Top 10 giải Nobel Vật Lý đầu tiên trên thế giới
- 1,244 views
Giải thưởng Nobel là một gải thưởng vô cùng danh giá và cao quý, nhằm ghi nhận những cống hiến, đóng góp của các cá nhân, tổ chức cho nền khoa học nhân loại. Vật Lý là một trong những lĩnh vực có trong danh sách giải Nobel. Đây là lĩnh vực vô vùng chủ chôt, quan trọng, giúp chúng ta có cái nhìn khoa học về thế giới xung quanh, là cơ sở cho sự phát triển của xã hội, sự tiến lên của loài người. Vậy, sau đây chúng ta hãy cùng tìm hiểu 10 nhà khoa học đầu tiên nhận được giải Nobel Vật Lý nhé
1
Wilhelm Conrad Röntgen (năm 1901)

Röntgen và tia X
Wilhelm Conrad Röntgen (phiên âm: Rơngen) (27 tháng 3 năm 1845 – 10 tháng 2 năm 1923), sinh ra tại Lennep, Đức, là một nhà vật lý, giám đốc Viện vật lý ở Đại học Würzburg. Năm 1869, khi mới 25 tuổi, ông nhận bằng Tiến sĩ tại Đại học Zurich. Suốt các năm tiếp theo ông công tác tại nhiều trường đại học khác nhau và trở thành nhà khoa học xuất sắc. Năm 1888, ông được bổ nhiệm làm giáo sư vật lý và là giám đốc Viện Vật lý của Đại học Würzburg. Vào ngày 8 tháng 11 năm 1895, ông đã khám phá ra sự bức xạ điện từ, loại bức xạ không nhìn thấy có bước sóng ngắn (10 pm < lamda < 10 nm) mà ngày nay chúng ta được biết đến với cái tên tia x-quang hay tia Röntgen. Nhờ khám phá này ông trở nên rất nổi tiếng. Năm 1901 ông được nhận giải Nobel Vật lý lần đầu tiên trong lịch sử.
Röntgen sinh tại Lennep (ngày nay là một phần của Remscheid) thuộc Đức. Gia đình ông đã di chuyển đến Apeldoorn ở Hà Lan khi ông 3 tuổi. Ông được giáo dục tại Đại học của Martinus Herman van Doorn. Năm 1862, ông nhập học tại trường Utrecht Technical School, tại đây ông bị đuổi vì đã tạo ra một bức tranh bức biếm họa một giáo viên, một người mà ông gọi là "tội phạm", một người vô trách nhiệm.
2
Hendrik Lorentz và Pieter Zeeman (năm 1902)

Tìm hiểu về hiệu ứng Zeeman
Hendrik Antoon Lorentz (18 tháng 7 năm 1853, Arnhem – 4 tháng 2 năm 1928, Haarlem) là một nhà vật lý Hà Lan nhận chung Giải Nobel Vật lý với Pieter Zeeman vì đã phát hiện ra cách giải thích lý thuyết hiệu ứng Zeeman. Lorentz đã phát triển các công cụ nhận thức và toán học làm trung tâm của thuyết tương đối đặc biệt mà sau này nhà bác học Albert Einstein đã hoàn thiện.
Pieter Zeeman (Zonnemaire, 25 tháng 5 năm 1865 – Amsterdam, 9 tháng 10 năm 1943) (phát âm: [ˈzeːmɑn]) là một nhà vật lý Hà Lan nhận chung Giải Nobel Vật lý với Hendrik Lorentz vì đã phát hiện ra hiệu ứng Zeeman.
Hiệu ứng Zeeman là sự chia tách một vạch quang phổ thành một số thành phần khi có sự hiện diện của từ trường. Nó tương tự với Hiệu ứng Stark, là sự chia tách của một vạch quang phổ thành một vài thành phần khi có sự có mặt của một điện trường. Hiệu ứng Zeeman rất quan trọng trong thực tế như việc đo đạc cộng hưởng từ hạt nhân, cộng hưởng spin electron, hình ảnh hóa cộng hưởng từ.
Trong hầu hết các nguyên tử, tồn tại một vài cấu hình electron có cùng mức năng lượng. Có sự chuyển dời giữa các cặp cấu hình khác nhau thể hiện cho một vạch quang phổ đơn.
Sự hiện diện của một từ trường sẽ làm cho một vài cấu hình có cùng mức năng lượng trở thành khác mức năng lượng. Do đó sẽ tạo ra một vài vạch quang phổ rất gần nhau.
3
Vợ chồng Curie và Henri Becquerel (năm 1903)

Cuộc đời nhà bác học Marie Curie
Marie Skłodowska – Curie (phiên âm tiếng Việt: Ma-ri Xcuô-đốp-xka Quy-ri) (7 tháng 11 năm 1867 – 4 tháng 7 năm 1934) là một nhà vật lý và hóa học người Pháp gốc Ba Lan. Bà được coi là người tiên phong trong việc nghiên cứu về tính phóng xạ (bà là người đặt ra thuật ngữ phóng xạ). Marie còn là người phụ nữ đầu tiên nhận giải Nobel, người đầu tiên và là phụ nữ duy nhất vinh dự giành được hai Giải Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau – vật lý và hóa học. Marie Curie là nữ giảng viên đại học đầu tiên tại Đại học Paris (Sorbonne). Vào năm 1995, tro xương của bà được đưa vào tưởng niệm tại điện Panthéon ở Paris vì những đóng góp to lớn cho nhân loại.
Pierre Curie (Paris, Pháp, 15 tháng 5 năm 1859 – 19 tháng 4 năm 1906, Paris) là một nhà vật lý người Pháp, người tiên phong trong lĩnh vực tinh thể học, từ tính, hiện tượng áp điện và hiện tượng phóng xạ.
Antoine Henri Becquerel (15 tháng 12 năm 1852 – 25 tháng 8 năm 1908) là một nhà vật lý người Pháp, từng được giải Nobel và là một trong những người phát hiện ra hiện tượng phóng xạ.
4
Huân tước Rayleigh (năm 1904)

Khám phá về khí Argon
John William Strutt, nam tước Rayleigh thứ 3 OM (sinh 12 tháng 11 1842 - mất 30 tháng 6 1919) là một nhà vật lý người Anh, là người cùng với William Ramsay đã phát hiện ra nguyên tố argon, một phát hiện đã giúp ông giành được giải Nobel vật lý năm 1904. Ông cũng là người đã phát hiện ra hiện tượng gọi là Tán xạ Rayleigh và dự đoán sự tồn tại của sóng bề mặt được biết đến là Sóng Rayleigh.
Argon là một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn. Nó có ký hiệu Ar và số nguyên tử bằng 18. Là khí hiếm thứ ba trong nhóm 8, argon chiếm khoảng 0,934% khí quyển Trái Đất, điều này làm cho nó trở thành khí hiếm phổ biến nhất trên Trái Đất.
Argon hòa tan trong nước nhiều gấp 2,5 lần nitơ và xấp xỉ độ hòa tan của oxi. Nguyên tố hóa học có độ ổn định cao này là không màu, không mùi trong cả dạng lỏng và khí. Người ta biết rất ít về các hợp chất hóa học của argon, đây là một trong các lý do trước đây nó được gọi là khí trơ. Sự tạo ra hidroflorua argon (HArF), một hợp chất rất không ổn định của argon với hidro và flo đã được các nhà nghiên cứu của trường Đại học Tổng hợp Helsinki thông báo vào năm 2000, nhưng vẫn chưa được xác nhận.
5
Philipp Lenard (năm 1905)

Câu chuyện về Philipp Lenard
Philipp Eduard Anton von Lénárd (7 tháng 6 năm 1862 ở Pressburg (ngày nay là Bratislava), Áo-Hung – 20 tháng 5 năm 1947 ở Messelhausen, Đức) là một nhà vật lý học người Hung-Đức đoạt giải Nobel Vật lý năm 1905 nhờ những nghiên cứu về tia âm cực và khám phá nhiều đặc tính của tia này. Ông cũng là người đề xuất tư tưởng Nazi.
Tia âm cực là dòng electron di chuyển trong các ống chân không. Nếu một ống kính chân không được trang bị với hai điện cực và dưới một mức điện áp nhất định, tia âm cực di chuyển từ cực âm sang cực dương, do các hạt electron phát ra từ và đi vuông góc với cực âm (điện cực kết nối với cực âm của thiết bị cấp điện áp). Trên đường đi của tia âm cực nếu đặt một chong chóng nhẹ thì chong chóng quay, chứng tỏ tia âm cực là chùm hạt vật chất có khối lượng và chuyển động với vận tốc rất lớn. Khi cho tia âm cực đi vào giữa hai bản điện cực mang điện tích trái dấu, tia âm cực lệch về phía cực dương, chứng tỏ tia âm cực là chùm hạt mang điện tích âm.
Philipp Lenard sinh ra ở Pressburg (ngày nay là Bratislava, Slovakia), Áo-Hung vào ngày 7 tháng 7 năm 1862. Ông theo học các thầy Bunsen và Helmholtz, và nhận bằng tiến sĩ năm 1886 tại Đại học Heidelberg
Phù hợp với bạn
11-06-2025 Hồ Quân
30-05-2025 Phạm Nguyễn Phương Đài
11-01-2024 chau chau
04-01-2024 Ngân Ngân
28-12-2023 Trương Văn Thân