Top 10 dàn ý và bài văn phân tích chi tiết tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
- 686 views
- 4 likes
Bài thơ Việt Bắc là một trong những tác phẩm thể hiện rất cụ thể và sinh động tính dân tộc trong phong cách sáng tác của tác giả Tố Hữu. Tính dân tộc dễ dàng được nhận thấy từ nội dung bài thơ cho tới những hình thức nghệ thuật được tác giả sử dụng trong tác phẩm. Tính dân tộc trong nội dung thể hiện bằng hình ảnh, phẩm chất người lính nói riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung. Hình ảnh ấy được khắc họa đậm nét với tình cảm gắn bó thiêng liêng giữa người với người, giữa con người với thiên nhiên. Đối với biện pháp nghệ thuật, tính dân tộc thể hiện bằng thể thơ lục bát truyền thống và tác giả sử dụng những lối nói gần gũi của ca dao, dân ca. Có thể nói, tính dân tộc đã làm nên dấu ấn rất riêng cho bài thơ Việt Bắc. Để hiểu thêm về tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc, hãy cùng Topshare đến với những bài phân tích hay được tham khảo và chọn lọc dưới đây bạn nhé!
6
Bài phân tích số 5

Tố Hữu (1920 - 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ra ở Thừa Thiên Huế. Ông là đại biểu xuất sắc của thơ ca cách mạng và kháng chiến.
Cuối năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta thắng lợi. Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà Nội sau chín năm kháng chiến gian khổ, trường kì. Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc để ghi lại tình cảm và mối quan hệ gắn bó khăng khít, nghĩa tình sâu nặng giữa nhân dân Việt Bắc với cán bộ và chiến sĩ cách mạng. Cũng như và hơn hẳn nhiều bài thơ khác, bài thơ Việt Bắc mang tính dân tộc rất sâu đậm. Qua đoạn trích học trong SGK Ngữ văn 12, ta sẽ thấy được điều đó.
Tính dân tộc chính là tất cả những đặc điểm thuần Việt, gần gũi với tâm hồn người Việt Nam. Ở bài thơ này, tính dân tộc biểu hiện trên nhiều phương diện như: kết cấu, hình ảnh, thể thơ, giọng điệu.
Tính dân tộc của bài thơ Việt Bắc thể hiện trước hết ở kết cấu đối đáp kiểu ca dao giao duyên.
Rất nhiều bài ca dao xưa thường dùng kiểu đối đáp để diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình:
- Mình nói với ai mình hãy còn son
Ta đi qua ngõ, thấy con mình bò
- Mình nói với ta mình chửa có chồng
Ta đi qua ngõ mình bồng con ra
Kiểu kết cấu đối đáp trong ca dao giao duyên là một kiểu kết cấu độc đáo để nhân vật trữ tình có thể vừa kể lể sự việc bộc lộ cảm xúc, thể hiện thái độ tình cảm với “đối phương” hoặc đối tượng được nói tới. Đây cũng là kiểu kết cấu tạo ra những khả năng vô hạn cho nhân vật trữ tình một “diện mạo” như ý muốn.
Tố Hữu đã vận dụng kiểu kết cấu tuyệt vời ấy trong một bài thơ mà mục đích của nó không phải để nói tới tình yêu của chàng - nàng, anh - em mà là một bài thơ ngợi ca mối quan hệ khăng khít gắn bó giữa chính phủ cách mạng và quê hương cách mạng với nhân dân Việt Bắc.
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng?
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Ở đây 2 chữ “mình - ta” biến hóa chỉ là sự phân đôi của một chủ thể. Cái “tôi” trữ tình của nhà thơ tự tách mình ra, một phần tâm hồn đã “thấm đất Việt Bắc” đang tâm tình với người cán bộ về xuôi. Nhân vật trữ tình đã bộc lộ tâm trạng nhớ thương, tình cảm ân nghĩa thủy chung giữa cán bộ cách mạng và mảnh đất Việt Bắc. Mình - ta cùng nhớ về những ngày tháng đồng cam cộng khổ: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, nhớ những ngày tháng reo ca lớp học i tờ; nhớ những ngày liên hoan ngân núi rừng; nhớ những tiếng mõ rừng chiều, nhớ tiếng chày đêm nện cối, nhớ người mẹ nắng cháy lưng, cô em gái hái măng một mình, nhớ người đan nón, nhớ những đuốc sáng từng đoàn quân điệp điệp trùng trùng tiến bước nhau ra trận địa. Các tiếng mình - ta, các tiếng gọi, hỏi, đáp cứ liên tiếp, xoắn xuýt lấy nhau, gối lên nhau, liên tiếp như những đợt sóng cảm xúc không ngừng nghỉ.
Mình về mình có nhớ không
Mình đi có nhớ những ngày
Mình về có nhớ chiến khu
Mình về, rừng núi nhớ ai
Mình đi, có nhớ những nhà
“Mình - ta” điệp khúc đan xen tạo ra âm hưởng từ những đợt sóng hoài niệm, những vùng kí ức tươi đẹp về sống động như vừa mới diễn ra. Tất cả tỉ mỉ, cụ thể tới mức người đọc có thể hình dung và tái hiện từng đường nét, dáng vẻ của mảnh đất Việt Bắc và con người nơi đây.
Kiểu kết cấu đối đáp mình - ta được Tố Hữu vận dụng một cách độc đáo, sáng tạo. Nó tạo nên giọng điệu tâm tình ru vỗ lúc như thủ thỉ, tâm tình, lúc lắng sâu vào nỗi nhớ, niềm thương, lúc trào dâng như những đợt sóng cảm xúc ào ạt, dạt dào. Sử dụng kiểu đối đáp trong ca dao, người đọc cứ tự nhiên bước vào tác phẩm mà không bị vướng cản bởi câu chữ, ngôi từ. Giọng điệu ru vỗ tha thiết của bài thơ cứ tự nhiên khiến hồn người đọc hòa chung vào dòng cảm xúc của “mình-ta” lúc nào không hay.
Có thể nói, đối đáp đã trở thành một kiểu kết cấu mở, có khả năng bộc lộ, mời gọi cảm xúc hết lớp này đến lớp khác tưởng chừng như không có điểm dừng. Đây là kiểu kết cấu giúp cho nhân vật trữ tình có khoảng rộng để bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của mình. Và với mỗi người Việt Nam luôn tìm thấy cho mối liên hệ rất gần gũi khi bắt gặp kiểu kết cấu đối đáp này khi thưởng thức bài thơ Việt Bắc như họ đã từng được nghe trong những bài ca dao, từ thuở xa xưa.
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc còn biểu hiện ở thể thơ lục bát và tiết tấu mềm mại, nhịp nhàng của câu thơ.
Thể thơ lục bát là thể thơ gắn bó với dân tộc Việt Nam, được người Việt Nam sử dụng phổ biến nhất. Thể thơ này thường có tác dụng đặc biệt khi diễn tả tình cảm tha thiết, những nỗi nhớ triền miên, dai dẳng, và khi bộc lộ nghĩa tình sâu nặng giữa các đối tượng và chủ thể trữ tình. Bởi vậy, ta không hề ngạc nhiên khi ca dao, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm đều rất thành công khi sử dụng thể thơ này.
Tố Hữu đã sử dụng thể thơ lục bát như một cách đắc địa, và đặc biệt thành công khi diễn tả nghĩa tình sâu sắc của cán bộ cách mạng với quê hương kháng chiến. Giả sử Tố Hữu dùng thể thơ ngũ ngôn, lục ngôn, hay thơ tám chữ trong bài thơ này thì chắc chắn cái vị ngọt ngào tình nghĩa của con người Việt Bắc, cái đằm thắm nhớ thương của những cán bộ cách mạng sẽ thật khó thể hiện.
Người đọc cảm nhận được nỗi xúc động, nghẹn ngào thực sự của “người đi - kẻ ở”:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta xưa trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”.
Những câu thơ lục bát khoa thai, nhịp nhàng đã có tác dụng đặc biệt trong việc khơi gợi cảm xúc của người đọc. Người đọc tự nhiên hòa nhịp cùng dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình, sống với nó, cùng thổn thức với nó. Từ rừng nứa, bờ tre, mái đình, cây đa; từ hoa chuối, hoa mơ, Ngòi Thia, sông Đáy đến Phủ Thông, đèo Giàng, tất cả đã làm cho con người nhớ thương da diết. Những hình ảnh ấy đã ăn sâu vào tâm khảm, trở thành “cõi nhớ” trong lòng mỗi người, đã từng gắn bó với Việt Bắc.
Chính thể thơ lục bát đã quyết định giọng điệu, tiết tấu của bài thơ. Tiết tấu của mỗi câu thơ trong Việt Bắc viết nhịp nhàng, thường có nhịp 2/2/2; 3/3; 2/2/2/2; 4/4. Chẳng hạn:
- Ở đâu u ám quân thù (2/2/2)
Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi (4/4)
- Mình đi mình lại nhớ mình (2/2/2)
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu (4/4)
Nhịp thơ cũng chính là nhịp điệu cảm xúc, giúp cho những kỉ niệm được gợi dậy, vang ngân trong lòng người đi - kẻ ở và trong cả người thưởng thức. Những cặp lục bát bắt vần, thả nhịp đều đặn thiết tha. Cứ mỗi cặp lục bát lại điểm một nốt nhạc cảm xúc “có nhớ”. Những tiếng ấy lại liên hồi xô đuổi, dồn dập như những đợt sóng thương nhớ cồn cào:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Việt Bắc hiện ra trong bức tranh toàn cảnh: con người nhiều dáng vẻ, không gian rộng lớn, thời gian bốn mùa được chắt lọc, dồn nén nổi bật sắc thái núi rừng Việt Bắc. Một cặp lục bát vẽ một bức tranh “hoa cùng người”. Bốn cặp lục bát kết thành bộ tự bình cân xứng cổ điển.
Bức tranh thiên nhiên được dệt bằng nỗi nhớ. Nỗi nhớ thấm đượm trên từng dáng người, từng màu hoa. Bức tranh được dệt bằng màu sắc của núi rừng tươi đẹp. Cảnh làm nền cho con người xuất hiện, bóng dáng con người lặng lẽ là điểm sáng sinh động trên các phòng thiên nhiên tươi thắm, hữu tình. Hoa và người hòa quyện vào nhau làm cho cảnh thêm tươi sáng. Bức tranh mùa đông đặc trưng bởi hoa chuối đỏ tươi, giữa thảm rừng trên đèo cao tỏa nắng, bóng dáng con người xuất hiện với nét riêng của vùng cao. Hình ảnh “dao gài thắt lưng” tô đậm một nét rất đặc trưng của người Việt Bắc. Bức tranh mùa xuân được dệt bằng thảm hoa mơ và dáng người đan nón mềm mại đang “chuốt từng sợi giang”. Bức tranh mùa hạ thêm long lanh bởi tiếng ve cùng hình ảnh lặng lẽ của “cô em gái hái măng một mình”. Và bức tranh mùa thu ấn tượng bởi ánh trăng thu hòa bình yên ả cùng tiếng hát ân tình thủy chung ngọt ngào. Chính thể thơ lục bát đã làm nên linh hồn bộ tranh tứ bình Việt Bắc. Nói sao cho hết những cảm xúc, nỗi nhớ niềm thương của con người được gửi gắm vào đó.
Bên cạnh đó, cấu trúc tiểu đối đồng loạt ở các câu hát đã tạo ra một bè trầm của âm hưởng thương nhớ trong lòng người đi, kẻ ở. Cấu tạo đối vừa tô đậm ý cho từng vế vừa mở ra ý ở ngoài lời. Những câu thơ cùng với tiết tấu của nó đã tạo ra ý nghĩa ở ngay khoảng trống giữa các từ, các câu hay giữa các đoạn thơ.
Có thể nói rằng, tính dân tộc là đặc điểm nổi bật ở Việt Bắc. Chính đặc điểm này đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ. Tính dân tộc của bài thơ đã giúp nhà thơ chuyển tải được tư tưởng hiện đại, tiên tiến. Đây là một tác phẩm thành công nhất của Tố Hữu, một tác phẩm đã ngợi ca những ngày hào hùng vẻ vang của dân tộc, những ngày mà toàn dân nô nức ra trận, những ngày mà mảnh đất Việt Bắc in dấu bao thời khắc, chiến công hào hùng, tươi đẹp của dân tộc. Tất cả đều được tái hiện trong một hình thức đặc biệt phù hợp mà Tố Hữu đã lựa chọn và sử dụng. Rõ ràng, bài thơ Việt Bắc đã mang tinh thần và tư tưởng của thời đại nhưng người ta có thể ngân ngợi như những bài ca dao.
7
Bài phân tích số 6

Thơ là cây đàn, muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thơ con tim, thơ diễn tả rất thành công mọi cung bậc cảm xúc của con người, niềm vui nỗi buồn sự cô đơn tuyệt vọng. Có những tâm trạng của con người, chỉ có thể diễn tả bằng thơ. Vì vậy thơ không chỉ nói hộ lòng mình mà nó còn thể hiện sự bận rộn, quyến luyến tình nghĩa keo sơn gắn bó. Bài thơ Việt Bắc chính là một tác phẩm như vậy. Đặc biệt thông qua đoạn trích “Việt Bắc” ta sẽ thấy được tính dân tộc đậm đà thấm đượm qua từng câu, từng chữ.
Quả không sai khi nói rằng với người làm thơ, thơ là một phương tiện quan trọng để biểu đạt cảm xúc, chỉ có cảm xúc chân thật mới có thể tạo nên một tác phẩm văn học chân chính. Vì vậy cảm xúc càng mãnh liệt thăng hoa thơ càng có sức ảnh hưởng trái tim bạn đọc. Vốn là một nhà thơ trữ tình, chính trị xuất sắc, mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà thơ. Khi sáng tạo nghệ thuật Tố Hữu đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo và ông đã khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học dân tộc. Các tác phẩm của ông luôn phản ánh chân thực quá trình của cách mạng. Bởi vậy đọc các tác phẩm ấy ta luôn thấy tính dân tộc thấm nhuần trong từng câu, từng chữ tiêu biểu cho sự nghiệp văn chương của Tố Hữu. Có thể kể đến bài thơ Việt Bắc.
Vào tháng 7 năm 1957 hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được kí kết, tháng 10 năm 1954 Trung ương Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc trở về Hà Nội, những người cán bộ kháng chiến từ miền ngược trở về miền xuôi, nhân sự kiện đó Tố Hữu đã sáng tác lên bài thơ này. Có lẽ đó chính là lý do khiến bài thơ Việt Bắc nói chung và đoạn thơ Việt Bắc nói riêng đậm đà bản sắc dân tộc. Tính dân tộc của tác phẩm không chỉ được thể hiện ở thể thơ lục bát quen thuộc, lối đối đáp “ta”, “mình”, trong ca dao, dân ca mà còn được thể hiện ở những hình ảnh giản dị tình nghĩa thủy chung gắn bó.
Mình về mình có nhớ ta
...........
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
Đó là buổi chia tay đầy bịn rịn, quyến luyến giữa người dân Việt Bắc và cán bộ miền xuôi, sự nuối tiếc bao trùm toàn bộ khổ thơ “Mười lăm năm ấy” chính là khoảng thời gian đầy khó khăn nhưng vô cùng oanh liệt của dân tộc, gợi nhắc về khoảng thời gian này phải chăng những người dân Việt Bắc muốn nhắc đến khoảng thời gian gắn bó khăng khít, của tình quân dân, lối đối đáp “mình”, “ta” đậm đà tính dân tộc, đã góp phần thể hiện tâm trạng của người đi và kẻ ở. Đó là sự bâng khuâng, bồn chồn nửa muốn đi nhưng lại không nỡ. “Áo chàm” mang ý nghĩa hoán dụ, đây vừa là màu áo quen thuộc của người dân Việt Bắc, vừa dùng để nhầm chỉ về sự son sắt, thủy chung trong giờ phút chia tay. Họ đã gửi gắm tất cả những điều muốn nói qua cái cầm tay thật chặt, đó chính là cái bắt tay thể hiện tình quân dân gắn bó. Đó là một tình cảm cao đẹp của dân tộc Việt Nam.
Tính dân tộc trong tác phẩm, còn được hiện lên qua những hoài niệm về thiên nhiên và con người. Trong tác phẩm thiên nhiên hiện lên ở những thời điểm khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, có nắng, có mưa, có sương mù. Ở đó có “trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”, tất cả hiện lên như một thước phim quay chậm thật thơ mộng về thiên nhiên Việt Bắc. Chắc hẳn đọc đoạn thơ nhiều người sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của quê hương, đất nước, con người. Trong hoài niệm của Tố Hữu, là những con người lam lũ, vất vả với những công việc thầm lặng, họ hiện lên với lòng căm thù giặc sâu sắc, “khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh” cùng với sự thủy chung đậm đà lòng son sắc với tinh thần lạc quan, “gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”.
Hình ảnh của con người còn trở nên đẹp hơn bao giờ hết khi xuất hiện trong sự hòa hợp với thiên nhiên qua bức tranh thiên nhiên bốn mùa.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
.......
Nhờ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Đã có ý kiến cho rằng đây là đoạn thơ mang đậm tính dân tộc nhất trong tác phẩm, có lẽ đúng bởi đoạn thơ có nhiều hình ảnh đẹp về thiên nhiên và con người với những công việc thầm lặng. Để mở đầu cho bức tranh ấy nhà thơ đã sử dụng câu hỏi tu từ.
“Ta về mình có nhớ ta,
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Nhà thơ hỏi chỉ để hỏi, hỏi như để biến nó thành cái cớ để giãi bày tâm trạng của mình. Hoa là biểu tượng cho thiên nhiên Việt Bắc, người chính là con người Việt Bắc. Từ “cùng” đã trở thành sợi dây gắn kết giữa hoa và người.
Bức tranh mùa đông đã mở đầu cho bức tranh về bốn mùa, giữa không gian bạt ngàn của rừng già bỗng nổi bật lên hình ảnh “đỏ tươi” của hoa chuối, gợi lên sự ấm áp và lan tỏa cho cả bức tranh nghệ thuật, đã làm cho thiên nhiên không xa lạ mà trở nên thật gần gũi với con người, và trong bức tranh ấy con người hiện lên với tư thế “dao cài thắt lưng”, thật khỏe khoắn mạnh mẽ.
Từ định vị về không gian rừng xanh, tác giả chuyển sang định vị về thời gian, “ngày xuân” bức tranh mùa xuân được gợi lên với hình ảnh “mơ nở trắng rừng”, thiên nhiên có sự chuyển đổi đồng loạt qua sự kết hợp giữa danh, động, tính từ, “mơ nở trắng” gợi ra một không gian tinh khiết rộng lớn nhẹ nhàng. Nếu thiên nhiên có sự chuyển đổi đồng loạt thì con người lại hiện lên với tư thế tỉ mỉ, “chuốt từng sợi giang” với nhiều người đó chỉ là một chi tiết nhỏ nhặt nhưng với Tố Hữu thì đó lại là một hình ảnh rất đáng nhớ và nó đã in đậm trong tâm trí của ông.
Khác với mùa đông và mùa xuân, bức tranh mùa hè hiện lên với tiếng ve ngân cùng màu sắc của hoa vàng, đặc biệt là động từ “đổ” đã tạo nên hiệu ứng dây chuyền đó là khi ve vừa cất tiếng kêu thì cả rừng hoa đồng loạt chỗ hoa khiến cho không gian trở nên tưng bừng, rực rỡ.
Nhà thơ khép lại bức tranh tử bình ấy bằng thiên nhiên và con người vào cảnh ngày thu. Bức tranh thu được hiện lên cả về không gian “rừng thu” và thời gian “trăng rọi”. Ánh trăng rọi xuống xóm làng Việt Bắc có thể hiểu đó là ánh trăng của sự bình yên, nhưng cũng có thể hiểu là niềm tin của con người vào cách mạng, tin rằng nhất định sẽ chiến thắng. Con người được hiện lên qua tiếng Hát “Ân tình thủy chung”, tiếng ai không xác định nhưng đó là tiếng hát trong trẻo để ca ngợi nghĩa tình và có lẽ dù có đi đến đâu đi chăng nữa thì những người cán bộ kháng chiến sẽ không thể quên được tiếng hát ấy.
Không chỉ vậy tính dân tộc trong tác phẩm còn được thể hiện khi tác giả viết về những cuộc hành quân hào hùng của dân tộc, cùng vai trò của Cách mạng và chiến khu Việt Bắc.
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp, trùng trùng,
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay"
Với các từ láy “đêm đêm”, “rầm rập”, “Điệp điệp”, “trùng trùng” cùng biện pháp phóng đại bước chân “nát đã muốn tàn lửa bay”, “rầm rập như là đất rung” đã cho ta thấy được khí thế hào hùng anh dũng của con người Việt Bắc, dẫu biết rằng phía trước còn nhiều gian khổ nhưng họ vẫn sẵn sàng dấn thân, luôn bước về phía trước và họ tin rằng, “dẫu”, “nghìn đêm thăm thẳm, sương dày”, thì “đèn pha bật sáng như ngày mai lên”, đó chính là niềm tin về một tương lai tươi sáng nhất định đất nước sẽ giành thắng lợi. Rồi mai sẽ,
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa bình tây bắc Điện Biên vui về,
Vui từ Đồng Tháp, An Khê,
Vui lên Việt bắc, đèo de núi Hồng”
Có được chiến thắng ấy chính là nhờ sự đoàn kết của cả dân tộc và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và cụ Hồ. Viết về chiến thắng ấy Tố Hữu như đã thầm ca gợi về khối đại đoàn kết dân tộc ta.
Không chỉ được thể hiện qua nội dung mà tinh thần dân tộc trong Việt Bắc còn được thể hiện trong hình thức nghệ thuật, với thể thơ lục bát, thuần Việt, sự đối đáp “mình, ta” quen thuộc trong ca dao. Sự đăng đối giữa các vế trong ca dao khiến cho bài thơ dễ nhớ, dễ thuộc đặt biệt với những hình ảnh giản dị, quen thuộc, từ ngữ trong sáng, tất cả đã khiến cho tính dân tộc trở nên đậm đà, nhuần nhuyễn trong từng từ, từng câu của tác phẩm.
Tác phẩm đã khép lại nhưng mỗi lần đọc đoạn trích, ta vẫn như thấy hiện lên một Việt Bắc hào hùng với tình quân dân gắn bó, đậm đà tình dân tộc và thông qua đoạn thơ ta như thấy sự nhắc nhở nhẹ nhàng của Tố Hữu. Hãy sống và cống hiến để cho đất nước trở nên tốt đẹp hơn./.
8
Bài phân tích số 7

"Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ điển của dân tộc" - Nguyễn Đình Thi đã nhận xét như thế về thơ Tố Hữu. Đọc thơ Tố Hữu, ta thấy nhận xét của Nguyễn Đình Thi thật đúng và cảm nhận được tính dân tộc đậm đà, thấy phảng phất trong "hồn thơ" của một thời quá khứ. Việt Bắc là một trong số rất nhiều bài thơ mang nét “cổ điển” như thế. Đọc Việt Bắc ta cảm nhận được sức mạnh của bản sắc dân tộc ấy.
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu, trước tiên thể hiện ở hình thức. Có lẽ Việt Bắc là bài thơ lục bát hay nhất của Tố Hữu, trong đó âm điệu lục bát đã nhuần nhuyễn, tinh diệu, đến mức mẫu mực:
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương.
Những câu thơ lục bát ấy có thể xếp bên cạnh những câu ca dao dân gian, những câu lục bát cổ điển hay nhất của ta. Tiếng Việt trong những câu ấy thật bình dị mà đằm thắm, thật trong trẻo mà sâu lắng. Lời thơ quyện thật chặt với những tiết tấu co duỗi mềm mại, cất lên như những nét nhạc, những giai điệu bằng ngôn từ.
Nhưng nói đến Việt Bắc có lẽ cái gây ấn tượng đậm nhất trong người đọc là cái cấu trúc độc đáo của nó. Tố Hữu đã tái hiện một bức tranh hoành tráng trải ra trong một thời gian dài tới mười lăm năm (Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh) bao quát một không gian rộng, bao quát toàn bộ Việt Bắc (từ "Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào" đến "Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà"). Bài thơ muốn có xu hướng trở thành diễn ca lịch sử (kiểu như "Ba mươi năm đời ta có Đảng sau này!). Nhưng sở dĩ nó không là diễn ca hẳn, bởi vì thi sĩ đã tìm đến một kết cấu truyền thống của lối Hát giao duyên. Cả bài thơ dài như một cuộc hát đối đáp nam nữ. Tựa như những khúc trữ tình trong Giã bạn hay Tiễn dặn người yêu. Cả bài thơ dài chủ yếu là lời của hai nhân vật. Người ở lại rừng núi chiến khu là cô gái Việt Bắc, người về xuôi là anh cán bộ cách mạng. Tựa như "liền chị - liền anh" trong hát Quan họ. Cuộc chia tay lớn của cán bộ Đảng và Chính phủ kháng chiến với Việt Bắc được thu vào cuộc chia tay của một đôi trai gái. Nói khác hơn, tác giả đã chọn tình yêu của đôi trai gái làm một góc nhìn để bao quát toàn cảnh Việt Bắc, với "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng". Chuyện chung đã hóa thành chuyện riêng, chuyện cách mạng của dân nước trở thành chuyện tình yêu của lứa đôi.
Một sự kiện chính trị đã chuyển hoá thành thơ ca theo cách tâm tình hoá chính là một đặc trưng của lối thơ trữ tình - chính trị của Tố Hữu. Việc "dời đô" (Việt Bắc là thủ đô kháng chiến - Tố Hữu gọi là "Thủ đô gió ngàn") đã thành câu chuyện ân tình chung thủy của người cách mạng với rừng núi chiến khu, với đồng bào, với quá khứ, với chính mình.Đôi trai gái xưng hô theo lối rất dân gian: Ta - mình. Nỗi băn khoăn lớn nhất của ta và mình trong cuộc chia tay giã bạn là ân tình - chung thuỷ:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng?
Phố cao còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng
"Mình về mình có nhớ ta" đã là chuyện chung thuỷ! Nhưng "mình đi mình có nhớ mình" thì ân tình chung thuỷ đã được đẩy tới một mức thật sâu. Mình đi khỏi Việt Bắc là đi khỏi thời gian khổ, nơi gian khổ, có thể mình quên ta phụ ta. Nhưng mình có nhớ chính mình chăng, có phụ chính mình được chăng? Bởi quên Ta cũng chính là quên Mình đó. Những câu hỏi thâm thúy ân tình như vậy đã giúp Tố Hữu dân gian hoá, truyền thống hoá một vấn đề của cách mạng, vấn đề của hôm nay. Người con trai cũng trả lời, cũng ghi lòng tạc dạ với một tinh thần như thế.
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Nhà cao chẳng khuất non xanh
Phố đông càng giục chân nhanh bước đường
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Kết cấu đối đáp hài hoà với lối thơ lục bát giàu chất dân gian như thế đã làm cho bài Việt Bắc của Tố Hữu có cái dáng dấp của một bài hát giao duyên được viết theo lối dân gian. Nó làm cho bài thơ gần gũi với tâm hồn quần chúng và dễ dàng gia nhập vào mạch văn hoá dân gian, trở thành những lời hát ru. Thậm chí có thể trình bày bài thơ theo lối diễn xướng dân gian rất thích hợp.
Có lẽ cũng cần phải nói thêm về phong vị cổ điển của nó. Đây là một nét truyền thống khác của thơ Tố Hữu. Trong bài "Kính gửi cụ Nguyễn Du", chúng ta thấy không khí lục bát thật trang trọng. Thi sĩ đã dùng những thi liệu của“Truyện Kiều" để tâm tình với tác giả "Truyện Kiều", ông cũng dùng hình thức lấy Kiều, tập Kiều để làm cho bài thơ có phong vị cổ điển. Còn ở đây không riêng chúng ta đã thấy kết cấu trữ tình của bài thơ, giọng điệu tứ bình của bài có phần nghiêng hẳn về cổ điển. Câu lục bát ở những chỗ ấy thường chặt chứ không lỏng, chữ "đúc" nhiều, chữ "nước" ít. Hình thức tiểu đối được sử dụng dày và biến hoá nhịp nhàng. Nhưng có lẽ đáng nói hơn vẫn là lối vẽ thiên nhiên trong các câu thơ lục bát ấy. Nói riêng đoạn "Hoa cùng người”, có thể thấy ngay, thi sĩ tạo hình theo lối xây dựng bộ tranh trữ tình - một hình thức rất phổ biến của nghệ thuật cổ điển. Hoa và người soi chiếu nhau, tôn vinh lẫn nhau. Còn bức tranh dường như đã tái hiện trọn vẹn đầy đủ nhịp vận hành luân chuyển của thiên nhiên và con người Việt Bắc:
Ta về mình có nhớ ta,
..........
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Thành công của bài thơ Việt Bắc còn ở nhiều phương diện khác như: ngôn ngữ, nội dung, hình tượng nhân vật trữ tình... Nhưng có thể khẳng định chất dân tộc, chất truyền thống đậm đà đã tạo nên sức sống, sức lay động lòng người cho bài thơ. Và Việt Bắc cùng với những bài thơ khác của Tố Hữu đã khẳng định phong cách độc đáo của ông trong suốt chặng đường cầm bút của người nghệ sĩ cách mạng: từ hiện đại trở về với cổ điển, trở về với nét dân tộc và truyền thống.
9
Bài phân tích số 8

Tố Hữu được mệnh danh là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Năm tập thơ của ông phản ánh những chặng đường của lịch sử dân tộc. “Từ ấy” là tập thơ đầu tay ghi lại quá trình giác ngộ và trưởng thành của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi. Tiếp theo, tập “Việt Bắc’’ được ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tập thơ là một bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc. Tập “Gió Lộng’’ đánh dấu một bước phát triển của thơ Tố Hữu khi viết về hai nhiệm vụ của dân tộc là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mĩ ở miền Nam. Và giọng thơ anh hùng ca càng được nhà thơ thể hiện rõ ở hai tập “Ra trận’’, “Máu và hoa’’. Cuối cùng, tập thơ “Một tiếng đờn’’ là những dòng tâm tư trăn trở của tác giả trong thời kỳ đất nước đã hòa bình.
Mỗi tập thơ của Tố Hữu đều thể hiện tính dân tộc đậm đà trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Song trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ tìm hiểu tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc”. Bởi đây là một bài thơ tiêu biểu cho thơ ca kháng chiến chống Pháp và được lựa chọn trong chương trình ngữ văn lớp 12, được sử dụng làm đề thi tốt nghiệp THPT trong nhiều năm.
Xét về mặt nội dung thì bài thơ “Việt Bắc” đã thể hiện được những vấn đề nóng bỏng mang vận mệnh dân tộc; thể hiện được hình ảnh con người Việt Nam trong kháng chiến. Đẹp nhất là hình tượng Bác Hồ. Người là kết tinh tinh hoa dân tộc:
“Nhớ ông cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường”
Nhà thơ Tố Hữu gọi Bác là “Ông cụ” nghe sao gần gũi thân thương mà ấm áp bao ân tình. Tấm “áo nâu” mà Bác mặc thường ngày là hình ảnh gần gũi với đời sống người dân Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam đều dành cho Bác tình cảm trân trọng, ngưỡng mộ, biết ơn, luôn hướng về Bác với một niềm tin mãnh liệt:
“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi”
Bác Hồ đã trở thành điểm quy tụ mọi suy nghĩ, tình cảm của nhân dân.
Sáng tác bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu không chỉ thay lời nhân dân nói nên lòng biết ơn với Đảng, với Bác kính yêu mà ông còn thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng với nhân dân Việt Bắc. Trong tâm tư của người ra về còn in sâu hình ảnh áo chàm giản dị mà thủy chung. Trong 15 năm chung sức chung lòng, người dân Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng đã vượt qua bao gian khó đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến bến bờ của sự thành công:
“Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng lên cộng hòa”
Tố Hữu ca ngợi tình cảm thủy chung sắt son của người dân Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng chính là ca ngợi truyền thống: “uống nước nhớ nguồn”; truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc. Trong bài thơ Việt Bắc, tác giả đã thể hiện được tính chất của cuộc kháng chiến chống Pháp là toàn dân toàn diện. Với sự tham gia của nhiều lực lượng, không phân biệt già, trẻ, trai, gái ai ai cũng mong muốn được góp phần mình cho kháng chiến. Nối tiếp những đoàn quân ra trận là những đoàn dân công với nhiệm vụ tiếp tế lương thực, đạn dược ra chiến trường. Tất cả vì tiền tuyến:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
Khí thế của cả dân tộc cùng ra trận thật hào hùng, mãnh liệt, không một thế lực nào có thể ngăn cản được. Họ ra trận với một tinh thần yêu nước, niềm tin tưởng ở ngày mai tất thắng
Bài thơ “Việt Bắc” còn đánh dấu sự thành công của Tố Hữu ở phương diện nghệ thuật mang đậm tính dân tộc biểu hiện ở thể thơ, ngôn từ, nhạc điệu, hình ảnh. Tố Hữu vốn là người xứ Huế - nơi có những làn điệu dân ca ngọt ngào. Những lời ru của mẹ đã thấm vào tâm hồn thơ Tố Hữu, đi vào trang thơ của ông. Bài thơ Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát với lối kết cấu đối đáp như câu hát giao duyên của đôi trai gái yêu nhau. Vì thế câu chuyện chính trị đã được tác giả chuyển hóa giống như câu chuyện tình yêu đôi lứa. Nó không khô khan mà ngọt ngào tình tứ đã giúp nhà thơ thể hiện được tình cảm thiết tha của người đi (cách mạng) và kẻ ở (Việt Bắc) trong buổi chia tay đầy bịn rịn, lưu luyến:
“Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”
Đọc thơ Tố Hữu, ta rất ấn tượng với cách sử dụng cặp đại từ “mình”, “ta” giống như của ca dao xưa. Người cách mạng và đồng bào Việt Bắc đã coi nhau như những người bạn đời gắn bó tri kỉ trong suốt 15 năm. Vì thế đại từ “mình” và “ta” được nhà thơ vận dụng rất linh hoạt, có lúc phân định rõ nhưng có lúc “ta” và “mình” lại hòa làm một. Điều này nói lên sự gắn bó sâu nặng giữa quê hương Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến.
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu còn được thể hiện qua âm điệu của bài thơ. Bài thơ rất giàu nhạc điệu bởi hệ thống từ láy giàu giá trị tượng thanh như “rầm rập”, những điệp từ “nhớ”, “vui”… nghệ thuật liệt kê và nghệ thuật tiểu đối tạo tính cân xứng cho câu thơ.
Nhận xét về thơ Tố Hữu, nhà thơ Chế Lan Viên từng viết: “Tố Hữu có một bút pháp quần chúng trong hình ảnh’’. Thật vậy, đọc bài thơ Việt Bắc, ta bắt gặp những hình ảnh như “củ khoai”, “củ sắn”, “bờ lau” rất đỗi bình dị nhưng qua cách diễn đạt tài tình của nhà thơ, những hình đó lại trở thành hình tượng biểu tượng cho cuộc sống còn nhiều khó khăn vất vả của đồng bào Việt Bắc nói riêng, của toàn dân tộc nói chung trong những ngày đầu của cuộc chiến chống Pháp đầy gian khổ.
Tóm lại, Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc bằng tất cả tấm lòng chân thành hướng về Đảng, về cách mạng, về nhân dân. Bài thơ giúp ta cảm nhận được nhiều phẩm chất đáng quý của con người Việt Nam: yêu nước, tương thân tương ái, đoàn kết, lạc quan, thủy chung son sắt; thấy được bản sắc văn hóa dân tộc mình. Đọc thơ Tố Hữu, ta thêm yêu quê hương, Tổ quốc mình. Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu xứng đáng là một kiệt tác của dòng văn học cách mạng Việt Nam.
10
Bài phân tích số 9

Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện ở cả nội dung cũng như hình thức nghệ thuật. Về nội dung, một tác phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những vấn đề nóng bỏng liên quan đến vận mệnh dân tộc, đồng thời thể hiện tình cảm, khát vọng và ý chí của một dân tộc. Về hình thức, tác phẩm giàu tính dân tộc đó tiếp thu một cách sáng tạo tinh hoa văn hóa của dân tộc. Với cách hiểu trên thì thơ Tố Hữu mang phong cách nghệ thuật đậm đà bản sắc dân tộc.
Tính dân tộc trong bài Việt Bắc được thể hiện qua cả giá trị nội dung và nghệ thuật. Ở góc độ nội dung, tính dân tộc trong bài Việt Bắc thể hiện qua những tình cảm lớn với con người cũng như bức tranh thiên nhiên nơi Việt Bắc. Tình cảm thể hiện trong bài thơ bên cạnh nghĩa tình cách mạng sâu đậm của thời đại mới – tình cảm dành cho Đảng, cho Bác thường thấy trong thơ ca viết về kháng chiến, còn là sự hòa nhập và tiếp nối vào nguồn mạch những đạo lí ân tình thủy chung truyền thống của dân tộc.
Điều này thể hiện qua cảnh chia tay đầy lưu luyến, qua hình ảnh người Việt Bắc tuy khó khăn về vật chất nhưng giàu tình nghĩa, tràn đầy lạc quan, tin tưởng. Cảnh chia tay đầy lưu luyến giữa người cán bộ về xuôi và người Việt Bắc
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Được xây dựng dựa trên nỗi nhớ, tác giả đã hóa thân vào nhân vật trữ tình – người cán bộ về xuôi để nhớ lại quá khứ nghĩa tình. Từ đó, bộc lộ sự biết ơn, nhớ thương của nhân dân, cách mạng kháng chiến. Tố Hữu tại hiện nỗi nhớ thông qua cảnh chia tay. Khung cảnh ấy hiện lên đầy bịn rịn, đau đớn cũng như tiếc thương. Hai nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại.
Mỗi nỗi nhớ mang một sắc thái khác nhau. Nỗi nhớ của người ra đi dường như nhẹ nhàng hơn. Vì họ ra đi nhưng trở về với gia đình, với sự nghiệp hoài bão của mình. Còn người ở lại mang một nỗi nhớ sâu đậm hơn. Bởi lẽ sau cuộc chia tay này, họ sẽ khó có thể gặp lại nhau.
Chính vì điều đó mà tác giả đã để cho người ở lại cất tiếng trước. Nỗi nhớ bật lên thành lời ướm hỏi: Liệu sau này ta còn nhớ nhau. “Mười lăm năm” chính là mười lăm năm cùng nhau gắn bó san sẻ biết bao vui buồn. Khoảng thời gian ấy đã để lại một ký ức sâu nặng trong lòng mỗi người. Tác giả dùng cặp đại từ xưng hô quen thuộc “mình – ta” nhằm thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng, khăn khít giữa Việt Bắc và người cán bộ cách mạng, khái quát lại một giai đoạn lịch sử gian khổ gắn với Việt Bắc, đồng thời khắc sâu tình cảm “thiết tha mặn nồng” trải dài theo năm tháng.
Phân tích tính dân tộc trong bài Việt Bắc, người đọc nhận thấy “Cây – núi – sông – nguồn” là những hình ảnh thể hiện đặc trưng của Việt Bắc. Các hình ảnh sóng đôi từng cặp, kết cấu lặp – trùng điệp gợi lên một tình cảm gắn bó giao hòa. “Núi” và “nguồn” là cội nguồn của thiên nhiên, gợi nhớ đến cội nguồn của kháng chiến – Việt Bắc. Các từ “thiết tha”, “mặn nồng” thể hiện bao ân tình gắn bó. Chiến thắng hôm nay có được từ nền tảng của quá khứ. Điệp từ “nhớ” xuất hiện cùng với những lời nhắn nhủ của người Việt Bắc “mình có nhớ ta”, “mình có nhớ không”. Những lời nhắn nhủ cất lên tha thiết xoáy sâu vào tâm can.
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”
Đại từ phiếm chỉ “ai” tưởng chừng mông lung vô định nhưng lại hướng đến một đối tượng xác định. Đó là người ở lại. Nếu ở bốn câu thơ trên người ở lại “thiết tha” thì giờ người ra đi lại “tha thiết”. Từ láy “bâng khuâng” gợi một tâm trạng cảm xúc mơ hồ xao động. Quyến luyến nhẹ nhàng nhưng man mác.
Lòng “bâng khuâng” nên bước đi “bồn chồn”. Từng bước chân như ngập ngừng nửa muốn đi nửa lại muốn ở. Lời người đi đáp lại cho người ở lại. Tiếng lòng đáp trả tiếng lòng. Hồi ức được thể hiện qua tiếng hát chia ly.
“Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Phân tích tính dân tộc trong bài Việt Bắc, ta thấy nghệ thuật hoán dụ “áo chàm” gợi hình ảnh người Việt Bắc. Màu áo quen thuộc của đồng bào Việt Bắc, màu bền chặt của nghĩa tình chung thủy, xuất hiện như để nói rằng ngày chia tay cán bộ kháng chiến về xuôi cả nhân dân Việt Bắc cùng đưa tiễn. Tuy không trực tiếp trả lời câu hỏi của người ở lại nhưng tâm trạng “bâng khuâng”, “bồn chồn” cùng cử chỉ “cầm tay nhau” đã nói lên cảm xúc sâu lắng ấy.
“Cầm tay nhau không biết nói gì” có lẽ không còn gì để nói. Bởi họ đã thấu hiểu nên chỉ cần ánh mắt, cái nắm tay đã thay cho lời nói. Không khí im lặng lúc này thật đáng quý biết bao. Câu thơ bỏ lửng, ngập ngừng đã diễn tả chân thực thái độ xúc động, nghẹn ngào khi phải giã từ Việt Bắc về xuôi.
Ta thấy nhịp thơ ở đây cũng là chính là nhịp điệu của tâm hồn. Thoáng chút ngập ngừng, bồn chồn nhớ thương bịn rịn. Cuộc chia tay lịch sử còn là cuộc chia tay giữa cá nhân với cá nhân, giữa người lính và nhân dân vùng núi rừng. Cái riêng cùng cái chung hài hòa, đan xen vào nhau một cách khéo léo.
Những kỷ niệm ngày xưa hiện về. Đó chỉ là những kỷ niệm về những gian nan vất vả nhưng đằm thắm nghĩa tình. Cuộc sống đơn sơ bình dị nhưng lại đáng quý biết bao.
“Mình đi có nhớ những ngày
.......
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
Giọng thơ vừa hỏi han vừa gợi nhớ theo thời gian, lan tỏa theo không gian những kỉ niệm ngày đầu cách mạng. Không gian, địa điểm thể hiện từ mờ xa “mưa nguồn, suối lũ, mây mù” đến gần gũi, xác định: “chiến khu”; rồi gợi lên sức mạnh tranh đấu khi “kháng Nhật”; trải ra mênh mang với sự trải dài của không gian.
“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già”
đầy xúc động, như thể thiên nhiên cũng mang nỗi nhớ thiết tha hòa với lòng người ở lại. “Trám, măng” – thức ăn trong ngày thiếu thốn giờ không còn cần nữa, không còn ý nghĩa khi người đã ra đi. Câu thơ giản dị mà gợi ra mênh mông biết bao trống vắng. Rừng núi nhớ ai hay chính người dân Việt Bắc đang nhớ mong.
Khi phân tích tính dân tộc trong bài Việt Bắc, người đọc dễ dàng nhận thấy với cách nói đảo ngữ, tương phản đối lập “hắt hiu lau xám – đậm đà lòng son” càng làm bật lên ân tình cách mạng. Càng khổ cực, gian lao – bát cơm chấm muối, hắt hiu lau xám càng ngọt bùi bao kỉ niệm, đậm đà những tấm chân tình trao gửi cho nhau. Nghệ thuật nhân hóa (rừng núi nhớ ai), hàng loạt điệp tự “mình, có nhớ”, nhịp ngắt đều đặn kết hợp cùng bao nhiêu hoài niệm tha thiết nhất đều mang đến những tác dụng nhất định.
Nó thể hiện nguồn cội tình cảm sâu rộng nhất tập trung khắc họa hình ảnh một người đang bâng khuâng thương nhớ với cảm giác chưa nguôi lưu luyến trong phút chia li này
Bức tranh về con người còn hiện ra trong khúc hát của nỗi nhớ
“Nhớ gì như nhớ người yêu
.........
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”
Âm thanh gợi một cuộc sống đầm ấm yên vui trù phú nhộn nhịp của chiến khu Việt Bắc tuy Việt Bắc là chiến khu kháng chiến nhưng cuộc sống thanh bình vẫn hiện lên bên cạnh hoạt động của nhân dân. Hiện về trong kí ức của nhân vật trữ tình là không gian bao la rộng lớn. Từ căn nhà sàn đến những nương rẫy bạt ngày từ lớp học vỡ lòng đến cơ quan, từ con suối đến cối giã trong đêm khuya.
Khi phân tích tính dân tộc trong bài Việt Bắc, người đọc nhận thấy đặc điểm nổi bật trong đoạn thơ này chính là âm thanh của núi rừng của chiến khu Việt Bắc. Đó là tiếng đọc bài ê a, là lời ca tiếng hát, tiếng trò chuyện liên hoan còn là tiếng của cuộc sống lao động- tiếng mõ đuổi trâu về, tiếng chày cối giã gạo. Nếu chỉ đọc đoạn thơ, người đọc khó nhận ra đây là một vùng đất khó khăn, phải từng giây từng phút chiến đấu với kẻ thù.
Điệp ngữ “nhớ sao” không chỉ có giá trị gợi nhắc, liệt kê nỗi nhớ mà còn tô đậm nỗi nhớ cồn cào, mãnh liệt không sao quên được. Chứng tỏ tấm lòng sâu nặng đối với Việt Bắc, nhân dân Việt Bắc. Tác giả nói về lý tưởng cách mạng, về quá trình đấu tranh gian khó ấy bằng một cách nói giàu cảm xúc.
Nhắc đến Việt Bắc không thể không nhắc đến bức tranh thiên nhiên tứ bình bốn mùa
“Ta về mình có nhớ ta
..............
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Khi phân tích tính dân tộc trong bài Việt Bắc, ta nhận ra thiên nhiên bốn mùa tươi đẹp hiện ra qua từng cặp câu lục bát. Mở đầu bức tranh tứ bình là mùa đông. Nhưng mùa đông không u ám mà lại tươi đẹp đến lạ.
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Câu thơ “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi” mở ra một không gian rộng lớn. Nghệ thuật điểm xuyết trong câu thơ đã đem lại hiệu quả ấn tượng khi làm hiện ra sống động trước mắt người đọc màu đỏ ấm áp, có sức lan tỏa của hoa chuối giữa bạt ngàn xanh của núi rừng.
Câu thơ sau cũng như vậy, hình ảnh điểm xuyết nổi rõ hơn khung cảnh, điểm rất nhỏ nhưng sức gợi vô cùng lớn. Sự lấp lánh của ánh dao phản chiếu sắc nắng khiến cảnh vật vốn tĩnh lặng, thậm chí tịch mịch bỗng sinh động với vẻ đẹp khỏe khoắn, mạnh mẽ của con người lao động. Tiếp đến là bức tranh thiên nhiên của màu xuân.
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Mùa xuân không hiện ra với màu vàng của hoa mai, màu hồng của hoa đào mà hiện ra với màu trắng. Màu trắng tinh khiết của hoa mơ trở thành sắc màu chủ đạo của khu rừng màu xuân nên thơ. Thời gian được đưa lên đầu câu thơ tạo cho ta cảm giác màu trắng lan khắp thời gian và không gian.
Cách điệp âm “mơ – nở” cùng với sự rộn ràng, náo nức của thiên nhiên khi xuân đến. Màu trắng của hoa hòa với màu trắng của sợi giang trên tay người đan nón tạo nền cho con người hiện lên với vẻ đẹp giản dị mà tinh tế.
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình’
Câu thơ đầu vừa có âm thanh rộn rã, vừa có màu sắc rực rỡ của núi rừng Việt Bắc. Hai yếu tố ấy đã tạo nên cảnh tưng bừng của thiên nhiên: màu vàng của rừng phách hòa cùng tiếng ve xao động – đặc trưng của mùa hè cộng hưởng cùng tín hiệu của mùa hè được thể hiện đầy ấn tượng, có gì đó bất ngờ xôn xao khó tả. Phân tích tính dân tộc trong bài Việt Bắc, ta thấy hình ảnh con người “hái măng một mình” thêm một lần nữa là vẻ đẹp trong sự thầm lặng và cần mẫn với công việc. Trong chuỗi hoài niệm của tác giả, hình ảnh ấy là một nét gợi nhớ sinh động và đầy xúc cảm.
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung’
Bức tranh mùa thu với ánh sáng dịu nhẹ, huyền ảo, gợi không khí thanh bình, yên ả. Và kết lại cũng chính là hình ảnh con người thể hiện qua tiếng hát ngọt ngào dưới ánh trăng mang theo bao ước mơ tốt lành, tươi đẹp và tình cảm thiết tha ân tình, son sắt gắn bó với cách mạng.
Phân tích tính dân tộc trong bài Việt Bắc, người đọc nhận thấy tác giả đã chọn lọc phác họa hình ảnh những con người lao động tuy xuất hiện thấp thoáng nhưng đầy sức gợi. Đó là hình ảnh người đi rẫy, người đan nón, hái măng, một tiếng hát khi lao động hay trong một đêm sinh hoạt văn nghệ. Nỗi nhớ khi thì hướng đến một đối tượng cụ thể “nhớ người đan nón”, “nhớ cô em gái”, khi thì hướng về một đối tượng chung chung “nhớ ai tiếng hát” song lại chứa chan niềm nhớ thương về những bóng hình gần gũi thiết thân, về những con người lao động cần cù, có tấm lòng son sắt thủy chung với cách mạng. Trong mỗi khung cảnh thiên nhiên, khung cảnh sinh hoạt con người đều chan chứa tình cảm, kỷ niệm.
Tính dân tộc trong bài Việt Bắc không chỉ thể hiện ở phương diện nội dung mà nó được khắc họa rõ nét hơn ở phương diện nghệ thuật. Trước tiên, tinh thần dân tộc thể hiện ở cách dùng thể thơ dân tộc – thể thơ lục bát. Thể thơ lục bát, thấm đẫm một tình thần dân tộc từ ngàn đời. Đó là điệu hồn của biết bao câu ca dao, dân ca của người dân lao động
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
(Ca dao)
Chất giản dị dân dã đó còn được các tác giả trung đại như Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu,… Tố Hữu đã sử dụng lại thể thơ của dân tộc trong tác phẩm lớn của mình. Thể thơ lục bát đã được vận dụng nhuần nhuyễn, vừa thống nhất trong một bài thơ dài vừa biến hóa đa dạng với những câu thơ dung dị, dân dã gần với ca dao mà vẫn cân xứng, nhịp nhàng, trau chuốt mà trong sáng, nhuần nhị. Đây cũng là một dẫn chứng cụ thể về tính dân tộc trong bài Việt Bắc.
Khi phân tích tính dân tộc trong bài Việt Bắc, ta cũng thấy nhiều hình ảnh ước lệ quen thuộc của ca dao, dân ca được Tố Hữu sử dụng rất thích hợp với khung cảnh và tâm trạng trong bài “Việt Bắc”, như “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”, “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”, “Nước trôi lòng suối chẳng trôi”, “Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn”,…. Chất liệu văn học dân gian được vận dụng phong phú, đa dạng, đặc biệt là ca dao trữ tình. Như kết cấu “bao nhiêu…bấy nhiêu” ta đã từng bắt gặp trong câu ca dao
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”
Hay điệp khúc “nhớ” của Tố Hữu cũng gợi cho người đọc đến những câu ca dao về nỗi nhớ trong tình yêu.
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
(ca dao)
“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”
(ca dao)
Trong câu thơ đầy mạnh mẽ khi tác giả tả đoàn dân công
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
có âm hưởng từ câu ca dao “Trông cho chân cứng đá mềm”. Ngoài ra, việc sử dụng những cách diễn đạt giàu hình ảnh, nghệ thuật hô ứng như “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng – Tiếng ai tha thiết bên cồn” hay “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn – Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”, các cách chuyển nghĩa truyền thống – so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ, đã được sử dụng thích hợp, tạo nên phong vị dân gian và chất cổ điển của bài thơ.
Phong vị ấy còn thể hiện ở cách dùng lối kết cấu đối đáp quen thuộc trong ca dao, dân ca.
“Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào”
Hay
“Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng
Chàng hỏi thì thiếp xin vâng
Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng.”
(ca dao)
Tính dân tộc trong bài Việt Bắc không chỉ là lời hỏi, lời đáp như trong ca dao giao duyên mà còn là sự hô ứng, đồng vọng. Lời đáp không chỉ nhằm giải đáp cho những điều đặt ra của lời hỏi mà còn là sự tán đồng, mở rộng, cụ thể và phong phú thêm những ý tình trong lời hỏi, có khi trở thành lời đồng vọng ngân vang những tình cảm chung.
Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến đang đắm mình trong hoài niệm ngọt ngào hạnh phúc về quá khứ đẹp đẽ với nghĩa tình thắm thiết – tình nghĩa nhân dân, nghĩa tình kháng chiến và cách mạng, khát vọng về tương lai tươi sáng. Kẻ ở – người đi, lời hỏi – lời đáp ở đây có thể xem là một cách “phân thân” để tâm trạng được bộc lộ đầy đủ hơn trong sự hô ứng, đồng vọng, vang ngân.
Ngoài ra, tính dân tộc trong bài Việt Bắc còn thể hiện ở chất liệu dân gian trong cách dùng từ “mình”, “ta”. Trong tiếng Việt, từ “mình” là chỉ bản thân (ngôi thứ nhất), nhưng cũng còn để chỉ đối tượng giao tiếp thân thiết, gần gũi – chỉ người bạn đời yêu mến (ngôi thứ hai), thường là chỉ dùng trong các quan hệ tình yêu, vợ chồng.
Trong bài thơ Việt Bắc, “mình” chủ yếu được dùng ở nghĩa thứ hai này. Điều đó phù hợp và tạo nên quan hệ gắn bó của hai nhân vật đối đáp. Nhưng có chỗ lại là chỉ ngôi thứ nhất và có những lúc biến hóa, chuyển hóa đa nghĩa, vừa là chủ thể, vừa là đối tượng, hòa nhập làm một như trong các câu: “Mình đi, mình có nhớ mình” và “Mình đi, mình lại nhớ mình”.
Câu thơ “Mình đi mình lại nhớ mình” như một lời khẳng không bao giờ đánh mất những tình cảm quý giá một thời đã qua. Sự hoán đổi vị trí “mình – ta” thể hiện tình cảm quấn quýt, hòa quyện, gắn bó, sâu nặng, bền chặt; đồng thời củng cố niềm tin cho người ở lại. Ta cũng có thể thấy sự chuyển nghĩa ở đại từ “ta”. Trong bài thơ, “ta” là ngôi thứ nhất, người phát ngôn, nhưng “ta” trong nhiều trường hợp là chỉ chung hai người, chỉ “chúng ta” như trong những câu ca dao “Mình về mình lại nhớ ta”, “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”.
Hai nhân vật “mình – ta” thực chất chỉ là sự phân thân của một cái trữ tình thống nhất. Lời đáp không chỉ nhằm giải đáp cho những điều đặt ra của lời hỏi mà còn là sự tán đồng, mở rộng, làm cụ thể và phong phú thêm những ý tình trong lời hỏi, có khi trở thành lời đồng vọng, không phân biệt người hỏi, người đáp, cùng ngân vang những tình cảm chung. Cách xưng hô thân tình, tha thiết ấy cũng là minh chứng điển hình về tính dân tộc trong bài Việt Bắc.
Chất dân gian thấm đẫm tinh thần dân tộc ấy đã phát huy tối ưu vai trò của mình tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng như những câu hát ca dao, như lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân cần lao. Việt Bắc là một bản tổng kết của một giai đoạn lịch sử chống Pháp đầy khó khăn nhưng oai hùng của một dân tộc anh hùng. Nhưng bản tổng kết ấy không liệt kê chiến công, không phải những lời lẽ tổng kết khô khan mà bản tổng kết ấy được viết lên bằng nhạc điệu của tâm hồn. Trang thơ đã khép nhưng vẫn để lại dư âm sâu lắng cho người đọc.
- việt bắc
- bài thơ việt bắc
- tính dân tộc
- tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc
- phân tích tính dân tộc
- lý luận văn học
- văn hay
- văn mẫu
- những bài làm văn mẫu
- bài thơ việt bắc
- giá trị nội dung
- giá trị nghệ thuật
- phong cách nghệ thuật
- phong cách sáng tác
- tố hữu
- tác giả tố hữu
- thơ tố hữu
- tác phẩm của tố hữu
- bố cục bài thơ việt bắc
- bài thơ việt bắc tố hữu
Phù hợp với bạn
29-05-2025 Thông Còi
11-01-2024 Chanh
22-01-2024 Chanh
28-12-2023 Chanh
19-12-2023 Chanh