Top 10 bài văn phân tích nhân vật Lão Hạc của nhà văn Nam Cao hay nhất
- 1,905 views
- 1 likes
Lão Hạc là một truyện ngắn của nhà văn Nam Cao được viết trước cách mạng tháng tám lịch sử. Tác phẩm đã phơi bày cho người đọc thấy được sự tàn ác, thâm độc và những âm mưu của bọn thực dân Pháp để đàn áp và bốc lột nhân dân. Mà trong đó nhân vật Lão Hạc được coi như đại diện cho tầng lớp nông dân bần cùng khốn khổ trong xã hội lúc bấy giờ. Mặc dù trong xã hội ấy nhưng con người vẫn thể hiện được giá trị con người qua nhân vật Lão Hạc. Và hôm nay mình sẽ giới thiệu cho các bạn về các bài văn phân tích về nhân vật Lão Hạc hay nhất!
6
Phân tích nhân vật Lão Hạc của Nam Cao - Bài số 6

Nếu ai đã đọc truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, dù chỉ một lần, cũng không khỏi bị ám ảnh bởi cái chết đầy thương tâm của nhân vật lão Hạc. Hình ảnh lão Hạc vật vã trong cái chết đau đớn, dữ dội cứ xoáy vào tâm trí người đọc, gợi lên trong lòng họ bao nỗi niềm trăn trở, day dứt khôn nguôi.
Sinh rồi tử là quy luật muôn đời của tạo hoá, nào ai tránh được, âu đó cũng là chuyện bình thường. Trong cuộc sống của nhân loại, mỗi ngày có biết bao con người từ giã cõi đời để trở về nơi cát bụi! Phần lớn sự ra đi của họ là phù hợp với quy luật sinh tử của nhân gian. Song cuộc đời đâu chỉ là chuỗi êm đềm và phẳng lặng. Cuộc đời còn đầy đau thương và sóng gió, nên cũng có không ít những cái chết thương tâm.
Đứng trước những cái chết bất bình thường, trái tim nhân hậu của các nhà văn không khỏi bùi ngùi thương xót. Dòng lệ trong tim nhà văn chảy xuống ngòi bút thành những trang văn nấc nở nghẹn ngào. Nam Cao cũng vậy. Trong những sáng tác của ông, ta bắt gặp không ít những cái chết đau thương khiến ta nhức nhối. Từ cái chết của một lão già tự treo cổ mình, lưỡi thè ra ngoài (Lang Rận), đến cái chết lênh láng máu của Chí Phèo (Chí Phèo), từ cái chết bội thực sau một bữa no của một bà lão nhịn ăn đã lâu ngày (Một bữa no), đến cái chết vật vã: “đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc” của Lão Hạc.
Tại sao họ khốn khổ đến như vậy? Sống không yên mà chết cũng chẳng bình thường!
Ta hãy đọc lại đoạn văn Nam Cao mô tả cái chết của lão Hạc: “Lão Hạc đang vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình đến như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư hiểu”.
Đâu phải chỉ có ông giáo và Binh Tư mới hiểu vì sao lão Hạc lại chết đau đớn và bất thình lình như vậy. Chúng ta cũng hiểu.
Nhưng tại sao lão Hạc phải tự mình tìm đến cái chết? Phải chăng lão Hạc đã tuyệt vọng với cuộc đời, phải tự mình giải thoát cho mình? Lật giở lại những trang văn của truyện ngắn Lão Hạc, ta càng thấm thía điều đó. Cả đời lão Hạc chưa một lần sung sướng. Cả kiếp người lam lũ, cực nhọc, nghèo khổ, lão cũng chẳng dám kêu ca, phàn nàn, chỉ ngậm ngùi: kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn. Sau cả một chuỗi ngày dài cay đắng và bất hạnh, lão Hạc đã thực sự lâm vào cảnh cùng đường, không còn kế sinh nhai. Cái chết mà lão phải lựa chọn là tất điều tất yếu. Chính cuộc đời và xã hội đã xô đẩy lão tới cái chết. Vì thế cái chết của lão Hạc có ý nghĩa phê phán và phủ nhận xã hội một cách sâu sắc.
Một câu hỏi nữa lại đặt ra trong óc người đọc: nhưng tại sao lão Hạc lại phải chết khi trong tay có tới những 30 đồng bạc và ba sào vườn bán được giá? Phải chăng vì lão gàn dở và ngu ngốc? Không! Lão Hạc không ngu ngốc, càng không gàn dở! Cái chết của lão Hạc xuất phát từ lòng tự trọng của một người cha, của một con người, từ trái tim đầy cao thượng, và đức hi sinh của lão.
Là một con người sớm từng trải, có suy nghĩ nội tâm sâu xa, hơn ai hết, lão Hạc hiểu rất rõ giá trị của 30 đồng bạc mà mình đã chắt chiu dành dụm kia: ăn mãi hết đi thì đến lúc chết thì lấy gì mà lo liệu? Sống, lão đã không muốn phiền luỵ đến mọi người, thì chết lão không thể làm phiền luỵ đến họ.
Có thể có những suy nghĩ ở người này, người khác: Ôi dào, cần gì phải lo xa, chết hãy hay, hoặc chết là hết, còn biết gì đâu mà cần. Lão Hạc không nghĩ như vậy, lão hiểu rõ cái tình của người Việt Nam: Nghĩa tử là nghĩa tận. Lão biết là dù lão chẳng có đến một xu thì khi lão nằm xuống, bà con chòm xóm vẫn lo liệu cho lão chu đáo. Mà họ nào có giàu có gì, họ cũng nghèo khổ như lão. Lão không thể cho phép mình là gánh nặng cho mọi người. Chao ôi, sự tự trọng và tấm lòng vị tha, cao thượng của một con người, sao mà đẹp thế, xúc động đến thế!
Vậy còn ba sào vườn? Đó là tấm lòng, là tình cảm của người vợ quá cố dành cho con. Đó cũng là ước nguyện và tình yêu của lão đối với con. Lão không thể xâm phạm. Lòng tự trọng và đức hi sinh của người cha đã đưa lão đến một quyết định hệ trọng: Chọn cái chết để giữ được mảnh vườn cho con. Tấm lòng ấy của lão đã tác động mạnh mẽ đến nhân vật ông giáo, trở thành một lời hứa thiêng liêng: “Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo: Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn; cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào...”
Lão Hạc vẫn có thể còn một kế sinh nhai khác là theo gót Binh Tư để kiếm ăn”. Liệu một người trong sạch và lương thiện như lão Hạc có thể bán linh hồn của mình cho quỷ dữ để có miếng ăn? Là một người có bản tính trong sạch và lương thiện, lại rất tự trọng, lão Hạc hiểu rõ miếng ăn là miếng nhục. Lão thà chết chứ không chịu sống mà tiếng xấu để đời.
Càng suy ngẫm, ta càng hiểu rõ quả thực lão Hạc không còn giải pháp nào khác ngoài việc phải lựa chọn cái chết. Cái chết ấy làm ngời lên bao phẩm chất của một con người đáng kính.
Tưởng như không còn cần bàn thêm gì cái chết của lão Hạc. Nhưng chúng ta cũng nên đặt thêm một câu hỏi nhỏ: Tại sao lão Hạc không chọn cái chết nhẹ nhàng hơn, lặng lẽ hơn? Phải chăng lão muốn chọn một cái chết đau đớn và dữ dội để tự trừng phạt mình vì đã trót lừa một con chó? Rất có thể như vậy. Thêm một lần nữa ta hiểu thêm về tấm lòng nhân hậu của lão Hạc.
Lão Hạc đã chết! Một cuộc đời đã kết thúc, khép lại bao lo buồn, đau khổ! Nhưng trang văn của Nam Cao chẳng bao giờ khép lại, mà cứ mở ra trong tâm hồn bạn đọc bao trăn trở, suy ngẫm về con người, về cuộc đời.
7
Phân tích nhân vật Lão Hạc của Nam Cao - Bài số 7

Lão Hạc của Nam Cao là người nông dân bần hàn và nghèo khổ với tài sản chỉ vỏn vẹn là một túp lều, ba sào vườn và một con chó vàng. Vốn liếng của lão nông đó chỉ có bấy nhiêu thôi, ấy vậy mà, lão phải sống cô đơn và bất hạnh. Vợ của lão Hạc mất đã lâu, cảnh gà trống nuôi con bao năm. Lão Hạc lần hồi đi làm thuê kiếm sống qua ngày để nuôi đứa con trai của mình.
Đứa con trai duy nhất của lão chỉ vì không có trăm bạc để lấy vợ, cảm thấy tủi nhục phẫn chí quyết định đi đồn điền cao su biền biệt đã mấy năm trời. Phân tích nhân vật lão Hạc, ta thấy tuổi già của lão sống thật cô quạnh, nỗi buồn ngày một chồng chất thêm. Chỉ có con chó vàng là người bạn tri kỉ duy nhất với lão, giúp lão vơi sầu mà sống tiếp những ngày cơ cực buồn tủi.
Cuộc sống cứ thế ngày qua ngày, cho đến một hôm lão Hạc bị ốm một trận nặng kéo dài những 2 tháng 18 ngày. Trong quãng thời gian ốm yếu mệt mỏi ấy, lão Hạc cô độc, không có bàn tay chăm sóc của người thân. Sự săn sóc, quan tâm, một bát cháo, một chén thuốc… những thứ ấy với lão trong hoàn cảnh ốm yếu cũng thật là xa xỉ. Phân tích nhân vật lão Hạc, người đọc không khỏi ngậm ngùi cho số kiếp đáng thương ấy.
Không những thế, một trận bão khủng khiếp lại kéo đến, cây trái hoa màu bị phá sạch, làng nghệ, đàn bà con gái hết việc tranh đi làm thuê và giành hết mọi việc. Sau trận ốm kéo dài, lão Hạc yếu hẳn đi, không ai thuê lão nữa. Hoa màu mất vì trận bão, giá gạo tăng mà lão lại thất nghiệp. Phân tích nhân vật lão Hạc, một nỗi nghẹn ngào trào dâng trong tâm hồn mỗi chúng ta.
Túp lều nghèo có lão và cậu Vàng, mỗi ngày ăn hết ba hào gạo mà vẫn đói quay quắt “đói deo đói dắt”. Chỉ vì trận ốm ấy mà lão đã tiêu hết số tiền bán được từ hoa lợi trong vườn đã dành dụm được bấy lâu. Cuộc sống vốn đã nghèo khổ lại ngày một thêm túng quẫn. Cái đói rình rập ám ảnh lão Hạc, cái ăn qua ngày khiến lão khổ sở, và cuộc sống của lão cũng day dứt trong lòng mỗi người khi phân tích nhân vật lão Hạc. Lão nông bần hàn bất hạnh ấy biết phải làm gì?.
Lão Hạc chỉ còn biết bán cậu Vàng, lão đã nghĩ đến điều ấy mà đau lòng quặn thắt. Cậu Vàng chính là tri kỷ với lão trong cuộc sống cô quạnh này. Ấy vậy mà, miếng cơm manh áo khiến lão phải đứt ruột với suy nghĩ bán đi cậu Vàng. “Bỏ rẻ cũng mất hào rưỡi hai hào” đó là số tiền mà cậu Vàng ăn mỗi ngày. Cậu Vàng ăn khỏe lại khiến lão thêm áp lực với cuộc sống túng quẫn này. Phân tích nhân vật lão Hạc, đến chi tiết này, người đọc cũng không khỏi nghĩ suy với câu nói của ông giáo khi nghe lão nói về ý định bán con chó: “Nhưng đời người ta không chỉ khổ một lần. Lão Hạc ơi, ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu?…”
Yêu cậu Vàng đến vậy, nhưng lão Hạc biết lấy tiền đâu mà nuôi được? Lão nông ấy đành bán cậu Vàng cho thằng Xiên, thằng Mục. Để rồi khi bán đi cậu Vàng, cuộc sống với lão như không còn chút gì ý nghĩa, lão bị đẩy xuống địa ngục, tâm hồn cằn cỗi, trái tim đau đớn uất nghẹn bởi lão thấy mình là kẻ “tệ lắm”, đã già mà còn “đánh lừa một con chó”. Cuộc sống sau khi mất đi cậu Vàng với lão cũng vẫn như vậy khi mà túng bấn, nghèo đói, cô đơn bủa vây mỗi ngày. Phân tích nhân vật lão Hạc, ta thấy đau đớn thay hoàn cảnh nghiệt ngã đã dìm người cố nông tới đường cùng.
Lão nông ấy tiếp tục cuộc sống lay lắt với củ khoai, củ chuối rồi củ ráy, lão ăn sung luộc rau má hay bữa trai ốc cầm cự. Cuộc sống khốn khó đến vậy, thế nhưng người nông dân ấy lại từ chối mọi sự giúp đỡ của mọi người, lão chối từ khi ông giáo muốn giúp đỡ một cách “gần như là hách dịch”. Lão mất đi cậu Vàng, rồi cùng xa dần với ông giáo – điểm tựa tinh thần bấy lâu.
Cuộc sống giờ đây với người nông dân ấy chỉ là một màu xám xịt vô nghĩa. Lúc này, lão không còn bất cứ “nơi dựa tinh thần” nào, lão quạnh hiu trong cuộc sống, lão đơn độc trong chính tâm hồn của mình. Để rồi, người cố nông ấy đã kết thúc cuộc đời bằng chính bả chó bằng cách tự tử. Khi sống đã khốn khổ, mà khi chết lão cũng thê thảm đau đớn. Nhà văn Nam Cao đã đặc tả cái chết của lão Hạc như một sự ám ảnh day dứt với “đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, tru tréo, rồi bọt mép sùi ra…” Vật vã đến hơn hai giờ đồng hồ, cái chết mới buông bỏ sự dằn vặt với lão. Người nông dân ấy ra đi với sự dữ dội cả về tinh thần lẫn thể xác. Phân tích nhân vật lão Hạc, ta đau đớn và thương xót biết bao nhiêu cho thân phận những người nông dân cùng cực trong xã hội xưa.
Số kiếp một con người, số phận của lão nông nghèo ấy thật đáng thương cảm biết bao. Hiện thực hóa đến từng chi tiết, nhưng ẩn sâu trong từng câu chữ ấy chính là chủ nghĩa nhân đạo thống thiết mà nhà văn Nam Cao đã gửi đến bạn đọc. Lão Hạc thì bần cùng bế tắc phải ăn bả chó để kết liễu cuộc đời trong sự đau đớn, chí Phèo tự sát bằng mũi dao, Lang Rận thì thắt cổ chết… Đó là những sự quyên sinh tột cùng của nước mắt và sự chua xót. Phân tích nhân vật lão Hạc, ta không thể nào quên được câu nói mà người nông dân ấy đã hỏi ông giáo: “nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?” Câu hỏi ấy cho thấy nỗi khổ đau tột cùng của một kiếp người, đồng thời cũng gieo rắc vào người đọc biết báo ám ảnh.
8
Phân tích nhân vật Lão Hạc của Nam Cao - Bài số 8

Văn học trước cách mạng phản ảnh cuộc sống tăm tối, cực khổ của người nông dân. Nhiều cây bút đã tập trung phản ánh mảng đề tài ấy. Đó là Ngô Tất Tố, là Nguyên Hồng, là Nguyễn Công Hoan…Trong đó không thể không nhắc đến Nam Cao- một nhà văn hiện thực phê phán với ngòi bút tinh tế đã phản ánh một cách sâu sắc số phận của người nông dân trước cách mạng tháng tám. Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao là dại diện cho số phận nghèo khổ cơ cực của người nông dân trước cách mạng.
Truyện ngắn với các nhân vật là người nông dân Việt NAm ở xã hội Việt Nam trước cách mạng, nhưng Lão Hạc là đại diện cho người nông dân nghèo khó, gặp nhiều bất hạnh.
Vợ lão mất sớm, lão nuôi con trai khôn lớn. Nhà lão nghèo, con trai lại phải đi phu đồn điền cao su. Đó là hoàn cảnh chung của thanh niên trai tráng lúc bấy giờ:
“Cao su đi dễ khó về
khi đi trai tráng khi về bủng beo”
Vợ mất, con rai đi biền việt, tuổi già củ lão sống trong sự cô đơn. Lão đối diện với cuộc sống nghèo khổ, ốm yếu, bệnh tật, không có việc là, hoa màu mất sạch. Cảnh ngộ của lão thật đáng thương khi lão phải bán bỏ cậu vàng- người bạn tâm tình của lão. Lão luôn canh cánh một nỗi thương con, lão để dành miếng đất cho con để khi về con có thước đất mà cắm dùi. Thế nhưng, chưa lo được cho con thì lão đã phải tìm đến cái chết. Đó là cuộc đời, là cảnh ngộ đáng thương, là số phận bất hạnh của lão hạc nói riêng và của người nông dân trước cách mạng nói chung.
Lão phải sống một cuộc đời bất hạnh như thế nhưng lão lại mang trong mình những phẩm chất cao quý của người nông dân chất phác, thật thà. Khi ở với cậu vàng, lão gắp cho cậu vàng ăn, thức ăn của cậu vàng được lão để trong bát, lão chửi yêu, cưng nựng cậu vàng. Đó là tấm lòng nhân ái, vị tha nhân hậu của lão hạc. Lão là người cha hết mực thương con. Con đi phu đồn điền chẳng biết ngày về nhưng lão luôn canh cánh về con, lo cho con. Lão không chịu bán đất để để dành cho con. Hơn hết lão hạc là người giàu lòng tự trọng. Điều này thể hiện qua cái chết của lão hạc. Cuộc sống qua khổ cực, lão kiếm được gì ăn lấy, lão không xin bất cứ ai. Đến khi chết, lão còn nhờ ông giáo, gửi tiền cho ông giáo để lo ma chay cho mình. Đó là một con người tự trọng, là phẩm chất cao quý của người nông dân như lão hạc.
Cái chết của lão hạc là một biến cố điển hình để nhân vật bộc lộ tính cách điển hình. Cuộc sống quá nghèo túng, cơ cực chính vì thế lão tìm đến cái chết như mọt cách giải thoát khỏi kiếp sống mòn. Lão chết bởi tình yêu dành cho con quá lớn. Lão lo lắng, dành dụm cho con, lão chết để giữ tiếng cho con. Lão Hạc đã tự tìm đến cái chết, điều đó chứng tỏ lão chết để tránh bị đẩy vào con đường tha hoá. Lão chết như một sự trừng phạt vì đã lừa cậu vàng. lão chết như một sự giả thoát khỏi giày vò “ bằng này tuổi đầu mà nỡ lùa một con chó. Cái chết của lão như một sự hi sinh tàn khốc vì tương lai, nó chứng tỏ sự bế tắc của hiện tại. Cái chết của Lão Hạc là minh chứng cho cuộc đời bất hạnh và phẩm chất cao quý của người nông dân Việt Nam trước cách mạng.
Đọc truyện Lão Hạc chúng ta sẽ không khỏi xót xa cho cuộc đời củ lão. Lão đã phải tìm đến cái chết nhưng những phẩm chất cao quý của lão thì mãi được bạn đọc ghi nhân. Chúng ta sẽ mãi mãi yêu quý một Lão Hạc giàu lòng yêu thương, giàu lòng vị tha.
Nhân vật Lão Hạc là một thành công nghệ thuật của Nam cao trong việc xây dựng con người điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Đó là hình tượng người nông dân cơ cực nhưng chân chất, giàu lòng tự trọng. TÁc phẩm thành công với nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế, sâu sắc. Truyện sẽ mãi đi vào lòng người đọc bởi ý nghĩa nhân văn của nó.
9
Phân tích nhân vật Lão Hạc của Nam Cao - Bài số 9

Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn “Lão Hạc” của nhà văn là một tác phẩm như thế. Nhân vật chính của tác phẩm - nhân vật lão Hạc - dù có một hoàn cảnh bất hạnh, đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu thương đối với những người thân yêu và đặc biệt là một lòng tự trọng cao cả. Qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện tư tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.
Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo, cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có những hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì nghèo không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng là kỷ vật của con để làm bạn. Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ: cái đói, sự cô đơn và tuổi già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão đến mức hết đường sinh sống. Lão phải dứt ruột bán đi con chó Vàng mà lão yêu thương nhất. Lão bán con chó trong niềm khổ đau tột cùng: “Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít”, “lão hu hu khóc”,...
Ban đầu là “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”, “khoai cũng hết, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc”. Rồi đến mức chẳng còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão Hạc chỉ còn đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết “nhờ” ăn bả chó tự tử...! Cái chết của
lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật phải hai người đàn ông lực lưỡng đè lên... Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của con chó Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu khác gì cái chết của một con chó.
Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân phẩm. Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng cao đẹp của mình.
Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã có những “Cha con nghĩa nặng” của Hồ Biểu Chánh, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng,... ngợi ca tình phụ tử. Và trong đó cũng cần nhắc đến “Lão Hạc” của Nam Cao. Vì thương con, lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng. Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều “cậu” Vàng vì đó là con chó khôn, chó đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu quý con Vàng đến mức chia với nó từng cái ăn, cho nó ăn vào bát như người, rồi đến lúc nó chết lão quằn quại, đau đớn,... là bởi con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng như được thấy con mình.
Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn. Vậy là lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi! Tình yêu thương con của lão thật cảm động biết mấy!
Yêu thương những người thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống đầy tự trọng trước cuộc đời nhiều cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã có thể ăn trộm, ăn cắp hay thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng hạn, hay người đàn bà trong “Một bữa no” của Nam Caor..) nhưng lão Hạc thì không. Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn) lão “từ chối gần như hách dịch" khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng. Binh Tư ngỡ rằng lão xin bả để ăn trộm chó “lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa đâu”. Đến lượt ông giáo cũng nghi ngờ: "con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Nhưng cuối cùng tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão. Hay còn cách khác: lão có thể bán quách mảnh vườn đi. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó là mảnh vườn của con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!
Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người - kể cả với con chó Vàng tội nghiệp. Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Lão đã tính toán để ngay cả khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm phiền hàng xóm! Hỡi ôi lão Hạc!
Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng trong tác phẩm sinh động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.
Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc.
Nam Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng và lối thoát nhanh chóng nhất là cái chết nghiệt ngã.
Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết của người nông dân ngay cả khi họ bước vào đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu thương, người nông dân còn sống đầy tự trọng. Trong cái đói, tự trọng là thứ gì đó xa xỉ vô cùng. Vì miếng ăn, người ta có thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất hết nhân tính. Nhưng đáng trọng thay lão Hạc, lão không chỉ giữ được tình thương tươi mát mà còn giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.
Và chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc mà Nam Cao đã chiệm nghiệm: “Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn”. Chưa đáng buồn bởi còn có những con người cao quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm cách tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý vô cùng bởi trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí có nhà văn còn nhận định người nông dân “như những con lợn không tư tưởng”. Và bởi thế, tư tưởng của Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!
Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về tâm hồn và phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.
10
Phân tích nhân vật Lão Hạc của Nam Cao - Bài số 10

Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn “Lão Hạc” của nhà văn là một tác phẩm như thế. Nhân vật chính của tác phẩm - nhân vật lão Hạc - dù có một hoàn cảnh bất hạnh, đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu thương đối với những người thân yêu và đặc biệt là một lòng tự trọng cao cả. Qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện tư tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.
Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo, cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có những hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì nghèo không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng là kỷ vật của con để làm bạn. Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ: cái đói, sự cô đơn và tuổi già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão đến mức hết đường sinh sống. Lão phải dứt ruột bán đi con chó Vàng mà lão yêu thương nhất. Lão bán con chó trong niềm khổ đau tột cùng: “Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít”, “lão hu hu khóc”,...
Ban đầu là “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”, “khoai cũng hết, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc”. Rồi đến mức chẳng còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão Hạc chỉ còn đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết “nhờ” ăn bả chó tự tử...! Cái chết của
lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật phải hai người đàn ông lực lưỡng đè lên... Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của con chó Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu khác gì cái chết của một con chó.
Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân phẩm. Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng cao đẹp của mình.
Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã có những “Cha con nghĩa nặng” của Hồ Biểu Chánh, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng,... ngợi ca tình phụ tử. Và trong đó cũng cần nhắc đến “Lão Hạc” của Nam Cao. Vì thương con, lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng. Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều “cậu” Vàng vì đó là con chó khôn, chó đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu quý con Vàng đến mức chia với nó từng cái ăn, cho nó ăn vào bát như người, rồi đến lúc nó chết lão quằn quại, đau đớn,... là bởi con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng như được thấy con mình.
Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn. Vậy là lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi! Tình yêu thương con của lão thật cảm động biết mấy!
Yêu thương những người thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống đầy tự trọng trước cuộc đời nhiều cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã có thể ăn trộm, ăn cắp hay thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng hạn, hay người đàn bà trong “Một bữa no” của Nam Caor..) nhưng lão Hạc thì không. Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn) lão “từ chối gần như hách dịch" khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng. Binh Tư ngỡ rằng lão xin bả để ăn trộm chó “lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa đâu”. Đến lượt ông giáo cũng nghi ngờ: "con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Nhưng cuối cùng tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão. Hay còn cách khác: lão có thể bán quách mảnh vườn đi. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó là mảnh vườn của con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!
Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người - kể cả với con chó Vàng tội nghiệp. Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Lão đã tính toán để ngay cả khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm phiền hàng xóm! Hỡi ôi lão Hạc!
Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng trong tác phẩm sinh động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.
Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc.
Nam Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng và lối thoát nhanh chóng nhất là cái chết nghiệt ngã.
Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết của người nông dân ngay cả khi họ bước vào đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu thương, người nông dân còn sống đầy tự trọng. Trong cái đói, tự trọng là thứ gì đó xa xỉ vô cùng. Vì miếng ăn, người ta có thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất hết nhân tính. Nhưng đáng trọng thay lão Hạc, lão không chỉ giữ được tình thương tươi mát mà còn giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.
Và chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc mà Nam Cao đã chiệm nghiệm: “Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn”. Chưa đáng buồn bởi còn có những con người cao quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm cách tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý vô cùng bởi trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí có nhà văn còn nhận định người nông dân “như những con lợn không tư tưởng”. Và bởi thế, tư tưởng của Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!
Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về tâm hồn và phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.
Phù hợp với bạn
29-05-2025 Thông Còi
11-01-2024 Chanh
22-01-2024 Chanh
28-12-2023 Chanh
19-12-2023 Chanh