Top 10 dàn ý và bài văn hay phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
- 861 views
- 3 likes
Tây Tiến là một trong những bài thơ thể hiện rất rõ chất tình trong thơ nói riêng và phong cách sáng tác nói chung của tác giả Quang Dũng. Bài thơ là bản anh hùng ca cất vang lên giữa núi rừng Tây Bắc với hình ảnh người lính hiên ngang trước những khó khăn hiểm nguy của bối cảnh chiến tranh bấy giờ nhưng cũng không kém phần yêu đời và lãng mạn. Và Tây Tiến cũng chính là bức tranh thiên nhiên vô cùng hùng vĩ có núi có sông và những làn khói cuồn cuộn nơi núi rừng. Những hình ảnh ấy vừa gợi mở về những khó khăn nhưng cũng chính nơi ấy là nơi thân thương và gắn bó của những người lính tuyến đầu Tổ quốc. Để hiểu thêm về bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến, hãy cùng Topshare đến với những dàn ý và bài phân tích được tham khảo và chọn lọc dưới đây bạn nhé!
6
Bài phân tích số 5

Mỗi một vùng đất mà con người có cơ hội đặt chân đến ắt hẳn sẽ ít nhiều để lại trong lòng họ những ấn tượng khó phai. Với Quang Dũng thì Tây Bắc – nơi đoàn binh của ông đã từng sống và hoạt động không chỉ là một miền nhớ dạt dào bởi ở đó có bóng dáng của những người đồng đội thân thương mà nó còn để lại trong tâm trí nhà thơ những dấu ấn về hình ảnh thiên nhiên. Thiên nhiên ấy, tuy hoang sơ, xa xôi, hùng vĩ và dữ dội nhưng cũng rất thơ mộng và trữ tình. Những kí ức tươi đẹp về thiên nhiên của vùng đất Tây Bắc đầy kỉ niệm của một thời lính trẻ sẽ được Quang Dũng thể hiện trong những vần thơ của thi phẩm “Tây Tiến”.
Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên Tây Tiến hay hình tượng người lính trong bài thơ, người đọc trước hết cần nắm được đôi nét về tác giả cũng như tác phẩm.
Quang Dũng, sinh năm 1922 – mất năm 1988, quê ở Đan Phượng thuộc tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Ông tên thật là Bùi Đình Diệm và nổi tiếng với vai trò là một nhà thơ với vô số những tác phẩm tiêu biểu cho nền văn học nước nhà: “Rừng biển quê hương” (1957), “Đường lên Châu Thuận” (1964), “Rừng về xuôi” (1968), “Mây đầu ô” (1986).
Bên cạnh việc thể hiện sự tài hoa của mình trong nghệ thuật thơ ca, nhà thơ còn cho thấy nhiều năng khiếu khác của bản thân như vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn… Cũng giống như biết bao người trai trẻ có lí tưởng phụng sự sức mình cho đất nước, Quang Dũng cũng xung phong vào lực lượng bộ đội nước nhà để rồi trở thành một nhà thơ – chiến sĩ gốc Hà Thành hào hoa, lịch thiệp.
Đặc biệt, sự sôi nổi, hăng hái trong cả việc quân ngũ và sáng tác được thể hiện nhất là vào giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám. Chính tài năng và những dấu ấn của Quang Dũng trong thơ văn đã làm nên sự thành công trong sự nghiệp sáng tác, giúp ông được vinh danh với giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
Có thể thấy, bức tranh thiên nhiên Tây Tiến hiện lên trong tác phẩm mang vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội lại rất diễm lệ và trữ tình. Cảm nhận bức tranh thiên nhiên Tây Tiến chính là việc phân tích những nét đẹp đó về núi rừng thiên nhiên Tây Bắc.
Qua những vần thơ mà Quang Dũng thể hiện, bức tranh thiên nhiên Tây Tiến được tái hiện với những nét vẽ vừa hùng vĩ, vừa dữ dội. Mỗi một địa danh xuất hiện trên trang viết lại mang tính chất rất đặc trưng.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Bức tranh thiên nhiên Tây Tiến còn hiện lên với hình ảnh Sài Khao, Mường Lát với “sương lấp”, “đêm hơi” đã gợi ra sự bất lợi của điều kiện thiên nhiên. Phải sống và làm việc trong địa hình lúc nào cũng có sương phủ, hơi lạnh ắt hẳn người lính cũng phải chịu rất nhiều những khổ cực, gian nan. Động từ “lấp” đã cho thấy sự lấn lướt con người của màn sương nơi đây cũng như cho thấy được cái khó khăn cái lạnh giá nơi núi rừng.
Những khổ cực, gian nan ấy cứ kéo dài từ ngày này qua tháng đã làm cho những vất vả mà “đoàn quân mỏi” thêm phần nặng nề, khó khăn hơn nữa. Không chỉ gặp khó khăn điều kiện thời tiết mà chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến cũng rất trắc trở, gập ghềnh:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”
Câu thơ có sự xuất hiện của điệp từ “dốc” đã tạo nên cảm giác trúc trắc, vời vợi của chặng đường phía trước mà những người chiến sĩ phải vượt qua. Không những vậy, những khó khăn, trở ngại ấy lại như được tiếp nối khi địa hình được miêu tả với các đặc tính “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”. Đây là những từ láy tượng hình có kết cấu nhiều thanh trắc đã đặc tả sự hiểm trở của bước đường hành quân.
Con đường ấy không chỉ vừa cao vừa hun hút mà còn hiu hắt và vắng lặng đến vô cùng. Từ “ngàn thước” được lặp lại hai lần cùng với cặp từ tương phản “lên” – “xuống”. Cùng với nhịp thơ 4/3 đã khiến cho độ cao, độ sâu của địa hình thêm đậm nét. Bức tranh thiên nhiên Tây Tiến còn hiện lên qua hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” vừa gợi được độ cao của con dốc vừa gợi được cái tinh nghịch trẻ trung của người lính Tây Tiến.
Đứng trước độ cao của con dốc phóng tầm nhìn chẳng thấy gì ngoài mây trắng che phủ nhưng người lính không cảm thấy sợ hãi cũng không thấy mệt mỏi mà họ vẫn có thể nhìn thiên nhiên bằng con mắt yêu đời. Người lính hành quân vừa phải trải qua những đoạn đường trúc trắc, đứt gãy mà còn đối mặt với sự hiểm nguy, rợn ngợp của núi rừng và thú dữ:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
Sự hùng mĩ mà đầy dữ dội của bức tranh thiên nhiên Tây Tiến còn thể hiện qua sự rình rập của cọp dữ, tiếng gầm thét của thác cao như muốn góp thêm phần mình vào những trở ngại để thử thách lòng dũng cảm của người lính. Nhưng dưới sự dữ dội có ẩn chứa những bất trắc như thế, người lính dù quả cảm đến như thế nào thì cũng có lúc họ đã trở nên đuối sức rồi “gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Hình ảnh nhân hóa kết hợp với vòng thời gian “chiều chiều”, “đêm đêm” cho thấy sự khó khăn lặp đi lặp lại như một điều quen thuộc với người lính tây tiến. Và góp phần tạo được nhạc điệu cho dòng thơ, diễn tả được cái âm thanh của núi rừng bạt ngàn.
Thế nhưng, khi chứng kiến sự ra đi của những người anh hùng áo lính, núi sông Tây Bắc trong phút tiễn đưa các anh dù vẫn hùng thiêng, dữ dội nhưng lại gây một sự xúc động lớn lao trong lòng người vì tiếng thét gầm vang dội:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Có thể thấy sự ra đi của người chiến sĩ đã có sức rung động lớn lao đến thiên nhiên tạo vật. Rõ ràng, trong trí nhớ của những người lính, Tây Bắc là vùng đất có thiên nhiên rất đỗi kì vĩ, tráng lệ và gắn liền với từng chặng đường hành quân của các anh. Những gì các anh từng trải qua, những điều các anh từng cố gắng đều in dấu lên các sườn dốc, nẻo đường của vùng đất ấy….
Thế nên, có lẽ đối với các anh, bức tranh thiên nhiên Tây Tiến nơi đây dù không ít lần thử thách lòng dũng cảm, sự kiên nhẫn bởi sự hùng vĩ, dữ dội nhưng có lẽ nó cũng đỡ trở thành người bạn đường đồng hành cùng người chiến sĩ trong công tác chiến đấu. Do vậy, khi một trong số những “người bạn” của mình không may phải hy sinh thì vạn vật cũng tiếc thương khôn xiết.
Viết “Tây Tiến”, Quang Dũng đồng thời đã phác họa nên trước mắt người đọc bức tranh về thiên nhiên của vùng đất này. Trong bức tranh ấy, có những đường nét mạnh mẽ, dữ dội như đã nói ở phần trên nhưng cũng có khi, thiên nhiên xuất hiện với vẻ đẹp dịu dàng, trữ tình:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Dòng thơ như vẽ ra trước mắt người đọc một khung cảnh bao la rộng lớn của núi rừng. Không gian ấy như bị bủa vây bởi cơn mưa ngút trời. Nhưng nét độc đáo ở đây là cơn mưa ấy không gợi lên một không khí u ám mệt mỏi hay nặng nề hoang vắng mà ngược lại là một cảm giác thơ mộng, ấm áp. Bởi sự xuất hiện của hình ảnh “nhà”.
Mái nhà hiện lên trong tầm mắt của người chiến sĩ khi anh phóng tầm mắt ra khơi. Mái nhà ấy gợi biết bao nhiêu tình cảm. Đó chính là điểm tựa là động lực để người lính Tây Tiến chiến đấu – chiến đấu để bảo vệ những mái nhà hạnh phúc ấm êm. Đại từ “ai” càng khiến cho hình ảnh ngôi nhà như chìm sâu vào mộng ảo. Câu thơ toàn thanh bằng như một hơi thở nhẹ nhàng của người lính. Chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đã đủ tiếp sức cho người lính trên bước đường hành quân mệt mỏi này.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Nếu như trước đó, những câu thơ gợi lên sự trắc trở, gập ghềnh của chặng đường hành quân thì những câu thơ này đã làm thiên nhiên Tây Bắc như thơ mộng hơn khi nó xuất hiện cùng với hình ảnh bữa cơm ấm nồng nghi ngút khói, nếp xôi thơm lừng cả xóm thôn.
Chính những hình ảnh đó đã tạo ra không gian thật gần gũi, quen thuộc của cuộc sống giữa tình thân với những bữa cơm đầm ấm mà mỗi người lính Tây Tiến đã từng có nơi quê nhà. Đặc biệt, khi đưa tầm mắt ra xa để thấy thấp thoáng bóng dáng “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thì người chiến sĩ như tìm được cho mình điểm tựa để được vỗ về, an ủi sau biết bao những mỏi mệt, gian lao đã trải qua.
Không gian, cảnh vật trong bức tranh thiên nhiên Tây Tiến bỗng chốc đáng yêu đến vô cùng, thậm chí có thể giúp những người lính trẻ bộc lộ nét hóm hỉnh, tếu táo đùa vui: núi cao “heo hút cồn mây” vời vợi là thế, khiến các anh vất vả là thế nhưng chẳng phải đã tạo ra hình ảnh “súng ngửi trời” rất thú vị đó sao?
Chính sự lạc quan, vui vẻ, xem thường những trở ngại, khó khăn trong hành trình hành quân đã khiến người lính Tây Tiến như đứng ở vị thế làm chủ thiên nhiên. Bước đường hành quân có lẽ vì vậy mà cũng vơi dần nhọc nhằn, vất vả.
Bức tranh thiên nhiên Tây Tiến mang đặc trưng của vùng núi rừng hùng vĩ, tráng lệ, cũng có khi trữ tình, nhẹ nhàng và đã có lúc như chất chứa biết bao nỗi niềm, tâm tình của người lính với sự thơ mộng khiến con người lưu luyến, vấn vương:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Bốn câu thơ vừa cho thấy nét thơ, vừa thể hiện chất họa của một miền sông nước Tây Bắc mà cảm giác gợi lên trong lòng người những cảm giác mênh mang, huyền ảo vì được chứng kiến một xứ sở tuyệt đẹp như trong cổ tích thuở xưa. Ba từ “chiều sương ấy” đã gợi lên không gian bao la, rộng lớn và gợi lên một thời khắc đã qua. Trong không gian và thời gian ấy, cảnh vật như cũng có linh hồn riêng của nó (“hồn lau”) và con người thì xuất hiện thật duyên dáng trên chiếc “độc mộc” xinh xinh.
Thêm vào đó, hình ảnh dòng nước có hoa trôi rất tình tứ trong trạng thái “đong đưa” như làm dịu đi tính chất mạnh mẽ, ào ạt củ dòng nước lũ đổ về. Chỉ với vài nét chấm phá đơn sơ, cảnh vật và con người đã ẩn hiện trong màn sương của núi rừng Tây Bắc.
Nhà thơ không chỉ cố gắng làm hiện lên trước mắt người đọc cái vẻ huyền ảo của thiên nhiên, sự quyến rũ của con người mà còn tạo nên nỗi ám ảnh trong lòng người đọc bởi cái hồn của cảnh ấy và người ấy. Cách lặp từ linh hoạt “có thấy”, “có nhớ” cũng góp phần làm cho nỗi nhớ mênh mang và cảm giác ấn tượng thêm sâu sắc trong lòng người. Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên Tây Bắc ta còn thấy vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của mảnh đất nơi đây dường như được khảm sâu và vang vọng vào lòng người bằng những câu thơ với nhiều thanh bằng như xoa dịu đi những gian khó, nhọc nhằn, vất vả.
Về nội dung, bài thơ “Tây Tiến” đã cho người đọc hình dung về một bức tranh tuyệt đẹp giữa ý chí, lòng quyết tâm của những người chiến sĩ Tây Tiến và sự hùng vĩ, trữ tình của thiên nhiên nơi đây. Những ấn tượng về bức tranh thiên nhiên Tây Tiến và hình ảnh con người được tạo nên trong những vần thơ của Quang Dũng đã cho thấy sự thành công của tác giả về phương diện nghệ thuật.
Đó là việc nhà thơ đã sử dụng ngòi bút tả thực, không hề né tránh những mất mát, hy sinh cùng bút pháp lãng mạn, bay bổng. Bên cạnh đó, sự linh hoạt trong giọng thơ (khi trang trong, đau thương, lúc nhẹ nhàng, bay bổng) cùng với nhiều phép tu từ đặc sắc (đặc biệt là phép nói giảm nói tránh) đã tạo nên dấu ấn khó phai khi nhắc đến thi phẩm “Tây Tiến”.
Tóm lại, bằng những nét vẽ vừa gân guốc, cứng cỏi nhưng cũng rất thanh thoát, nhẹ nhàng, Quang Dũng đã gợi nên một bức tranh thiên nhiên vừa hùng vĩ, mĩ lệ nhưng lại vô cùng thơ mộng. Thông qua bức tranh thiên nhiên Tây Tiến ấy, dường như nhà thơ cũng đã kín đáo gửi gắm sự ngợi ca của mình về vẻ đẹp tâm hồn của người lính: trong khó khăn, gian khổ vẫn luôn lạc quan, lãng mạn, hào hoa và tràn đầy niềm tin vào cách mạng.
7
Bài phân tích số 6

Tác phẩm “Tây Tiến” là một trong tác phẩm thành công nhất của chàng thi sĩ Hà thành Quang Dũng. Từ thiên nhiên hùng vĩ tới tâm tình người lính trẻ đều được nhà thơ khắc họa chân thực, đầy kiêu hùng.
"Tây Tiến" giúp người đọc cảm nhận được tâm hồn lãng mạn của chàng trai Hà Nội - Quang Dũng. Đường ra trận dù hiểm nguy, cái chết cận kề nhưng vẫn có những phút giây thư thái ngắm nhìn thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ.
Tây Tiến” được sáng tác năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng nhỏ ven sông Đáy hiền hòa, được xem là tác phẩm tiêu biểu cho đời thơ của Quang Dũng và cũng là một thi phẩm đặc sắc viết về người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Trước và sau Tây Tiến đã có biết bao chân dung người lính được tạc vào dòng chảy bất tận của văn chương nước nhà nhưng những chàng trai Tây Tiến vẫn có một cái gì đó rất riêng. Những nét riêng ấy không chỉ toát ra từ tâm hồn hào hoa đa tình lãng mạn của những chàng trai trẻ đất Hà thành năm ấy mà chính thiên nhiên Tây Bắc đã góp phần giúp họ làm nên dáng vẻ độc, lạ, ấn tượng và cũng rất đỗi hiên ngang kiêu hùng trên mỗi bước đường hành quân. Cho nên đọc Tây Tiến không chỉ để hiểu thêm về chân dung những người đồng đội của Quang Dũng mà còn được đắm mình vào thiên nhiên Tây Bắc để cảm nhận tất cả vẻ đẹp hùng vĩ mà cũng rất đỗi nên thơ của nó.
Thiên nhiên Tây Bắc từ trong hiện thực đi vào thơ văn hình như không bao giờ mất đi những vẻ đẹp vốn có của nó. Vẫn là nét hùng vĩ dữ dội toát lên từ những đỉnh núi cao vời vợi, cao chạm đến trời; toát lên từ những cung đường quanh co uốn lượn giữa muôn ngàn núi non trùng điệp với những triền dốc cheo leo. Nhưng cách mà Quang Dũng miêu tả mới thật là ấn tượng bởi những câu thơ được xem là tuyệt bút:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha luông mưa xa khơi”
Những từ láy: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” như gợi lên đầy đủ đặc điểm của rừng núi Tây Bắc sâu thẳm ngút ngàn và vẽ ra một khung cảnh thật hùng vĩ. Trong câu chữ hiện ra hình ảnh những con dốc ngoằn ngoèo trong cái địa thế vô cùng hiểm trở của những dốc núi dựng đứng với “ngàn thước lên cao” rồi bất ngờ đổ xuống “ngàn thước xuống” thành những vực sâu thăm thẳm gợi cảm giác địa hình đứt gãy đột ngột đến ghê rợn. Không gian vì thế cũng trở nên hoang sơ, hùng vĩ biết bao.
Nhưng Tây Bắc đâu chỉ có cảnh dốc lối dốc, đèo nối đèo mà trên dọc đường hành quân của những chàng trai Tây Tiến, họ cũng bắt gặp những khoảnh khắc nên thơ của núi rừng Tây Bắc. Từ trên đỉnh Pha Luông vời vợi, khung cảnh bản làng chìm lấp ẩn hiện giữa cơn mưa rừng mờ mịt đến mênh mông tạo cảm giác thật bâng khuâng, mát dịu đến nao lòng.
Có thể nói, vẻ đẹp thiên nhiên miền Tây Bắc không chỉ đến từ sự cảm nhận tinh tế của Quang Dũng mà trở nên thật ấn tượng bởi ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ đa tài: tài dùng ngôn ngữ, tài “gieo rắc” thanh điệu đến bất ngờ để rồi từ đó cảnh vật hiện ra như vẽ, âm hưởng ngân lên như nhạc. Đường nét vừa gân guốc vừa mềm mại theo âm điệu bằng trắc làm cho thiên nhiên Tây Bắc hiện ra như một bức tranh thủy mặc.
Núi rừng Tây Bắc còn là nơi ẩn chứa vô vàn những điều kì thú làm say lòng những tâm hồn lãng mạn của những chàng trai Tây Tiến.
Chinh chiến qua nhiều vùng đất, mỗi địa danh, mỗi tên gọi đều gợi lại biết bao kỉ niệm. Nhớ đến Sài Khao với cảnh sương núi chập chùng qua câu thơ “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Và Mường Lát thì “hoa về trong đêm hơi”. Dù hoa rừng hay sương núi quyện lại thì đều khiến cho Tây Bắc trở nên thật diệu kì với cảnh hoa nở về đêm.
Còn đặt chân đến Mường Hịch cùng với sự luân chuyển tuần hoàn của thời gian chiều chiều, đêm đêm giữa núi rừng miền Tây hoang dã lại càng cảm nhận hết vẻ bí hiểm dữ dội của thiên nhiên với những âm thanh của “thác gầm thét”, với bóng dáng lởn vởn của những vị chúa tể sơn lâm xuất hiện để “trêu người”. Nhưng tất cả dường như chỉ để thử thách ý chí can trường của những chàng trai Tây Tiến mà thôi. Thiên nhiên càng dữ dội, chân dung người lính càng hiện ra một cách hào hùng bởi thiên nhiên ấy luôn làm phông nền để nổi bật con người. Thiên nhiên ấy là một phần trong họ nên thật gần gũi thân thương.
Đến với Tây Bắc, người đọc càng không quên vẻ đẹp thơ mộng của vùng đất Châu Mộc. Khung cảnh bằng bạc với hình ảnh lau lách ngút ngàn trong sương chiều gió núi. Với những bông hoa rừng đong đưa bên bờ suối bên những dòng nước lũ. Cái thực cái ảo quyện vào nhau; cái gân guốc, cái mềm mại được đặt cạnh nhau.
Câu chữ của Quang Dũng, từ: chiều sương ấy, hồn lau, đong đưa... cho đến âm hưởng luyến láy trong những cấu trúc: có thấy...; có nhớ... đã lột tả được những đường nét, màu sắc lẫn linh hồn của tạo vật. Cảnh vật vừa sống động vừa thấp thoáng nét hoài niệm đậm chất cổ điển mà cũng rất hiện đại. Cảnh thực mà như mộng trong thế giới nhớ thương của thi nhân thật lưu luyến lòng người.
Có thể nói, miền đất Tây Bắc, nơi địa đầu của Tổ quốc, đã bao lần đi vào trong thơ văn nhạc họa. Nhưng với “Tây Tiến” vẫn lưu lại những ấn tượng rất riêng trong lòng bạn đọc bởi thiên nhiên ấy được viết nên bởi một tâm hồn lãng mạn và một tình cảm đắm say của người lính. Tây Tiến có thể xem là một trong những bài thơ “đi cùng năm tháng” và cảm tưởng như theo thời gian, Tây Tiến càng để lại cũng cảm xúc mặn mà hơn trong lòng bạn đọc – một bài thơ được dệt nên từ niềm thương nỗi nhớ trong lòng Quang Dũng khi hướng về đồng đội và núi rừng Tây Bắc một thời gắn bó.
8
Bài phân tích số 7

Tây Tiến là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng. Nhắc đến nhà thơ, không ai không thể không nhớ đến Tây Tiến. Bởi lẽ nó đã gắn bó một thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là một đơn vị bộ đội thời kháng chiến chống Pháp được thành lập năm 1947 làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào, trấn giữ một vùng rộng lớn ở Tây Bắc nước ta và biên giới Việt Lào. Quang Dũng từng là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến nhưng đến đầu năm 1948 vì yêu cầu nhiệm vụ ông chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được sáng tác cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở Phù Lưu Chanh làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ ông đã viết nên bài thơ. Lúc đầu, ông đặt bài thơ là Nhớ Tây Tiến nhưng về sau đổi lại thành Tây Tiến vì nhà thơ cho rằng chỉ với 2 từ Tây Tiến cũng đủ đã gợi lên nỗi nhớ là cảm hứng chủ đạo chứ ko cần đến từ “nhớ”
Là một người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, sống và chiến đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng nhà thơ. Một thời gắn bó sâu đậm với Tây Tiến, với đồng đội, với núi rừng đã làm cho ông ko khỏi bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong kí ức của nhà thơ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”
Câu thơ như tiếng gọi chân thành , tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã gọi tên cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ cồn cào, da diết về núi rừng Tây Bắc. bằng thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. “Sông Mã” ko đơn thuần là 1 con sông mà nó đã trở thành một hình ảnh hiện hữu, một chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui - buồn, được - mất. “Tây Tiến” ko chỉ để gọi tên một đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành 1 người bạn ” tri âm tri kỷ” để nhà thơ giãi bày tâm sự
“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Câu thơ thứ 2 với điệp từ “nhớ” được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn cào đang ùa vào tâm trí Quang Dũng. tính từ “chơi vơi” kết hợp với từ “nhớ” đã khắc sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ và nỗi nhớ đó như cơn thác lũ tràn vào tâm trí nhà thơ đã đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. Hai câu đầu và cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông… Đó là địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, những nơi họ đi qua và dừng chân trên bước đường hành quân gian khổ, mệt nhọc. Nói đến Tây Bắc, là nói đến vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, ko nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần ko “mỏi”. Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì tổ quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để khắc hoạ hơn sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về “sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”
Có lẽ thiên nhiên rất gắn bó với người lính Tây Bắc nên nó đã trở thành 1 kí ức khó phai trong lòng nhà thơ. Thiên nhiên tuy có đẹp nhưng cũng rất hiểm trở. Có những lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” mà ko dùng từ “chót vót” bởi nói “chót vót” người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm thẳm” thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Nhà thơ cũng rất trẻ trung, tinh nghịch khi đưa hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ “súng ngửi trời” để cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra 1 ko gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên thật hùng vĩ, giăng mắc. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã thông minh, sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. Nó gợi lên 1 cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 nhiều thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng và mở ra 1 bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. 8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây Tiến nhưng qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành 1 kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là 1 nỗi nhớ mãnh liệt của người lính Tây Tiến nói riêng và của những người lính nói chung.
Bài thơ “Tây Tiến” dưới ngòi bút của lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng đã trở thành 1 kiệt tác của mọi thời đại. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ đó là cảm hứng về nỗi nhớ. Quang Dũng đã miêu tả nỗi nhớ đó bằng ngòi bút tài tình giàu chất nhạc, chất họa và đậm chất thơ. Bài thơ là 1 khúc nhạc của tâm hồn, của cuộc sống. Bởi thế, Xuân Diện thật chính xác khi cho rằng đọc bài thơ “Tây Tiến” như đang ngậm âm nhạc trong miệng. Bài thơ hay bởi lẽ nó được viết nên từ ngòi bút hào hoa, lãng mạn và của 1 người lính Tây Tiến nên nó có 1 cái rất riêng và đẹp. Mang chất lính nên Quang Dũng mới có thể viết nên những vần thơ hay như thế.
“Tây Tiến” là 1 bài thơ hay được viết nên bởi tâm hồn, tài hoa, lãng mạn của người lính trí thức tiểu tư sản Quang Dũng. Bài thơ như 1 bức tượng đài bất tử đã tạc vào nền văn học Việt Nam hình ảnh những người lính trí thức yêu nước vô danh. Bài thơ xứng đáng được xem là kiệt tác của Quang Dũng khi viết về người lính trí thức tiểu tư sản hào hoa, phong nhã.
9
Bài phân tích số 8

Tây Tiến là sự tiếp tục của một dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả thổi vào hồn thơ rất trẻ, rất mới, khác hẳn những tiếng thơ bi lụy não nùng” – Vũ Thu Phương
Tây Tiến là một trong những áng thơ đẹp nhất của nền văn học Việt Nam, đi lại liên tục giữa lãng mạn và hiện thực, giữa hòa hoa phong độ và kiên cường bất khuất. Có thể nói, Quang Dũng đã thổi một hồn thơ rất riêng vào những tác phẩm của ông, để nó vừa làm bật lên nét đẹp thiên nhiên thơ mộng.
Tây Bắc là nàng thơ của rất nhiều nhà thơ, bởi thiên nhiên nơi đó mang một nét đẹp vô cùng đặc trưng khi vừa có sự lãng mạn nên thơ, vừa có sự hoang sơ, nguy hiểm của đồi núi. Nét đẹp đó đã chiếm trọn trái tim của nhà thơ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
Mở đầu bài thơ là hình ảnh sông Mã, địa danh nổi tiếng của Tây Bắc. Gợi mở cho nỗi nhớ của nhà thơ về vùng núi hoang sơ mà kì vĩ. Cảm xúc chủ đạo trong bài thơ là nỗi nhớ:
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Đó là một nỗi nhớ khó có thể định hình, tính từ chơi vơi diễn tả sự da diết, lại mông lung khó có thể nói bằng lời. Những cuộc chia tay không hẹn trước, chỉ còn có thể tồn tại trong nỗi nhớ như vậy là điều thường xuyên bắt gặp trong thời kì chiến tranh:
Ðó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai hồng
Trưa một ngày sắp ngả sang đông
Thu, bỗng nắng vàng lên rực rỡ - Cuộc chia li màu đỏ
Nhà thơ nhớ thiên nhiên Tây Bắc da diết:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Nhà thơ lựa chọn những địa danh lạ lẫm, ít ai nhắc tới để diễn tả sự heo hút của nơi đây, vắng vẻ và ít người qua lại. Cả Tây Tiến là một nỗi nhớ khôn nguôi của nhà thơ về một vùng đất một thời trận mạc. Vậy nên, khi nhắc đến địa danh này, ta nhận thấy những kí ức của quá khứ hiện về thật tươi nguyên, nó chen lấn thực tại, tạo nên độ nhoè giữa hai không gian: không gian hiện tại và không gian hồi tưởng. Bởi thế, dù lạ lẫm, qua hồn thơ và nỗi nhớ Quang Dũng, các địa danh ấy xâm chiếm cõi nhở người đọc, giúp họ yên tâm cùng "Quang Dũng -trôi’ về một vùng đất đẹp đẽ, dữ dội và mộng mơ, đằm thắm.
Thiên nhiên ấy được thể hiện rõ hơn qua những câu thơ tiếp theo:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Nhà thơ sử dụng cách ngắt nhịp thơ 4/4, thanh trắc nhiều khiến câu thơ như bị bẻ gãy làm đôi, nhằm diễn tả độ cao tuyệt đối của núi rừng Tây Bắc. Các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” diễn tả sự trắc trở của địa hình hiểm trở, các tính từ mạnh làm tăng mức độ hiểm trở của thiên nhiên Tây Bắc. Độ cao của Tây Bắc được diễn tả bằng câu thơ “ súng ngửi trời” là một nét phá cách của Quang Dũng. Số từ ngàn như càng làm tăng thêm khoảng cách. nét hùng vĩ dữ dội toát lên từ những đỉnh núi cao vời vợi, cao chạm đến trời; toát lên từ những cung đường quanh co uốn lượn giữa muôn ngàn núi non trùng điệp với những triền dốc cheo leo. Câu thơ khiến người đọc mường tượng được những vực sâu thăm thẳm, hun hút. Trong thơ có cả họa và nhạc, sự kết hợp tài tình của ngôn từ đã giúp người đọc hình dung ra được bức tranh thiên nhiên một cách trọn vẹn nhất.
Nhưng Tây Bắc không chỉ hùng vĩ, không chỉ có heo hút. Tây Bắc cũng rất nên thơ và lãng mạn:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Câu thơ đột ngột sử dụng toàn thanh bằng nhằm diễn tả sự nên thơ của núi rừng Tây Bắc, ta có thể mường tượng được núi rừng ẩn hiện sau màn mưa, yên bình và đẹp đẽ. Tây Bắc luôn có hai mặt, một mặt nguy hiểm cực độ, một mặt lại bình yên đến lạ lùng:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Chao ôi! Tây Bắc yểu điệu như một người thiếu nữ, thiên nhiên ẩn hiện trong làn khói, làn hương, ấm áp và đầy tình người. Nhà thơ Chế Lan Viên cũng đã từng viết:
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương
Có lẽ thiên nhiên Tây Bắc – cái nôi của cách mạng luôn chiếm trọn trái tim của các nhà thơ bởi vẻ đẹp hùng vĩ lại lãng mạn của nó.
Tây Tiến, với những hình ảnh chân thật nhất đã miêu tả thành công một thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, lại yên bình nên thơ, đồng thời làm bật lên được hình tượng người lính hào hùng, hào hoa mang đậm chất Hà thành
10
Bài phân tích số 9

Trước hết bằng bút thơ với những nét vẽ chắc khỏe, gân guốc của mình, Quang Dũng đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên Tây Tiến mang vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Quang Dũng đã triệt để trong việc khai thác tác dụng của các từ láy tạo hình để tăng thêm ấn tượng về bức tranh thiên nhiên Tây Tiến. Các con dốc khúc khuỷu treo leo như đang hiện ra qua từng câu thơ, từng nhịp thơ. Nhịp thơ nhanh, gấp gáp, dồn dập, như đang cọ vào nhau, như đang nghe thấy cái nhịp dữ dội phập phồng trong trái tim người chiến sĩ hành quân, mà cũng đồng thời vẽ ra một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng vô cùng hiểm trở. Các từ láy “khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút” tự nó như đã mở ra những khoảng lặng bất tận về thiên nhiên nơi đây. Như gợi ra cả ba chiều rộng, chiều sâu, chiều cao thăm thẳm của vách đá, vách núi, thậm chí như mở ra cả những không gian mênh mông, rợn ngợp đã từng ngự trị trong thơ cổ. Là một người rất am hiểu Đường thi, hẳn Quang Dũng đã khơi nguồn cảm hứng thơ của mình phần nào từ những câu thơ trong “Thục đạo nan” của Lý Bạch:
Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên!”
(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh)
Nếu như qua những câu thơ trên, ta thấy hiện lên hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội thì tiếp theo, điểm thêm vào những nét gân guốc ấy, là nét vẽ mềm mại, trữ tình, của thiên nhiên thơ mộng:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến mờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Quang Dũng, là một hồn thơ lãng mạn, vậy nên chắc chắn trong những trang hoa tờ hoa của mình, ông sẽ luôn phổ vào đó một vài nét vẽ mềm mại, hay một vài điểm gợi truyền cảm để để nhớ để thương rất nhiều trong tâm hồn người đọc. Có thể thấy, so với những địa danh trước đó như “Mường Hịch..” có âm hưởng nặng, trắc, trong khi đó, những địa danh ở các câu thơ này lại mềm hơn, da diết hơn, như đang trải ra cùng không gian mênh mông, dịu nhẹ “Mường Lát, Sài Khao”. Từ đó, có thể thấy, Quang Dũng không chỉ sử dụng tên địa danh như những tên đất, tên làng dân dã, mộc mạc, mà còn gửi vào đó biết bao ý tình nồng đượm, tạo nên những miền đất với sức gợi mênh mông trong tâm hồn người đọc. Đặc biệt là cảnh chiều sương châu Mộc chính là nét vẽ đẹp nhất, uyển chuyển thơ mộng nhất của bức tranh thiên nhiên Tây Bắc:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến mờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Thời gian buổi chiều, tự nó đã mở ra những khung nhạc buồn trong tâm hồn người đọc, chiều sương thì gợi ra sự mơ hồ, khói sương huyền ảo, chính vì thế làm cho không gian nơi đây càng gợi sự ảo huyền, sương khói. Hồn lau, chỉ một từ thôi nhưng Quang Dũng như đã điểm thêm vào nó sức sống, điệu hồn cho cây lau vốn hồn, vô sắc, cây lau như đang uyển chuyển nghiêng mình cùng dòng nước. Dáng người trên chiếc thuyền độc mộc, dòng nước lũ hoa đong đưa. “Đong đưa” chứ không phải đung đưa, chính cách dùng từ tinh tế, tài hoa ở đó đã giúp Quang Dũng phả thêm một điệu hồn vào cho cảnh vật, đó không đơn thuần là sự chuyển động vật lí, mà là sự chuyển động của tâm hồn, giàu sức gợi, như vương vấn, như níu kéo tâm hồn người đọc để ghé xuống trang sách để cùng cảm nhận cái cựa mình tinh tế, duyên dáng của thiên nhiên. Con người, thiên nhiên như đang hòa làm một, để cùng họa nên một bức tranh thủy mặc đẹp mà buồn đến lạ.
- tây tiến
- bài thơ tây tiến
- tây tiến quang dũng
- tác giả quang dũng
- thơ của quang dũng
- phân tích tây tiến
- bức tranh thiên nhiên trong bài thơ tây tiến
- văn mẫu
- văn hay
- bài văn hay
- bài phân tích văn học
- bài phân tích thơ tây tiến
- bức tranh thiên nhiên tây tiến
- người lính trong bài thơ tây tiến
- bình giảng tây tiến
- bố cục tây tiến
- giá trị nội dung
- giá trị nghệ thuật
- đặc sắc nghệ thuật bài thơ tây tiến
- phong cách tác giả quang dũng
- những bài văn hay
- học tốt ngữ văn
- ngữ văn 12
- ngữ văn ôn thi đại học
Phù hợp với bạn
29-05-2025 Thông Còi
11-01-2024 Chanh
22-01-2024 Chanh
28-12-2023 Chanh
19-12-2023 Chanh