Top 10 dàn ý và bài văn hay cảm nhận bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh

  • 1,001 views
  • 3 likes
Top Share

27-06-2022 Chanh

Sang thu là một trong những bài thơ rất ấn tượng của Hữu Thỉnh. Từng biến đổi tinh tế của thời gian và trong không gian đều được tác giả Hữu Thỉnh cảm nhận vô cùng tinh tế. Sự tài tình của mỗi người nghệ sĩ với văn thơ là dùng con chữ để ngưng đọng đại từng khoảnh khắc ấn tượng của cuộc sống. Tác giả có ngỡ ngàng khi bất ngờ chạm những mùi hương tới khoảnh khắc cảnh vật biến chuyển trong sương nhẹ. Dường như tác giả còn cảm nhận được rất rõ nhịp vận động biến chuyển của từng sự vật tới sự thay đổi rất khẽ trong không gian khi mùa thu tới. Mùa thu đã được Hữu Thỉnh dùng toàn bộ giác quan để đưa tới những cảm nhận vô cùng tinh tế. Để hiểu rõ hơn về bài thơ ấn tượng này, hãy cùng Topshare đến với những dàn ý và bài cảm nhận bài thơ Sang thu được tham khảo và chọn lọc dưới đây bạn nhé!

6

Bài cảm nhận số 5

Vote
0%
Bài cảm nhận số 5

Từ xưa đến nay, vẻ đẹp thiên nhiên bốn mùa luôn là những đề tài thân thuộc trong thơ ca. Khung cảnh thiên nhiên bốn mùa luôn là nguồn cảm hứng vô tận của các nhà văn, nhà thơ. Trong đó vẻ đẹp thuần khiết, bình dị của mùa thu đã được khắc họa một cách rõ nét và thành công qua bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Dưới ngòi bút và cảm nhận của nhà thơ, bạn đọc cảm nhận được vẻ đẹp e ấp của thiên nhiên lúc giao mùa hạ - thu.

“Sang thu ” được Hữu Thỉnh sáng tác năm 1977 ngay khi đất nước được giải phóng, bắt đầu bắt tay vào thời kì xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. ‘Sang thu” ở đây là chớm thu, khi thiên nhiên bắt đầu chuyển giao giữa mùa hạ và thu. Mặc dù cái nắng nóng của mùa hạ chưa hết nhưng cái không khí nhẹ nhàng của mùa thu đã bắt đầu lan toả. Có lẽ chỉ có ai có tình yêu thiên nhiên, có sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm nhất mới có thể cảm nhận thời khắc giao mùa tuyệt vời này.

Bài thơ mở đầu bằng những cảm nhận, những rung động mập mờ, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp chuyển đổi của thời khắc thiên nhiên lúc chuyển giao mùa. Mùa thu trong cảm nhận của Hữu Thỉnh không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là “hương ổi” thân quen nơi vườn mẹ được “gió se” đánh thức, một mùi hương đặc trưng của mùa thu làng quê Bắc Bộ Việt Nam. Tất cả hòa quyện lại với nhau gợi dậy những cảm xúc của tác giả. Mùa thu dần xuất hiện qua sự quan sát bằng các giác quan tình thế của nhà thơ.

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se.”

Câu thơ cho ta cảm nhận được hương vị ấm nồng của chớm thu của một trên miền quê nhỏ. Một chút tín hiệu đầu để tác giả nhận ra “hương ổi” chính là tín hiệu báo đầu của mùa thu, là sự hoán đổi giữa hai mùa. Mùi hương quê nhà mộc mạc, bình dị, bất chợt “phả” trong gió, thoảng bay trong không gian. Cảm giác bất ngờ chợt đến để nhà thơ “bỗng nhận ra” thu đã đến rồi – một sự chờ đợi sẵn từ lâu đến hoàn toàn tự nhiên. Câu thơ không chỉ đơn thuần là tả mà còn khiến người đọc cảm nhận vẻ đẹp mùa thu bằng tất cả các giác quan: liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lựng, vị ngọt, giòn, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi quê nhà. Một nét bút chấm phá đơn giản nhưng đầy nét gợi hình, gợi tả một cách giản dị, mộc mạc nhưng vẫn làm nên nét riêng hoàn toàn đặc sắc trong của mùa thu của trong thơ Hữu Thỉnh. Hương ổi trong gió đầu mùa se lạnh chính là sứ giả của mùa thu, nó đến khẽ khàng, “khẽ” đến mức nếu ai vô tình sẽ không thể nhận ra được. Có thể nói, Hữu Thỉnh đã có một phát hiện về khúc giao mùa thật tinh tế và đặc biệt, phát hiện của ông đã tạo nên một hồn thơ xứ sở đầy nét đặc trưng, thi vị.

Bên cạnh hương ổi nhàn nhạt nhẹ nhàng khúc giao mùa, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, sương nhẹ nhàng, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn:

“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”

Dưới ngòi bút tuyệt vời và tài cảm nhận đặc biệt của Hữu Thỉnh, sương dường như hóa thành một người lữ hành trên đường đã được nhân hoá qua hai chữ “chùng chình” không muốn bước, nói lên rất thơ bước đi chầm chậm lúc, dường như còn bỡ ngỡ trước khoảnh khắc giao mùa sang thu. Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về trong sự đột ngột và bất ngờ thì sau khi cảm nhận được hơi lạnh của sương thu, gió thu, người thi sĩ vẫn ngỡ ngàng thốt lên tiếng lòng tự hỏi: “Hình như thu đã về”? Tâm hồn của Hữu Thỉnh hoàn toàn có thể nắm bắt những chuyển biến nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa. Bằng chính tài quan sát của mình, Hữu Thỉnh đã khắc hoạ thành công những bước đi nhỏ bé nhẹ nhàng, mong manh nhỏ nhẹ của mùa thu. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ nhưng khiến ta cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm của một hồn thơ mang nặng tình yêu với thiên nhiên và cuộc sống.

Sau phút giao mùa nhẹ nhàng, những dấu hiệu bắt đầu mùa thu đã trở nên rõ ràng hơn, nhanh hơn. Tác giả cảm nhận mùa thu bằng cả tâm hồn của mình

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”

Từ “hương ổi”, “gió se”, “sương”, thiên nhiên trong giây phút giao mùa đã được cụ thể bằng những hình ảnh rõ ràng: “sông dềnh dàng”, “chim vội vã”, mây “vắt nửa mình sang thu”. Cảm xúc của tác giả lan tỏa trong không gian rộng hơn, nhiều cung bậc cảm xúc hơn. Từ không gian nhỏ bé như con ngõ nhỏ đã lan tỏa ra tới bầu trời, một không gian bao la rộng lớn không gì có thể đo đếm được. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả đã tạo dựng nên linh hồn cho cảnh vật. Dòng sông êm đềm, nhẹ nhàng trôi sau những cơn mưa mùa hạ như trút nước. Giờ đây, nó lại “dềnh dàng”, chậm chạp, khoan thai chảy trong không gian bức tranh tuyệt đẹp của mùa thu. Sông giống như tâm trạng của con người, dường như đang sống “chậm” lại, ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về cuộc đời.

Trái ngược với “dềnh dàng” của dòng sông, những cánh chim di trú lại bắt đầu ‘vội vã” đầy lo lắng trước khoảnh khắc giao mùa. Với nghệ thuật tương phản đặc sắc, Hữu Thỉnh đã gợi lên bức tranh thu đầy sinh động: nhẹ nhàng, lãng mạn nhưng không kém phần hối hả, vội vã. Thông qua bức tranh ấy, ông muốn gợi lên sự chuyển mình của đất nước ta. Một đất nước vừa trải qua mưa bom lửa đạn, giành được độc lập và đang bắt đầu xây dựng đất nước trong không khí vui tươi, rộn ràng.

Với động từ “vắt”, bầu trời lúc giao mùa bỗng trong cảm nhận của thi sĩ trở nên đặc biệt hơn:

“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”

Đám mây bé nhỏ dường như trải dài hơn, trôi lững lờ trong bầu trời xanh ngắt, cao rộng. Dường như nó vẫn còn vương vấn ánh nắng ấm áp của mùa hạ nên chỉ “vắt nửa mình sang thu”. Nó đã tạo nên một lằn ranh giới mỏng manh, hư ảo. Có lẽ, thực tế sẽ không thể nào có áng mây bé nhỏ nào như thế. Đó chỉ là sự liên tưởng đầy thú vị của thi sĩ. Tất cả góp phần tạo nên một thời khắc giao mùa đầy chất thơ, tinh tế và nhạy cảm, độc đáo nhưng bâng khuâng trong không gian êm dịu của mùa thu. Dòng sông, đám mây, cánh chim đều được nhân hoá rõ nét khiến cho bức tranh thu hữu tình của Hữu Thỉnh trở nên thi vị hơn. Qua đó, ta cảm nhận được một tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết và trí tưởng tượng bay bổng độc đáo của nhà thơ.

Hai khổ thơ đầu là những tín hiệu và hình ảnh lúc chớm thu. Khổ thơ cuối chính là lúc tác giả chiêm niệm về cuộc sống con người, chiêm niệm về cuộc đời.

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”

“Nắng – mưa” hai hiện tượng thiên nhiên hay đến rồi đi bất chợt của mùa hạ. Giờ đây chỉ còn “bao nhiêu nắng” và đã “vơi dần cơn mưa” – một dấu hiệu chuyển mình nhẹ nhàng sang thu. Nắng vẫn còn đó nhưng đã nhẹ nhàng hơn, không còn gay gắt mà mang sự dịu nhẹ của mùa thu. Mưa ít đi, với dần và nhẹ nhàng hơn, không còn dồn dập và mạnh mẽ như khi vào hạ. Hai chữ “bao nhiêu” thường chỉ sự đong đếm, thế nhưng nắng sao có thể đong? Mưa đã “vơi” nhưng có ai biết là đã ít đi như thế nào? Cách nói đầy mơ hồ nhưng lại thể hiện rõ sự hoà nhịp đầy sâu lắng của tác giả với thiên nhiên. Chỉ có thể hòa mình vào thiên nhiên, cảm nhận thiên nhiên bằng tâm hồn tinh tế và đồng điệu mới có thể nhận ra được điều đó.

Với cách sử dụng ẩn dụ đầy nghệ thuật, hai câu thơ cuối đã xây dựng nên hình ảnh “sấm” và “hàng cây” thật đặc sắc.

“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”

Cuối hạ - đầu thu. “Sấm” lúc này không còn kêu vang rộn rã như khi vào hạ mà đã bắt đầu giảm dần mức độ xuất hiện của mình qua sự quan sát của tác giả. Giọng thơ bắt đầu trầm lắng, hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” đứng lặng im suy ngẫm, chiêm nghiệm cuộc đời để lại bao suy nghĩ trong lòng người đọc. Hàng cây ấy như đang suy nghĩ về cuộc đời, về những chuyển biến của thời đại. Có phải chăng, mùa thu của Hữu Thỉnh không còn là mùa thu nhẹ nhàng, êm dịu. Đây còn là mùa thu của đời người, mùa thu của sự khép lại những tháng ngày sôi nổi của tuổi trẻ. Từ đó mở ra một mùa thu mới, mùa thu yên tĩnh, trầm lắng trước biến động của đất nước và cuộc đời con người.

Nhìn chung cả bài thơ đều là hình ảnh thơ giản dị, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm. Hữu Thỉnh đã thành công miêu tả bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa tuyệt đẹp của đất nước. Qua đó thể hiện tinh tế tình yêu quê hương đất nước của ông. “Sang thu” là bức tranh mộc mạc về miền quê Bắc Bộ: nhẹ nhàng, êm dịu, trong sang và nên thơ. Thông qua bài thơ, tác giả thể hiện những triết lý về cuộc đời qua những gì giản đơn, nhỏ bé của cuộc sống. Tất cả tạo nên đặc sắc cho bức tranh giao mùa hiếm có của thiên nhiên Việt Nam. Qua đó giúp người đọc có những cảm xúc đong đầy, tự hào và thêm thương yêu Tổ quốc.

7

Bài cảm nhận số 6

Vote
0%
Bài cảm nhận số 6

Từ xưa đến nay, vẻ đẹp thiên nhiên bốn mùa luôn là những đề tài thân thuộc trong thơ ca. Khung cảnh thiên nhiên bốn mùa luôn là nguồn cảm hứng vô tận của các nhà văn, nhà thơ. Trong đó vẻ đẹp thuần khiết, bình dị của mùa thu đã được khắc họa một cách rõ nét và thành công qua bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Dưới ngòi bút và cảm nhận của nhà thơ, bạn đọc cảm nhận được vẻ đẹp e ấp của thiên nhiên lúc giao mùa hạ - thu.

“Sang thu ” được Hữu Thỉnh sáng tác năm 1977 ngay khi đất nước được giải phóng, bắt đầu bắt tay vào thời kì xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. ‘Sang thu” ở đây là chớm thu, khi thiên nhiên bắt đầu chuyển giao giữa mùa hạ và thu. Mặc dù cái nắng nóng của mùa hạ chưa hết nhưng cái không khí nhẹ nhàng của mùa thu đã bắt đầu lan toả. Có lẽ chỉ có ai có tình yêu thiên nhiên, có sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm nhất mới có thể cảm nhận thời khắc giao mùa tuyệt vời này.

Bài thơ mở đầu bằng những cảm nhận, những rung động mập mờ, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp chuyển đổi của thời khắc thiên nhiên lúc chuyển giao mùa. Mùa thu trong cảm nhận của Hữu Thỉnh không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là “hương ổi” thân quen nơi vườn mẹ được “gió se” đánh thức, một mùi hương đặc trưng của mùa thu làng quê Bắc Bộ Việt Nam. Tất cả hòa quyện lại với nhau gợi dậy những cảm xúc của tác giả. Mùa thu dần xuất hiện qua sự quan sát bằng các giác quan tình thế của nhà thơ.

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se.”

Câu thơ cho ta cảm nhận được hương vị ấm nồng của chớm thu của một trên miền quê nhỏ. Một chút tín hiệu đầu để tác giả nhận ra “hương ổi” chính là tín hiệu báo đầu của mùa thu, là sự hoán đổi giữa hai mùa. Mùi hương quê nhà mộc mạc, bình dị, bất chợt “phả” trong gió, thoảng bay trong không gian. Cảm giác bất ngờ chợt đến để nhà thơ “bỗng nhận ra” thu đã đến rồi – một sự chờ đợi sẵn từ lâu đến hoàn toàn tự nhiên. Câu thơ không chỉ đơn thuần là tả mà còn khiến người đọc cảm nhận vẻ đẹp mùa thu bằng tất cả các giác quan: liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lựng, vị ngọt, giòn, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi quê nhà. Một nét bút chấm phá đơn giản nhưng đầy nét gợi hình, gợi tả một cách giản dị, mộc mạc nhưng vẫn làm nên nét riêng hoàn toàn đặc sắc trong của mùa thu của trong thơ Hữu Thỉnh. Hương ổi trong gió đầu mùa se lạnh chính là sứ giả của mùa thu, nó đến khẽ khàng, “khẽ” đến mức nếu ai vô tình sẽ không thể nhận ra được. Có thể nói, Hữu Thỉnh đã có một phát hiện về khúc giao mùa thật tinh tế và đặc biệt, phát hiện của ông đã tạo nên một hồn thơ xứ sở đầy nét đặc trưng, thi vị.

Bên cạnh hương ổi nhàn nhạt nhẹ nhàng khúc giao mùa, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, sương nhẹ nhàng, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn:

“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”

Dưới ngòi bút tuyệt vời và tài cảm nhận đặc biệt của Hữu Thỉnh, sương dường như hóa thành một người lữ hành trên đường đã được nhân hoá qua hai chữ “chùng chình” không muốn bước, nói lên rất thơ bước đi chầm chậm lúc, dường như còn bỡ ngỡ trước khoảnh khắc giao mùa sang thu. Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về trong sự đột ngột và bất ngờ thì sau khi cảm nhận được hơi lạnh của sương thu, gió thu, người thi sĩ vẫn ngỡ ngàng thốt lên tiếng lòng tự hỏi: “Hình như thu đã về”? Tâm hồn của Hữu Thỉnh hoàn toàn có thể nắm bắt những chuyển biến nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa. Bằng chính tài quan sát của mình, Hữu Thỉnh đã khắc hoạ thành công những bước đi nhỏ bé nhẹ nhàng, mong manh nhỏ nhẹ của mùa thu. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ nhưng khiến ta cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm của một hồn thơ mang nặng tình yêu với thiên nhiên và cuộc sống.

Sau phút giao mùa nhẹ nhàng, những dấu hiệu bắt đầu mùa thu đã trở nên rõ ràng hơn, nhanh hơn. Tác giả cảm nhận mùa thu bằng cả tâm hồn của mình

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”

Từ “hương ổi”, “gió se”, “sương”, thiên nhiên trong giây phút giao mùa đã được cụ thể bằng những hình ảnh rõ ràng: “sông dềnh dàng”, “chim vội vã”, mây “vắt nửa mình sang thu”. Cảm xúc của tác giả lan tỏa trong không gian rộng hơn, nhiều cung bậc cảm xúc hơn. Từ không gian nhỏ bé như con ngõ nhỏ đã lan tỏa ra tới bầu trời, một không gian bao la rộng lớn không gì có thể đo đếm được. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả đã tạo dựng nên linh hồn cho cảnh vật. Dòng sông êm đềm, nhẹ nhàng trôi sau những cơn mưa mùa hạ như trút nước. Giờ đây, nó lại “dềnh dàng”, chậm chạp, khoan thai chảy trong không gian bức tranh tuyệt đẹp của mùa thu. Sông giống như tâm trạng của con người, dường như đang sống “chậm” lại, ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về cuộc đời.

Trái ngược với “dềnh dàng” của dòng sông, những cánh chim di trú lại bắt đầu ‘vội vã” đầy lo lắng trước khoảnh khắc giao mùa. Với nghệ thuật tương phản đặc sắc, Hữu Thỉnh đã gợi lên bức tranh thu đầy sinh động: nhẹ nhàng, lãng mạn nhưng không kém phần hối hả, vội vã. Thông qua bức tranh ấy, ông muốn gợi lên sự chuyển mình của đất nước ta. Một đất nước vừa trải qua mưa bom lửa đạn, giành được độc lập và đang bắt đầu xây dựng đất nước trong không khí vui tươi, rộn ràng.

Với động từ “vắt”, bầu trời lúc giao mùa bỗng trong cảm nhận của thi sĩ trở nên đặc biệt hơn:

“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”

Đám mây bé nhỏ dường như trải dài hơn, trôi lững lờ trong bầu trời xanh ngắt, cao rộng. Dường như nó vẫn còn vương vấn ánh nắng ấm áp của mùa hạ nên chỉ “vắt nửa mình sang thu”. Nó đã tạo nên một lằn ranh giới mỏng manh, hư ảo. Có lẽ, thực tế sẽ không thể nào có áng mây bé nhỏ nào như thế. Đó chỉ là sự liên tưởng đầy thú vị của thi sĩ. Tất cả góp phần tạo nên một thời khắc giao mùa đầy chất thơ, tinh tế và nhạy cảm, độc đáo nhưng bâng khuâng trong không gian êm dịu của mùa thu. Dòng sông, đám mây, cánh chim đều được nhân hoá rõ nét khiến cho bức tranh thu hữu tình của Hữu Thỉnh trở nên thi vị hơn. Qua đó, ta cảm nhận được một tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết và trí tưởng tượng bay bổng độc đáo của nhà thơ.

Hai khổ thơ đầu là những tín hiệu và hình ảnh lúc chớm thu. Khổ thơ cuối chính là lúc tác giả chiêm niệm về cuộc sống con người, chiêm niệm về cuộc đời.

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”

“Nắng – mưa” hai hiện tượng thiên nhiên hay đến rồi đi bất chợt của mùa hạ. Giờ đây chỉ còn “bao nhiêu nắng” và đã “vơi dần cơn mưa” – một dấu hiệu chuyển mình nhẹ nhàng sang thu. Nắng vẫn còn đó nhưng đã nhẹ nhàng hơn, không còn gay gắt mà mang sự dịu nhẹ của mùa thu. Mưa ít đi, với dần và nhẹ nhàng hơn, không còn dồn dập và mạnh mẽ như khi vào hạ. Hai chữ “bao nhiêu” thường chỉ sự đong đếm, thế nhưng nắng sao có thể đong? Mưa đã “vơi” nhưng có ai biết là đã ít đi như thế nào? Cách nói đầy mơ hồ nhưng lại thể hiện rõ sự hoà nhịp đầy sâu lắng của tác giả với thiên nhiên. Chỉ có thể hòa mình vào thiên nhiên, cảm nhận thiên nhiên bằng tâm hồn tinh tế và đồng điệu mới có thể nhận ra được điều đó.

Với cách sử dụng ẩn dụ đầy nghệ thuật, hai câu thơ cuối đã xây dựng nên hình ảnh “sấm” và “hàng cây” thật đặc sắc.

“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”

Cuối hạ - đầu thu. “Sấm” lúc này không còn kêu vang rộn rã như khi vào hạ mà đã bắt đầu giảm dần mức độ xuất hiện của mình qua sự quan sát của tác giả. Giọng thơ bắt đầu trầm lắng, hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” đứng lặng im suy ngẫm, chiêm nghiệm cuộc đời để lại bao suy nghĩ trong lòng người đọc. Hàng cây ấy như đang suy nghĩ về cuộc đời, về những chuyển biến của thời đại. Có phải chăng, mùa thu của Hữu Thỉnh không còn là mùa thu nhẹ nhàng, êm dịu. Đây còn là mùa thu của đời người, mùa thu của sự khép lại những tháng ngày sôi nổi của tuổi trẻ. Từ đó mở ra một mùa thu mới, mùa thu yên tĩnh, trầm lắng trước biến động của đất nước và cuộc đời con người.

Nhìn chung cả bài thơ đều là hình ảnh thơ giản dị, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm. Hữu Thỉnh đã thành công miêu tả bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa tuyệt đẹp của đất nước. Qua đó thể hiện tinh tế tình yêu quê hương đất nước của ông. “Sang thu” là bức tranh mộc mạc về miền quê Bắc Bộ: nhẹ nhàng, êm dịu, trong sang và nên thơ. Thông qua bài thơ, tác giả thể hiện những triết lý về cuộc đời qua những gì giản đơn, nhỏ bé của cuộc sống. Tất cả tạo nên đặc sắc cho bức tranh giao mùa hiếm có của thiên nhiên Việt Nam. Qua đó giúp người đọc có những cảm xúc đong đầy, tự hào và thêm thương yêu Tổ quốc.

8

Bài cảm nhận số 7

Vote
0%
Bài cảm nhận số 7

Theo Xuân Diệu, thu là dáng buồn liêu, là những luồng run rẩy rung rinh lá, đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh. Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là một hình ảnh mùa thu đầy thơ mộng: Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô. Thu điếu của Nguyễn Khuyến là sự vắng lặng, yên ả của không gian, là cảnh đẹp nên thơ của nước hồ thu. Còn Hữu Thỉnh với bài thơ Sang thu, ông đã khắc họa bức tranh mùa thu tươi đẹp, bức tranh đang ở thời khắc giao mùa với một làn hương mới. Mùa thu trong bài thơ của Hữu Thỉnh không có dáng vẻ tĩnh mịch, hồn thơ không vương vấn những cảm xúc buồn như mùa thu ở trong thơ của Nguyễn Khuyến, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Du hay Xuân Diệu… Sang thu là một bài thơ gợi tả thiên nhiên tươi đẹp. Đất trời đang chuyển mình từ cuối hạ sang thu. Mở đầu bài thơ là một phát hiện bất ngờ:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.

Mùa thu đã xuất hiện ở một làng quê Việt Nam. Mùa thu với hương thơm mộc mạc nhưng đầy hương vị ấm nồng. Hương ổi phả trong gió nhẹ đã làm cho con người nhận ra ngay mùa thu đang đến. Động từ phả thể hiện một mùi hương nồng nàn, lan tỏa trong không gian, hòa quyện với làn gió nhẹ để tạo nên một cảm giác thật đáng yêu. Cảm giác ấy không phải trầm buồn, ướt lệ mà là một cảm giác vui tươi đến bất ngờ, mới mẻ. Mùa thu đã mang đến hương thơm và sương mờ ướt lạnh. Sương chùng chình đã tạo nên một phong cảnh đáng yêu. Chùng chình là sự kéo dài, chậm chạp như muốn chờ muốn đợi ai đây? Cảnh vật cứ dần như thế, mềm mại như thế và thu đến tự lúc nào không hay. Nhà thơ đã ngỡ ngàng trước cái đến bất chợt của mùa thu. Cảm giác bỡ ngỡ ban đầu đã tan biến và nhường chỗ cho sự rung cảm mãnh liệt trước mùa thu tươi sáng:

Sông bắt đầu dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Những đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.

Ở khổ thơ thứ hai, dấu hiệu sang thu mang tính rõ nét hơn. Tác giả không cảm nhận bằng khứu giác mà cảm nhận trực tiếp bằng thị giác. Từ láy dềnh dàng diễn tả sự chậm chạp, thong thả của dòng nước sông mùa thu. Dấu hiệu mùa thu còn thể hiện ở cánh chim trời, chim vội vã bay vì trời mùa thu nhanh tối hơn mùa hạ, chim phải bay nhanh về tổ. Mùa thu với đất trời sáng trong, sống lặng lờ, thong thả chảy cùng với đàn chim đang tung cánh bay cao. Hình ảnh đám mây mùa hạ đang vật nửa mình sang thu là sự chuyển biến của đất trời. Dù sang thu nhưng dư âm mùa hạ vẫn còn. Một bóng mây vương lại như sự quyến luyến, ngập ngừng. Mùa thu với nắng nhẹ, dịu êm. Đất trời như thay áo mái nhưng vẫn có đâu đây làn nắng ấm mùa hè. Có lẽ đây là hình ảnh đẹp nhất thể hiện nét riêng của sự giao mùa từ hạ sang thu. Đám mây ở thời điểm này rất đẹp, nó như chiếc cầu nối giữa hai mùa. Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa để diễn tả sự chuyển giao của đất trời. Mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” bởi còn chần chừ, lưu luyến. Dù sang thu nhưng vẫn còn vương vấn những hình ảnh của mây mùa hạ. Đây là sự biến chuyển nhẹ nhàng của trời đất phút giao mùa. Kết thúc bài thơ là hình ảnh thiên nhiên của mùa thu: Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi. Phong cảnh mùa thu hiện ra thật rõ nét. Nắng mùa thu đang nồng đượm. Mưa mùa hạ vơi dần nên âm thanh của sấm cũng không còn làm cho con người ta giật mình, hốt hoảng. Mùa thu không những làm cho hàng cây như già dặn hơn, đứng tuổi hơn mà mùa thu càng làm cho hàng cây như vững vàng hơn trước những biến cố của thiên nhiên. Cây lá mùa thu vẫn nhuốm buồn vì lá dần ngả sang màu úa theo quy luật của thiên nhiên nhưng nó vẫn mang một dòng nhựa rạo rực, tràn trề sức sống. Khi thu đến, nó đã chuẩn bị cho nhiệm vụ mới của mình. Hình ảnh hàng cây đứng tuổi và ấm đã gợi lên một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là hình ảnh con người từng trải trước những tác động của ngoại cảnh, những biến cố bất thường của cuộc đời.

Với bút pháp tả thực về thiên nhiên, cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu, thấy được những chuyển biến nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời từ hạ sang thu. Tác giả đã vẽ nên bức tranh mùa thu quê hương nồng đượm, ấm áp tình người, nó bình dị mà tươi tắn, sống động, nó tôn thêm vẻ đẹp của đất nước Việt Nam.

9

Bài cảm nhận số 8

Vote
0%
Bài cảm nhận số 8

Mùa thu luôn có sức hấp dẫn lạ kỳ khiến bao những thi nhân phải xuyến xao, rung động. Không căng tràn nhựa sống, tươi mới như mùa xuân, cũng không mang cái lạnh tái tê khi đông về, mùa thu mà tạo hóa mang đến cho con người là sự dịu dàng, êm đềm và bình lặng. Cũng bởi thế mà khi vào thơ, thu luôn khiến cho con người chìm đắm trong những cảm xúc mác mác buồn, trong không gian mênh mang, huyền diệu của sương thu, khí thu và trời thu. Đọc "Sang thu" của Hữu Thỉnh ta lại càng thiết tha, say đắm với mùa thu nhiều hơn như thế.

"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Hương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"

Có lẽ đó là một sớm mai thức giấc, nhà thơ đang loanh quanh tận hưởng khí trời buổi tình mơ, thì đâu đó, hương ổi nhẹ nhàng pha chút ngọt ngào tràn về. Nhà thơ "bỗng" cảm thấy chút bất ngờ bởi sự thanh mát của hương ổi phá trong làn gió se. Không phải là lá vàng trong thơ Lưu Trọng Lư hay Nguyễn Khuyến, cũng không phải là hương cốm mới trong thơ của Nguyễn Đình Thi mà đó là vị ổi quê hương, một thức trái cây bình dị, giản đơn. Hương ổi "phả" vào trong làn gió se lạnh của buổi ban mai, cơn gió mang hương thơm ấy đi xa, đến phả vào tâm hồn người thi sĩ những rung động đầy yêu thương khiến tác giả có chút ngờ ngờ, vừa tiếc nuối hè qua lại vừa háo hức bất chợt khi thu đến.

"Sương chùng chình qua ngõ."

Khác với sương mai mùa hạ dày đặc, vội vã, nhộn nhịp, giăng ngập lối buổi sớm, sương thu đến với đất trời vô cùng bình thản, có chút gì đó còn ngại ngùng, chậm rãi, e ấp nhưng là cái e ấp đầy duyên dáng và yêu kiều khi đi quá mỗi ngõ nhà, ngách phố của con đường quê hương. Ta như cảm nhận được không gian trong làn sương mờ ảo đầy huyền diệu, vừa lung linh, vừa gợi cảm bởi cả hương và sắc của thu chớm tới.

"Hình như thu đã về"

Từ "hình như" được đặt ở đầu câu diễn tả chút gì đó vừa bối rối vừa ngỡ ngàng, vừa luyến tiếc lại vừa sung sướng của thi nhân khi nhận ra cảnh vật đang đổi thay cũng là lúc báo hiệu thu sang.

"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu."

Thời gian trôi đi rồi mọi thứ sẽ đổi thay, thu sang cũng vậy, muôn vật cũng thấy đổi dù ít, dù nhiều. Sông như rộng hơn, sông chảy trôi "dềnh dàng", chậm chậm, có lẽ mùa thu về, sông được dịp để thư thái, tận hưởng vị dịu ngọt của khí thu. Sông chảy nhẹ nhàng ôm lấy làng quê sau lũy tre xanh, một khung cảnh thật yên bình và tuyệt diệu biết bao. Những cánh chim cũng ngừng thong dong mà bắt đầu vội vã hơn, nhắc nhở nhau nhanh chóng về phương Nam tránh rét trước khi đông về. Sông thì chầm chậm ưu tư, chim thì vội vàng nhanh chóng, mỗi vật lại có trạng thái, tâm thế riêng trước khoảnh khắc sang thu. Cái nhìn đầy tinh tế của tác giả được thể hiện qua hình ảnh "đám mây mùa hạ" đang "vắt nửa mình" để sang thu. Đám mây đầy quyến rũ ấy đã tạo nên một bầu trời thu đầy xinh đẹp. Hình ảnh nhân hoá tài tình tạo nên một sự thú vị và đặc biệt trong đám mây kia.

Đám mây là cầu nối của phút chuyển giao giữa hạ và thu. Phải chăng đám mây kia cũng còn quyến luyến mùa hạ nắng cháy rực rỡ nhưng cũng háo hức bước sang những ngày thu hiền diệu, an yên. Bức tranh thu qua ngòi bút tài năng và cách cảm nhận đầy tinh tế của Hữu Thỉnh thật duyên dáng, say đắm lòng người.

"Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi".

Thu về, nắng vẫn còn vương trên mái nhà, trên từng khóm tre và cả trong từng hơi thở của đất trời. Thu về, mưa giông ngày hạ dần vơi. Sấm chớp bất chợt cũng không còn đến bất ngờ. Không chỉ là hình ảnh tả thực, khổ thơ còn mang một thông điệp truyền tải đầy ý nghĩa về cuộc đời, về nhân sinh. "Mưa" ," sấm chớp" là những hình tượng thiên nhiên đến mà ta không thể nào biết trước hay ngăn trở nó được cũng như là những sóng gió, những giông tố của cuộc đời mà mỗi người đều phải đối mặt. "Hàng cây đứng tuổi" đại diện cho những con người trưởng thành, trải qua nhiều thách thức, sóng gió, nhiều chông gai, họ dần lĩnh hội được những kinh nghiệm cho mình

Bởi thế khi có phải đối mặt với những biến cố họ mạnh mẽ hơn, không còn quá sợ hãi mà bình thản đối mặt, chấp nhận. Thời gian đã tôi luyện cho con người những bản lĩnh, để vững vàng bước tới những con đường mới, chặng đường mới mà chẳng ngại gian khó, chẳng chùn bước sợ hãi.

Hữu Thỉnh đã đóng góp vào thơ ca dân tộc một bản nhạc mùa thu đầy xinh đẹp, hấp dẫn và gợi cảm. Sức thu hút của thi phẩm không chỉ đến từ ngôn từ, giống điệu mà còn đến từ trái tim của người viết gửi gắm vào tác phẩm.

10

Bài cảm nhận số 9

Vote
100%
Bài cảm nhận số 9

Mùa thu luôn là đề tài của các nghệ sĩ, nó gợi nhiều cảm xúc đối Với thi nhân. Theo Xuân Diệu, thu là dáng buồn liêu, là những luồng run rẩy rung rinh lá, đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh. Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là một hình ảnh mùa thu đầy thơ mộng: Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô. Thu điếu của Nguyễn Khuyến là sự vắng lặng, yên ả của không gian, là cảnh đẹp nên thơ của nước hồ thu. Còn Hữu Thỉnh với bài thơ Sang thu, ông đã khắc họa bức tranh mùa thu tươi đẹp, bức tranh đang ở thời khắc giao mùa với một làn hương mới. Mùa thu trong bài thơ của Hữu Thỉnh không có dáng vẻ tĩnh mịch, hồn thơ không vương vấn những cảm xúc buồn như mùa thu ở trong thơ của Nguyễn Khuyến, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Du hay Xuân Diệu…

Sang thu là một bài thơ gợi tả thiên nhiên tươi đẹp. Đất trời đang chuyển mình từ cuối hạ sang thu. Mở đầu bài thực là một phát hiện bất ngờ:

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.

Mùa thu đã xuất hiện ở một làng quê Việt Nam. Mùa thu với hương thơm mộc mạc nhưng đầy hương vị ấm nồng. Hương ổi phả trong gió nhẹ đã làm cho con người nhận ra ngay mùa thu đang đến. Động từ phả thể hiện một mùi hương nồng nàn, lan tỏa trong không gian, hoà quyện với làn gió nhẹ để tạo nên một cảm giác thật đáng yêu. Cảm giác ấy không phải trầm buồn, ướt lệ mà là một cảm giác vui tươi đến bất ngờ, mới mẻ. Mùa thu đã mang đến hương thơm và sương mờ ướt lạnh. Sương chùng chình đã tạo nên một phong cảnh đáng yêu. Chùng chình là sự kéo dài, chậm chạp như muốn chờ muốn đợi ai đây? Cảnh vật cứ dần như thế, mềm mại như thế và thu đến tự lúc nào không hay. Nhà thơ đã ngỡ ngàng trước cái đến bất chợt của mùa thu.

Cảm giác bỡ ngỡ ban đầu đã tan biến và nhường chỗ cho sự rung cảm mãnh liệt trước mùa thu tươi sáng:

Sông bắt đầu dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Những đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.

Ở khổ thơ thứ hai, dấu hiệu sang thu mang tính rõ nét hơn. Tác giả không cảm nhận bằng khứu giác mà cảm nhận trực tiếp bằng thị giác. Từ láy dềnh dàng diễn tả sự chậm chạp, thong thả của dòng nước sông mùa thu. Dấu hiệu mùa thu còn thể hiện ở cánh chim trời, chim vội vã bay vì trời mùa thu nhanh tối hơn mùa hạ, chim phải bay nhanh về tổ.

Mùa thu với đất trời sáng trong, sống lặng lờ, thong thả chảy cùng với đàn chim đang tung cánh bay cao. Hình ảnh đám mây mùa hạ đang vật nửa mình sang thu là sự chuyển biến của đất trời. Dù sang thu nhưng dư âm mùa hạ vẫn còn. Một bóng mây vương lại như sự quyến luyến, ngập ngừng.

Mùa thu với nắng nhẹ, dịu êm. Đất trời như thay áo mái nhưng vẫn có đâu đây làn nắng ấm mùa hè. Có lẽ đây là hình ảnh đẹp nhất thể hiện nét riêng của sự giao mùa từ hạ sang thu. Đám mây ở thời điểm này rất đẹp, nó như chiếc cầu nối giữa hai mùa. Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hoá để diễn tả sự chuyển giao của đất trời. Mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” bởi còn chần chừ, lưu luyến. Dù sang thu nhưng vẫn còn vương vấn những hình ảnh của mây mùa hạ. Đây là sự biến chuyển nhẹ nhàng của trời đất phút giao mùa.

Kết thúc bài thơ là hình ảnh thiên nhiên của mùa thu:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.

Phong cảnh mùa thu hiện ra thật rõ nét. Nắng mùa thu đang nồng đượm. Mưa mùa hạ vơi dần nên âm thanh của sấm cũng không còn làm cho con người ta giật mình, hốt hoảng. Mùa thu không những làm cho hàng cây như già dặn hơn, đứng tuổi hơn mà mùa thu càng làm cho hàng cây như vững vàng hơn trước những biến cố của thiên nhiên. Cây lá mùa thu vẫn nhuốm buồn vì lá dần ngả sang màu úa theo quy luật của thiên nhiên nhưng nó vẫn mang một dòng nhựa rạo rực, tràn trề sức sống. Khi thu đến, nó đã chuẩn bị cho nhiệm vụ mới của mình. Hình ảnh hàng cây đứng tuổi và ấm đã gợi lên một ý nghĩa sâu xa hơn, đó là hình ảnh con người từng trải trước những tác động của ngoại cảnh, những biến cố bất thường của cuộc đời.

Với bút pháp tả thực về thiên nhiên, cách sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu, thấy được những chuyển biến nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời từ hạ sang thu. Tác giả đã vẽ nên bức tranh mùa thu quê hương nồng đượm, ấm áp tình người, nó bình dị mà tươi tắn, sống động, nó tôn thêm vẻ đẹp của đất nước Việt Nam.

Trên đây là một số dàn ý và bài văn cảm nhận chi tiết bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh. Hy vọng những nội dung trên sẽ giúp ích cho bạn trong quá trình tìm hiểu tác phẩm sâu hơn bạn nhé!