Top 9 loại chữ viết tiêu biểu trong lịch sử loài người thời kỳ đồ đồng, đồ sắt
- 12,445 views
Mỗi quốc gia đều có một sự hình thành và phát triển chữ viết kéo dài mấy nghìn năm. Vậy những loại chữ viết nào tiêu biết nhất trong lịch sử? Chữ viết được tạo ra như thế nào? Những dạng chữ viết cổ xưa nhất mang những yếu tố như ký tự viết tắt dựa trên những yếu tố tượng hình và tượng ý. Đa phần các hệ thống chữ viết có thể chia làm ba loại: tượng ý, tượng thanh và chia đoạn. Tuy vậy, cả ba loại này đều tìm thấy ở bất kỳ hệ thống chữ viết nào với mức độ cấu thành khác nhau và khiến việc xếp loại mỗi hệ chữ viết trở nên khó khăn và nhiều mâu thuẫn. Cùng điểm danh 9 loại chữ viết cổ đại trong lịch sử loài người nhé!
1
Chữ viết hình nêm (Cuneiform hay Sumero-Akkadian cuneiform)

Tư liệu chữ viết hình nêm
Chữ hình nêm là một trong những hệ thống chữ viết sớm nhất trong lịch sử nhân loại. được phát minh bởi người Sumer. Bắt đầu ở Sumer vào cuối thiên niên kỷ thứ tư trước Công nguyên (thời Uruk IV ) để truyền đạt ngôn ngữ Sumer , vốn là một ngôn ngữ tách biệt , chữ viết hình nêm bắt đầu như một hệ thống chữ tượng hình.
Trong thiên niên kỷ thứ ba, các biểu tường bằng hình ảnh đã trở nên đơn giản và trừu tượng hơn khi số lượng ký tự được sử dụng ngày càng nhỏ hơn ( Hittite cuneiform ). Hệ thống này bao gồm một sự kết hợp của các ký hiệu logophonetic , bảng chữ cái phụ âm và âm tiết.
2
Chữ tượng hình Ai Cập cổ đại

Tư liệu chữ tượng hình Ai Cập cổ đại
Chữ tượng hình Ai Cập (phiên âm tiếng Anh: Ancient Egypt hieroglyphic ˈhaɪərəʊɡlɪf; từ tiếng Hy Lạp ἱερογλύφος có nghĩa là "chạm linh thiêng", cũng viết là τὰ ἱερογλυφικά γράμματα) là một hệ thống chữ viết chính thức được người Ai Cập cổ đại sử dụng có chứa một sự phối hợp giữa các yếu tố dấu tốc ký và mẫu tự. Người Ai Cập đã sử dụng chữ tượng hình để ghi các văn bản tôn giáo trên giấy cói và gỗ. Các biến thể ít chính thức hơn của ký tự này, được gọi là thầy tu và bình dân, về kỹ thuật không phải là chữ tượng hình.
Chữ tượng hình gồm ba kiểu nét khắc: nét khắc ngữ âm, gồm những chữ phụ âm riêng có thể hoạt động như một chữ cái; dấu tốc ký, thể hiện các hình vị; và các từ hạn định, làm hẹp nghĩa của một dấu tốc ký hay các từ ngữ âm.
Khi chữ viết phát triển và trở nên rộng rãi trong dân cư Ai Cập, các hình thức nét khắc đơn giản đã phát triển, dẫn tới các chữ viết thầy tu (thầy tế) và bình dân (dân cư). Các biến thể đó cũng thích hợp hơn chữ tượng hình khi sử dụng trên giấy cói. Tuy nhiên, chữ viết tượng hình không biến mất, mà tồn tại bên cạnh các hình thức khác, đặc biệt tại các đền đài và ở hình thức chữ viết chính thức khácc. Đá Rosetta có các văn bản song song bằng chữ tượng hình và chữ bình dân.
Rõ ràng tất cả chữ tượng hình đều ít hay nhiều mang tính biểu tượng: chúng thể hiện các yếu tố thực hay ảo, thỉnh thoảng được cách điệu hoá và đơn giản hoá, nhưng nói chung tất cả chúng đều có thể được xác nhận trong hình thức. Tuy nhiên, cùng một ký hiệu có thể, tuỳ theo ngữ cảnh, được dịch theo các cách khác nhau: như một tín hiệu ngữ âm (đọc Ngữ âm), như một dấu tốc ký, hay như một biểu tượng (semagram; "từ hạn định") (đọc Ngữ nghĩa). Từ hạn định không được đọc như một thành phần ngữ âm, nhưng được làm cho dễ hiểu bằng cách phân biệt từ với các từ phát âm giống khác.
3
Giáp cốt văn

Tư liệu Giáp cốt văn
Giáp cốt văn (tiếng Trung: 甲骨文) hay chữ giáp cốt là một loại văn tự cổ đại của Trung Quốc, được coi là hình thái đầu tiên của chữ Hán, cũng được coi là một thể của chữ Hán. Giáp cốt văn mỗi giai đoạn đều có sự khác nhau, giáp cốt văn thời Vũ Đinh được xem như hoàn chỉnh nhất, và cũng có số lượng lớn nhất được phát hiện.
Giáp cốt văn chỉ hệ thống chữ viết tương đối hoàn chỉnh, được phát triển và sử dụng vào cuối đời Thương (thế kỷ 14-11 TCN), dùng để ghi chép lại nội dung chiêm bốc của Hoàng thất lên trên yếm rùa hoặc xương thú. Sau khi lật đổ nhà Thương, nhà Chu vẫn tiếp tục sử dụng thể chữ này. Cho đến nay, đây được xem là thể chữ cổ xưa nhất và là nguồn gốc hình thành chữ Hán hiện đại.
Giáp cốt văn có nghĩa là chữ viết (văn) được khắc trên yếm rùa (giáp) và xương thú (cốt). Giáp cốt văn được phát hiện tại khu vực làng Tiểu Đốn, huyện An Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Xác định niên đại cách đây khoảng 3000 năm, được chia làm hai loại là giáp văn và cốt văn. Giáp văn được khắc trên yếm của rùa, một số ít được khắc trên mai, cốt văn được khắc trên xương trâu.
Năm Quang Tự thứ 24 triều nhà Thanh (năm 1898), một số nông dân phát hiện ra những mảnh xương thú khắc văn tự, nhưng tưởng là "long cốt" có thể chữa bệnh nên đã bán cho các hiệu thuốc. Nhà kim thạch học Vương Ý Vinh (王懿荣) và học trò là Triệu Quân (赵军) vô tình phát hiện ra trên những "long cốt" đó là một loại văn tự cổ. Qua khảo sát phát hiện ra nơi có "long cốt" chính là kinh đô cũ của nhà Ân, tức Ân Khư (殷墟). Ban đầu các học giả không hề biết điều này, bởi vì các nhà buôn cố ý nói dối nơi tìm được "long cốt"
Hiện tại người ta khai quật được khoảng 15 vạn mảnh xương như thế, có khoảng 4.500 chữ, đã đọc được khoảng 1/3. Chữ giáp cốt sử dụng các phương pháp tượng hình, chỉ sự, hội ý để cấu tạo chữ. Về mặt dụng tự pháp ta cũng bắt gặp phương pháp giả tá.
Nội dung giáp cốt văn chủ yếu nói về thiên văn, khí tượng, địa lý, tôn giáo... phục vụ nhu cầu tâm linh của vua chúa quý tộc. Vì thế mà giáp cốt văn còn được gọi là chiêm bốc văn tự, chiêm bốc nghĩa là bói toán.
4
Ký tự Elamite

Tư liệu Ký tự Elamite
Ký tự Elamite là một tập lệnh âm tiết biểu tượng được sử dụng để viết ngôn ngữ Elamite. Các tập thể hoàn chỉnh của Elamite cuneiform bao gồm c. 20.000 viên và mảnh vỡ. Phần lớn thuộc về thời đại Achaemenid, và chứa các hồ sơ kinh tế chủ yếu.
Những biểu tượng tiền ký tự Elamite vẫn chưa giải nghĩa được xuất hiện có lẽ từ 3.200 năm TCN và trở thành có hàng lối vào cuối thiên niên kỷ 3 TCN, chúng sau đó được thay thế bằng chư viết hình nêm Elamite du nhập từ ngôn ngữ Akkad.
5
Chữ tượng hình Tiểu Á

Trích một bài giảng về chữ tượng hình Tiểu Á
Là một phần tuyệt chủng của các ngôn ngữ Ấn-Âu được nói ở Tiểu Á ( Anatolia cổ ), chứng thực tốt nhất trong số đó là ngôn ngữ Hittite . Chưa được khám phá cho đến cuối thế kỷ 19 và 20, họ được coi là nhóm ngôn ngữ sớm nhất tách ra khỏi gia đình Ấn-Âu. Thời đại đồ đồng, Chữ tượng hình Luwian., tồn tại cho đến khi chinh phục vương quốc Neo-Hittite bởi Assyria, và các ngôn ngữ Anatilian chữ cái được chứng thực một cách rời rạc cho đến đầu thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên, cuối cùng bị tuyệt chủng trước thời kỳ Hy Lạp hóa của Tiểu Á.
Phù hợp với bạn
30-05-2025 Phạm Nguyễn Phương Đài
28-12-2023 Trương Văn Thân
25-11-2023 chau chau
15-11-2023 Trần Thị Thanh Quỳnh
11-09-2023 Cá trong bể