong xã hội “ trọng nam khinh nữ” nhưng cũng mang sức mạnh phản kháng, đấu tranh đòi quyền sống, quyền hạnh phúc.
Quyền được sống, được tự do yêu đương và nhu cầu hạnh phúc là điều nhỏ nhoi mà bất kỳ người phụ nữ nào cũng được hưởng. Nhưng, chế độ xã hội xưa không cho phép họ được sống với quyền lợi chân chính của mình. Xã hội với tư tưởng “ trọng nam khinh nữ”, với quan niệm vạn đời bất biến “ trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”…đã ngang nhiên chà đạp lên cuộc đời người phụ nữ. Cố ngoi đầu lên họ lại bị dìm xuống sâu hơn nữa. Cố phản kháng họ lại chuốc thêm đau buồn:
Mối tình san sẽ tí con con.”
Câu thơ thể hiện nỗi chán chường, ngao ngán khi tuổi xuân con người ra đi mà không bao giờ trở lại. “ Xuân” vừa là mùa xuân của đất trời vừa là tuổi xuân của con người. Cùng là “ xuân” thế nhưng xuân của đất trời đi rồi đến còn xuân của con người một đi không trở lại. Bởi thế, sao tránh khỏi nỗi đau buồn, tủi hổ!
Đã nhiều lần chính nhà thơ lên tiếng “ chém cha cái kiếp lấy chồng chung” nhưng rồi lại đau buồn bởi quy luật “ gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi” ( Nguyễn Du). Khao khát hạnh phúc trọn vẹn nhưng cuối cùng chỉ còn lại sự xót xa của một thân phận hai lần làm lẽ.
“ Mảnh tình san sẻ tí con con.”
Chỉ đơn độc, duy nhất một “ mảnh tình” nhưng cũng phải “ san sẻ” từng “ tí con con”. Tấm lòng cô độc mềm yếu nhưng cũng chẳng được vẹn toàn. Trong xã hội phong kiến, hạnh phúc với người phụ nữ như một chiếc chăn quá hẹp, người này ấm thì người kia lạnh “ kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”…
Cả bài thơ “ Tự tình II” toát lên nỗi đau thân phận của Hồ Xuân Hương cũng là nỗi đau của tất cả người phụ nữ trong xã hội đương thời. Đó là tâm trạng vừa đau buồn, vừa phẫn uất trước duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Tất cả khái quát thành quy luật như Nguyễn Du đã viết trong “ Truyện Kiều”:
“ Đau đớn thấy phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”
“ Tự tình II” giúp người đọc thấu hiểu nỗi đau thân phận và khát vọng mạnh mẽ muốn vươn lên số phận của người phụ nữ qua nỗi đau và khát vọng của Hồ Xuân Hương nhưng cũng giúp ta nhận ra và trân trọng tài năng độc đáo của “ Bà chúa thơ Nôm” trong nghệ thuật sử dụng từ ngữ và xây dựng hình ảnh. Quả là “ Nghệ thuật làm nên câu thơ, trái tim làm nên thi sĩ”.
“ Tự tình II” chính là tiếng lòng của Hồ Xuân Hương đúng như nhận định “ Thơ là tiếng lòng” của Diệp Tiến. Tiếng lòng thiết tha vừa u buồn vừa phảng phất ánh sáng của khao khát, ước mơ hạnh phúc như một viên ngọc sáng thách thức bước đi nghiệt ngã của thời gian. Qua bao thế kỷ, Hồ Xuân Hương cùng tiếng thơ “ Tự tình” vẫn in sâu trong tâm trí độc giả ngàn đời.
Nguồn: Viết văn học trò
5
Bài phân tích Tự tình II của Hồ Xuân Hương cực hay

Hồ Xuân Hương là nhà thơ nổi tiếng của dân tộc Việt Nam, trong đó có bài thơ ’’Tự tình’’ thể hiện được nỗi lòng của người phụ nữ, những nỗi niềm cô đơn không thể lí giải. Trong văn học Trung Đại, thơ Hồ Xuân Hương là hiện tượng độc đáo, nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ bằng phong cách thơ trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian. Từ đề tài, cảm hứng, ngôn ngữ,hình tượng. Nổi bật trong sáng tác của Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ, sự khẳng định đề cao vẻ đẹp và khát vọng sống, khát vọng mãnh liệt trong trái tim họ. ‘’ Tự tình II ‘’ có thể được coi là bài thơ hay nhất trong sáng tác của Hồ Xuân Hương ‘’ chùm thơ ba bài thơ tự tình ‘’.
Bài thơ bộc lộ trực tiếp ‘’cái tôi‘’ đầy cảm xúc và bản lĩnh của mình trước cuộc sống. Bài thơ thể hiện nỗi buồn, nỗi cô đơn thấm thía của một con người yêu đời, tràn đầy sâu sắc. Những cảnh ngộ éo le, một con người luôn khao khát tình yêu nhưng gặp toàn dở dang bất hạnh, nhưng con người ấy chưa bao giờ từ bỏ khát vọng sống, hạnh phúc. Sự cô đơn, buồn tủi, lẻ loi khi cảm nhận được sự bẽ bàng, tủi hổ của nhân vật.
‘’ Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non ‘’
Mở đầu bài thơ tác giả đã nói đến khung cảnh và không gian nhân vật trữ tình đang đứng đó là lúc đêm khuya, mọi vật đang chìm trong giấc mộng, con người đang say nồng trong cơn say. Không gian là tiếng trống canh dồn, lúc nửa đêm, mọi vật như đang chìm vào bóng đêm, văng vẳng, tiếng trống, trong không gian tĩnh mịch đó còn có tiếng trống làm lay động thêm âm thanh của tác phẩm. Đêm khuya thanh vắng là lúc con người thường đối diện với chính mình.Đây là lúc âm thanh cuộc đời dường như không động đến con người, xong con người lại cảm nhận được bước đi của cuộc đời. Từ láy ”văng vẳng” được nữ sĩ dùng thật tự nhiên, tinh tế giúp ta nhận ra được không gian mênh mông và cũng là âm thanh theo gió vọng về gợi sự cô đơn, lạc lõng. Cảm thức về thời gian luôn gắn liền với ý thức cái tôi cá nhân, ý thức cái tôi càng trưởng thành thì cảm thức về thời gian càng trôi chảy mãnh liệt. Bởi vậy, âm thanh trống canh dồn cũng là thứ âm thanh của tâm lí, nó dồn nén vào lòng người, nhất là lòng người phụ nữ cô đơn:
”Trơ cái hồng nhan với nước non ‘’
Trong phép đảo ngữ, nữ sĩ đặt từ ‘’trơ ‘’lên đầu câu gây ấn tượng mạnh mẽ,nhân vật trữ tình mang những tâm trạng: lẻ loi trơ trọi, cũng thật bẽ bàng, tủi hổ. Như trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có câu thơ:
”Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ”.
Từ ”trơ” mang ý nghĩa mỉa mai xót xa khi đi với ”cái hồng nhan”. Bởi ‘’hồng nhan‘’ là gương mặt má hồng, đồng thời để nói người đàn bà đẹp đáng lẽ phải được trân trọng nâng niu. Nhưng Hồ Xuân Hương dùng từ‘’cái‘’đặt trước danh từ ‘’hồng nhan‘’ gợi sự xem thường, rẻ rúng.Hồng nhan với bạc phận,câu thơ phác họa ra tâm trạng phẫn uất, cay đắng và xót xa, ngậm ngùi. Trong đau khổ, Xuân Hương vẫn vững vàng dám lấy cái tôi cá nhân ”hồng nhan” để thách thức với cả xã hội, cuộc đời ”nước non”. Những cảm xúc đó bộc lộ sâu sắc qua những dòng thơ đầu, người phụ nữ đó đang cô đơn, lạc lõng trong không gian mênh mông, rộng lớn, cảnh vật và con người nơi đây đang chơi vơi trong những cảm xúc mênh mang.
Sự thấm thía duyên phận của mình trong vòng luẩn quẩn, tình duyên trở thành trò đùa về tuổi xuân, cuộc đời, hạnh phúc tình yêu. Đằng sau đó là niềm khao khát về tình yêu.
‘’ Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn ‘’
Tên của bài thơ là ‘’tự tình‘’ bởi thế câu thực đã thể hiện tình cảnh của Hồ Xuân Hương. Thi nhân ngồi một mình trong cô đơn, đối diện với đêm khuya, vầng trăng lạnh lẽo càng thấm thía thân phận của mình. Nỗi buồn đó là người con gái phải tìm đến rượu, say lại tỉnh, nỗi cô đơn đó ngày càng trĩu nặng trong không gian rộng mở và ngày càng làm cho con người văng vẳng những nỗi buồn cô đơn.Hình tượng’’vầng trăng bóng xế’’ được đồng nhất như biểu tượng ẩn dụ cho thân phận, cuộc đời của người phụ nữ nói riêng, Hồ Xuân Hương nói chung.
Đó còn là cái tôi mạnh mẽ, bản lĩnh dám phản kháng, phẫn uất muốn đạp đổ xã hội :
‘’ Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn ‘’
Con người đang cô đơn, lạc lõng trước không gian, mênh mông của những nỗi cô đơn, trơ trọi, trước không gian mênh mông, ở đó có nhiều sự chênh vênh trong cuộc sống. Tứ thơ đột ngột chuyển biến từ viết nói thực cảnh và thực tình của nhân vật ở câu thực thì đến đây nỗi niềm phẫn uất như dồn nén, nó không ở yên trong lòng, nó trào ra và thấm vào cảnh vật. Cỏ cây, hòn đá không chịu mềm yếu mà sẵn sàng phản kháng lại, bứt phá để giải thoát. Bút pháp đảo ngữ trong câu thơ làm nổi bật sự phẫn uất không chỉ của đá, rêu, cỏ cây mà cũng là sự phẫn uất trong tâm trạng của con người. Cách sử dụng động từ mạnh ’’xiên-đâm’’ kết hợp với bổ ngữ’’ngang-toạc’’ độc đáo góp phần thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh. Đó phải chăng là bản lĩnh, độc đáo riêng của Hồ Xuân Hương?.
Cuối cùng là sự chán ngán, ngán ngẩm khi cảm nhận về nỗi đời éo le, bạc bẽo, xót xa về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa với duyên tình hẩm hưu, cay đắng và bất lực trước số phận.
‘’ Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con! ‘’
Hai câu cuối nói lên khát khao hạnh phúc của người phụ nữ, ở đó nói lên thời gian ngắn ngủi của tuổi thanh xuân. Bi kịch của Hồ Xuân Hương ở chỗ chưa bao giờ nữ sĩ buông xuôi, chấp nhận đầu hàng trước cảnh ngộ, số phận. Người phụ nữ ấy luôn khao khát tình yêu, hạnh phúc, luôn vẫy vùng kiếm tìm tình yêu, vậy mà cuối cùng phải cất tiếng thở dài ngao ngán. Nữ sĩ ngán lắm cái nỗi đời éo le, bạc bẽo này. Dường như đó cũng là sự ra đi của tuổi xuân của con người bởi’’tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại’’. Câu thơ nhói lên bao nỗi xót xa. Kết thúc bài thơ là cách nói giảm dần làm cho nghịch cảnh thêm éo le hơn’’mảnh tình san sẻ tí con con’’.’’Mảnh tình’’đã bé nhỏ lại còn’’san sẻ’’ nên càng nhỏ bé hơn. Thật là tội nghiệp, nỗi đau của người phụ nữ càng đọng lại,tăng thêm theo từng năm tháng, khiến cho tâm hồn trơ trọi. Đối với người phụ nữ ấy ’’hạnh phúc là chiếc chăn quá hẹp’’, bởi vậy luôn phải cảm nhận nỗi cô đơn, đau đớn.
Tác phẩm đã nói lên tâm trạng buồn cô đơn của người phụ nữ, nhưng thể hiện được khát khao mãnh liệt của người phụ nữ mong ước hạnh phúc, thể hiện những khát khao cháy bỏng của con người. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã cất lên tiếng nói đồng cảm sâu sắc với số phận của người phụ nữ. Với tinh thần phản kháng mạnh mẽ và những khát vọng hạnh phúc,tha thiết tràn đầy giá trị nhân đạo và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tất cả đã tạo nên sức hấp dẫn và sức sống lâu bền của bài thơ trong sự nghiệp sáng tác của Hồ Xuân Hương.
Nguồn: Viết văn học trò
Phù hợp với bạn
29-05-2025 Thông Còi
11-01-2024 Chanh
22-01-2024 Chanh
28-12-2023 Chanh
19-12-2023 Chanh