Top 50 bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất giúp học sinh trau dồi cách hành văn
- 2,369 views
- 1 likes
Đề văn, bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất là cái khuôn sẵn có bổ trợ học sinh khối 12 trong việc tinh chỉnh lối viết văn, hành văn, thi cử lẫn tham dự những cuộc thi có dính đến văn chương khác nhau. Văn mẫu lớp 12 phải đạt tới độ giúp học sinh thông suốt, trình bày câu cú chỉn chu, lời lẽ liền mạch, bám sâu và sát vấn đề đưa ra. Văn mẫu lớp 12 trọng yếu xoay vần quanh dạng nghị luận (văn học / xã hội), phân tích rốt ráo một khía cạnh nào đó, đưa nhiều dẫn chứng hay để học sinh 12 ngấm nhuần trọn vẹn. Dưới đây topshare xin gửi tới bài viết top bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất đủ sức làm tài liệu trên hành trình học văn của các em. Xem ngay nhé!
1
Văn mẫu lớp 12 nghị luận xã hội về thói ích kỉ rút ra từ câu chuyện Ngọn nến

Nội dung: CỔ TÍCH NGỌN NẾN
Một tối mất điện, ngọn nến được đem ra đặt giữa phòng. Người ta châm lửa cho ngọn nến và nến lung linh cháy sáng. Nến hân hoan nhận ra rằng ngọn lửa nhỏ nhoi của nó đã mang lại ánh sáng cho cả căn phòng.
Mọi người đều trầm trồ: “Ồ nến sáng quá, thật may, nếu không chúng ta sẽ chẳng nhìn thấy gì mất”. Nghe thấy vậy, nến vui sướng dùng hết sức mình đẩy lui bóng tối xung quanh.
Thế nhưng, những dòng sáp nóng đã bắt đầu chảy ra, lăn dài theo thân nến. Nến thấy mình càng lúc càng ngắn lại. Đến khi chỉ còn một nửa, nến giật mình: “Chết mất, ta mà cứ cháy mãi thế này thì chẳng bao lâu sẽ tàn mất thôi. Tại sao ta phải thiệt thòi như vậy?”.
Nghĩ rồi, nên nương theo một cơn gió thoảng để tắt phụt đi. Một sợi khói mỏng manh bay lên rồi nến im lìm.
Mọi người trong phòng nhớn nhác bảo nhau: “Nến tắt mất rồi, tối quá, làm sao bây giờ?”. Ngọn nến mỉm cười tự mãn và hãnh diện vì tầm quan trọng của mình. Nhưng bỗng một người đề nghị: “Nến dễ bị gió thổi tắt lắm, để tôi đi tìm cái đèn dầu”. Đèn dầu được thắp lên, còn ngọn nến đang cháy dở thì bị bỏ vào ngăn kéo tủ.
Ngọn nến buồn thiu. Thế là từ nay nó sẽ bị nằm trong ngăn kéo, khó có dịp cháy sáng nữa. Nến chợt hiểu rằng hạnh phúc của nó là được cháy sáng vì mọi người, dù chỉ có thể cháy với ánh lửa nhỏ và dù sau đó nó sẽ tan chảy đi. Bởi vì nó là ngọn nến.
(Theo Quà tặng cuộc sống)
Bài làm:
Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người với người sống để yêu nhau.
(Một khúc ca xuân – Tố Hữu)
Lòng nhân ái và tinh thần sẻ chia giữa con người với con người luôn khiến cuộc sống trở nên tươi đẹp và ấm áp. Dù vậy, đôi khi sự ích kỉ ngự trị trong mỗi chúng ta lại khiến ngọn lửa ấm ấy bị phai tàn. Câu chuyện của ngọn nến ở trên chứa đựng bài học nhân sinh sâu sắc về thói ích kỉ và hậu quả của nó.
Câu chuyện ngụ ngôn về cây nến vì sợ tan chảy, sợ thiệt thòi mà mượn gió tự thổi tắt mình. Cây nến bị cho vào ngăn bàn trong quên lãng trong khi cây đèn dầu đã thay nó chiếu sáng cho mọi người. Như vậy, ẩn sau câu chuyện ngụ ngôn là bài học về thói ích kỉ. Đằng sau hình tượng ngọn nến là bóng dáng con người và cách ứng xử giữa con người với con người. Cũng giống ngọn nến, chúng ta luôn mong muốn mình tỏa sáng, được mọi người chú ý, khen ngợi, nhưng khi thấy mình phải chịu thiệt thòi, ai sẽ là người vững lòng tiếp tục cống hiến cho cuộc đời?
Ích kỉ được hiểu là lợi ích của bản thân. Phật từng răn dạy: Nhân sinh vi kỉ, thiên kinh địa nghĩa, nhân bất vi kỉ, thiên tru địa diệt, làm lợi cho mình mà không hại đến người khác cũng là làm việc thiện. Nếu hiểu như thế, lối sống ích kỉ có gì là sai? Nhưng ích kỉ mà chỉ lo cho mình, vô cảm với khó khăn của người khác, không muốn sẻ chia cho người khác, đó thực sự là lối sống tiêu cực, hẹp hòi, chỉ nghĩ đến lợi ích của riêng mình, bất chấp lợi ích của người khác, thậm chí không ngần ngại gây tổn hại tới người khác. Đây là lối sống chỉ biết chăm chăm tới lợi ích trước mắt mà không nghĩ đến lợi ích lâu dài. Khi người ta sống ích kỉ với nhau, họ đóng cửa trái tim mình và nhìn đời bằng đôi mắt ráo hoảnh, sự vô cảm lấn át tình thương và lòng cảm thông.
Ích kỉ là thói xấu nguy hại đến cuộc sống của bản thân và những người xung quanh. Thói ích kỉ khiến con người luôn so sánh thiệt hơn với tâm lí lo sợ người khác sẽ hơn mình. Điều đó khiến cuộc sống trở nên mệt mỏi và vô nghĩa. Những người ích kỉ mấy khi có được niềm vui, sự phấn chấn, niềm hạnh phúc sẻ chia và được chia sẻ. Bởi vậy, có những người có thể chi nhiều tiền để mua vui cho mình nhưng cảm thấy thiệt thòi quá mức khi phải giúp đỡ những người khó khăn. Thói ích kỉ còn khiến cuộc sống trở nên lạnh lẽo với đầy những ranh giới và khoảng cách. Đó cũng là nguồn gốc của sự vô cảm trong lối sống. Từ chối giúp người bị tai nạn vì sợ tốn tiền, sợ liên lụy, mất thời gian; luôn đùn đẩy công việc cho người khác để mình được nhàn hạ hơn; hay đơn giản như không muốn giúp đỡ các bạn học yếu hay khó khăn trong lớp; luôn chỉ lo cho mình trong những hoạt động tập thể… Đó đều là những biểu hiện cụ thể của thói ích kỉ.
Trong câu chuyện trên, cây nến ban đầu cũng hạnh phúc khi được tỏa sáng và sống có ích cho mọi người xung quanh. Nhưng thói ích kỉ đã vượt lên trên niềm vui sống, niềm vui cống hiến mà gieo vào lòng cây nến sự hoài nghi và sự so đo tính toán. Là con chim thì phải cất tiếng hót say mê cho đời, là bông hoa thì phải tỏa hương, là ngọn nến thì để thắp sáng… Tất cả những điều tưởng chừng hiển nhiên ấy lại là niềm vui khi được sống đúng với sứ mệnh của mình. Nhưng thói ích kỉ thức dậy ngay lập tức trở thành rào cản phá tan niềm hạnh phúc ấy. Đáng buồn hơn, khi thói ích kỉ không còn mang biểu hiện cá nhân mà trở thành diện mạo tập thể, ngay trong những đoàn người hành hương về quê cha đất tổ dâng lễ vua Hùng, thực hiện đạo lí “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” từ bao đời nay cũng bị thói ích kỉ bóp méo. Ai cũng sợ thiệt hơn người khác, sợ dâng sau người khác thì mất thời gian mà tổ tiên lại không “chứng lễ”. Cứ thế, dòng người dâng lễ mong cầu bình an, yên tĩnh mà bản thân họ đã mang bao nhiêu lo sợ về sự thiệt thòi của bản thân. Thay vì hoàn cảnh hiếu lễ thì ấn tượng mạnh mẽ nhất về những lễ hội lại là hình ảnh những em thơ la khóc vì sợ hãi, những đám đông chen chúc, xô đẩy nhau tranh giành lấy lộc.
Cũng những biểu hiện ấy là những hậu quả mà lối sống ích kỉ gây ra. Đối với bản thân mỗi người, lối sống ấy là liều thuốc đầu độc nhân cách. Người sống ích kỉ không bao giờ tìm được sự thanh thản trong tâm hồn, bởi mỗi ngày họ đều lo lắng, đều toan tính sợ mình chịu thiệt hơn người khác. Không chỉ thế, sống ích kỉ còn khiến chúng ta bị mọi người xa lánh. Đối với một tập thể, lối sống ích kỉ là kẻ chia rẽ ghê gớm nhất. Ai cũng muốn phần hơn thuộc về mình, sự ganh ghét, đố kị dẫn đến khó khăn trong việc tìm tiếng nói chung, không thể tìm thấy một mục tiêu, lợi ích chung để đồng lòng thực hiện. Đối với xã hội, đây cũng là một lối sống gây hậu quả nghiêm trọng. Đạo đức suy đồi, nhân cách tha hóa gây ra hiện tượng vô cảm đáng báo động. Chỉ nói riêng thực phẩm bẩn, người ta đầu độc nhau gây ra những cái chết thương tâm vì ung thư, sức và lực của giống nòi trở nên suy kiệt. Như vậy, thói ích kỉ là một loại trở lực ghê gớm kìm hãm sự phát triển của toàn xã hội, đẩy lùi sự tiến bộ của đất nước. Điều đó khiến chúng ta phải trăn trở với những câu hỏi về cách sống của mình, về lối đối nhân xử thế lâu nay như nhà thơ Hữu Thỉnh đã từng hỏi:
Tôi hỏi đất:
Đất sống với đất như thế nào?
Chúng tôi tôn cao nhau.
Tôi hỏi nước:
Nước sống với nước như thế nào?
Chúng tôi làm đầy nhau.
Tôi hỏi cỏ:
Cỏ sống với cỏ như thế nào?
Chúng tôi đan vào nhau.
Làm nên những chân trời.
Tôi hỏi người:
Người sống với người như thế nào?
Tôi hỏi người:
Người sống với người như thế nào?
Tôi hỏi người:
Người sống với người như thế nào?
(Hỏi)
Do xã hội hiện đại, với lối sống nhanh, sống gấp cuốn con người vào vòng xoáy về của cải vật chất, nên đối với nhiều người, lợi ích bản thân mới là điều đáng quan tâm nhất. Sự tham lam cũng là căn nguyên của thói ích kỉ. Trong chúng ta luôn chứa đựng cả điều tốt lành và những mầm mống tham lam, ích kỉ. Một phút mềm lòng, thiếu bản lĩnh sẽ khiến bản tính thiện lương trong ta thua cuộc, cái ác lên ngôi, sự ích kỉ, hẹp hòi trở thành kẻ chiến thắng. Muốn đẩy lùi hiện tượng ấy, trong cuộc đấu tranh hoàn thiện bản thân, mỗi chúng ta cần phải nhận thức sâu sắc về những nguy hại do lối sống ích kỉ gây ra để loại bỏ nó khỏi nhân cách của mình. Gia đình và nhà trường, với tư cách là những chiếc nôi đầu tiên mà trí tuệ, nhận thức của mỗi cá nhân hình thành, phải tham gia tích cực vào việc giáo dục lối sống vị tha, bao dung và truyền cho học trò niềm cảm hứng, niềm vui hồn nhiên được chia sẻ với mọi người. Để mỗi người khi bước vào đời, đều biết cống hiến và đấu tranh, lên tiếng phê phán những hành vi tiêu cực của lối sống ích kỉ, biết vui mừng, ngợi ca và nhân rộng những nghĩa cử cao đẹp vì lợi ích chung của cộng đồng.
Chúng ta không thể phủ nhận sự lớn dần lên của thái độ sống thờ ơ, khiến nhiều người nhìn đời chỉ thấy màu đen, mất niềm tin vào cuộc sống, vào con người. Bởi chúng ta nhỏ bé, thời gian thì hữu hạn mà cuộc đời lại rộng lớn vô cùng, có thể chúng ta bắt gặp những đôi mắt ráo hoảnh nhiều hơn nhưng không có nghĩa sự tử tế, đức hi sinh, niềm vui chia sẻ đã không còn.
Hãy tin vào những điều tốt đẹp và bài trừ thói ích kỉ đang len lỏi vào mọi ngõ ngách của cuộc sống. Người trẻ, với sự thiếu thốn kinh nghiệm, chưa từng trải hay va vấp nhiều với thử thách của cuộc đời dễ bị cuốn vào vòng xoáy của lối sống ích kỉ, càng cần tự nhắc nhở mình về hậu quả của lối sống này và không ngừng đấu tranh với nó, đừng để mọi người sống như hòn đá, sống không một tình yêu, sống chỉ biết thân mình… (Tâm hồn của đá – Trần Lập). Hãy để mỗi người là một hạt mầm, một sứ giả của tình yêu thương và tinh thần tương thân tương ái.
2
Văn mẫu lớp 12 phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến

Bài thơ Tây Tiến biểu hiện một nỗi nhớ da diết mênh mang về người, về cảnh, về những kỉ niệm mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua. Quang Dũng đã sống những tháng ngày không thể nào quên trong cuộc đời cầm súng và cầm bút của mình. Hình tượng nhân vật trữ tình trung tâm bài thơ là người lính hào hoa, lãng mạn. Họ tự dấn thân vào cuộc chiến đấu với ý chí quyết tâm lớn với những ước mong cao đẹp và một tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm. Bức tranh Tây Tiến vừa thơ mộng, trữ tình, dịu êm, vừa dữ dội, kì vĩ được khắc họa đậm nét qua nỗi nhớ thiết tha của người lính.
Bài thơ Tây Tiến được mở đầu bằng tiếng gọi thiết tha như vọng từ sâu thẳm tâm hồn nhà thơ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nhớ về Tây Tiến là Quang Dũng nhớ về dòng sông Mã. Ông nhớ về cảnh sắc thiên nhiên chốn núi rừng miền Tây xa xôi, kì bí. Nỗi nhớ man mác, mênh mang như gửi về muôn nẻo“nhớ chơi vơi”. Trong thơ ca Việt Nam xưa nay đã có khá nhiều những bài thơ, câu thơ hay nói về nỗi nhớ: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi” (Ca dao); “Nhớ gì như nhớ người yêu” (Việt Bắc - Tố Hữu); “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét” (Tiếng hát con tàu- Chế Lan Viên). Nhưng “nhớ chơi vơi” thì dường như Quang Dũng là người đầu tiên nói tới. Nỗi nhớ ấy như có dáng hình cụ thể. Nó cứ bồng bềnh trong không gian và thời gian. Nó thường trực trong ý thức và lấn chìm cả trong những giấc ngủ. Nỗi nhớ ấy cứ lan tỏa thấm đượm trong từng câu thơ, khổ thơ.
Có thể nói, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng được xây dựng trên nền cảm hứng thương nhớ với bao kỉ niệm không thể nào quên. Cùng với nỗi nhớ cả một miền đất xa xôi lần lượt hiện về sống dậy trong lòng hồi tưởng của nhà thơ:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Những địa danh nơi miền Tây xa xôi như Sài Khao, Mường Lát được tác giả nhắc đến trong bài thơ gợi nên cái âm u mịt mù của miền đất lạ. Nơi có “đoàn quân mỏi” đi trong sương. Nơi ấy lại có một vẻ đẹp lãng mạn huyền ảo: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.Câu thơ thật mới mẻ, độc đáo lan tỏa trong ta cảm giác lâng lâng. Tác giả nói “hoa về” mà không phải là “hoa nở”;“đêm hơi” chứ không phải “đêm sương”. Bông hoa hiện ra mờ mờ trong gương. Trong màn sương dày đặc, người lính Tây Tiến vẫn thấy hoa. Bông hoa mờ ảo như núi rừng, như đất trời hội tụ tinh hoa. Lại thêm “đêm hơi” càng làm cho nó mờ khuất trong tâm trí. Câu thơ gây được sự ám ảnh lớn bởi hình ảnh thơ độc đáo ấy.
Đọc đến đây ta có cái cảm giác như cái mệt mỏi của đoàn quân dường như tan biến hết. Quang Dũng đã viết câu thơ rất tài tình với hầu hết là thanh bằng. Câu thơ êm đềm tạo cảm giác nhẹ nhàng, lâng lâng, chơi vơi. Nó lan tỏa muôn nơi giống như sương, như hương hoa, như hồn người vậy.
Bài thơ đã khắc họa, tô đậm chân dung người lính Tây Tiến. Cả bài thơ là sự hồi tưởng, hoài niệm của Quang Dũng về những người đồng chí, về những miền đất đã đi qua. Tất cả chỉ là sự nhớ, là sự hồi tưởng. Tất cả là những kỉ niệm không thể nào quên. Vì thế, nó có một vẻ đẹp lung linh, huyền ảo của thiên nhiên miền Tây của Tổ Quốc.
Quang Dũng vừa làm nổi bật được vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình vừa diễn tả được khắc nghiệt dữ dội, hiểm trở của nó. Thiên nhiên miền Tây qua con mắt nhìn của Quang Dũng có vẻ đẹp khác thường. Nó có một vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình và mềm mại như một bức tranh lụa. Những bông hoa đong đưa làm duyên bên suối. Những bản làng thấp thoáng ẩn hiện trong sương. Những dáng người chèo thuyền độc mộc trên sông,… Tất cả hoang sơ, kỳ bí và huyền ảo đến mê li.
Thiên nhiên miền Tây cũng hiện lên với tất cả sự hiểm trở, dữ dội, khắc nghiệt của nó. Hàng loạt hình ảnh dữ dội được nhà thơ nhắc đến. Núi rừng với đèo cao, vực sâu, mưa nguồn, thác lũ. Cái nào cũng hung hiểm, dữ dội. Núi rừng còn có thú dữ, cơn sốt rét rừng khủng khiếp,… Cái nào cũng đáng sợ.
Đó là mặt trận, là địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến. Qua vẻ đẹp thơ mộng trữ tình, Quang Dũng đã thể hiện được tâm hồn lãng mạn của người lính. Nó khẳng định sự tinh tế, tài hoa của người lính Tây Tiến. Miêu tả một thiên nhiên dữ dội, khắc nghiệt, Quang Dũng không chỉ muốn nói lên sự gian khổ, vất vả mà còn làm nổi bật ý chí quan tâm của họ. Khung cảnh thiên nhiên hiện lên dữ dội bao nhiêu thì hình ảnh người lính Tây Tiến càng lớn lao, hùng vĩ bấy nhiêu.
Sau khi nhìn toàn cảnh nhà thơ Quang Dũng tái hiện con đường hành quân. Hình ảnh rừng núi sông Mã hiện lên thật dữ dội, đáng sợ. Đó là con đường gập ghềnh, khúc khuỷu đầy hiểm nguy. Đó là đèo cao dốc đứng, với vực sâu thăm thẳm thật đáng sợ. Người lính luôn phải hành quân trong mưa lũ, thét gào. Khung cảnh thiên nhiên dữ dội khắc nghiệt ấy được Quang Dũng khắc họa bằng những câu thơ gân guốc giàu tính tạo hình:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”.
Sự dữ dội, hiểm trở, khắc nghiệt của thiên nhiên, của con đường đã được nhà thơ Quang Dũng thể hiện bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật. Đó là bút pháp xây dựng hình ảnh tương phản, đối lập. Nhà thơ còn sử dụng nhiều thanh trắc tạo nên sự đứt gãy của câu thơ thật ấn tượng. Những câu thơ này không những tạo hình bằng hình ảnh mà còn được tạo hình bằng thanh điệu… Trong tác phẩm Truyện Kiều nổi tiếng của Nguyễn Du có những câu thơ giàu chất tạo hình như thế: “Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh”.
Bản thân thanh điệu của câu thơ đã đủ diễn tả con đường gập ghềnh ấy. Nhưng Nguyễn Du đâu có trực tiếp miêu tả đường. Nhà thơ chỉ miêu tả vó câu (bước chân ngựa) và bánh xe lăn đi như thế nào. Vậy mà người đọc vẫn có thể hình dung ra con đường ấy thật rõ ràng.
Có thể nói, qua ba câu thơ, Quang Dũng đã vẻ lên một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ hiểm trở và dữ dội. Những thủ pháp nghệ thuật đối lập được nhà thơ Quang Dũng khai thác triệt để. Con đường hành quân của người chiến sĩ hết lên cao lại xuống sâu, gập ghềnh, khúc khuỷu. Đọc câu thơ lên ta có cảm giác như nghe thấy được cả hơi thở nặng nhọc của người lính trên đường hành quân. Con đường hành quân đầy vất vả, gian lao của người chiến sĩ Tây Tiến. Đây đèo cao, vực sâu thăm thẳm, kia thác lũ mưa nguồn. Tất cả như án ngữ, ngăn chặn bước đường của người chiến sĩ Tây Tiến.
Cách sử dụng từ ngữ của nhà thơ rất mới mẻ đầy táo bạo. Trên đỉnh trời nhưng nhà thơ không viết súng chạm trời mà lại viết “súng ngửi trời”. Cách dùng từ táo bạo ấy vừa diễn tả được độ cao của đỉnh núi lại vừa thể hiện được sự dó dỏm, thông minh, lạc quan của người chiến sĩ . Đó cũng là cách nói vui đùa, tếu táo, mang đậm chất lính.
Nét vẽ của nhà thơ Quang Dũng ở khổ thơ này thật dữ dội, phóng khoáng mà cũng thật nên thơ. Có câu thơ hun hút đi lên cao mãi như sánh với chiều cao chốn rừng núi “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”. Có câu thơ lại gấp khúc, giữa giữa chiều cao và chiều sâu: “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”. Câu thơ ngắt nhịp ở giữa, gợi hình ảnh con đường đi lên rất cao, rất dốc; con đường đi xuống thì sâu thăm thẳm.
Qua những câu thơ này, Quang Dũng không những nói lên được sự khác biệt dữ dội của thiên nhiên mà còn thể hiện được sự vất vả gian lao và chí quyết tâm to lớn của người lính Tây Tiến. Nếu như ở ba câu thơ đầu Quang Dũng sử dụng nhiều thanh trắc với những nét vẽ gân guốc mạnh mẽ thì ở câu thơ thứ tư lại toàn thanh bằng giống như một nét bút mềm mạc và tinh tế:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa”.
Có thể hiểu câu này theo hai mức độ và sắc thái khác nhau. Từ trên đỉnh núi cao nhìn ra xa, người lính Tây Tiến thấy những ngôi nhà ở Pha Luông thấp thoáng ẩn hiện trong cơn mưa. Nhưng cũng có thể hiểu khi cơn mưa trút xuống cả một vùng rộng lớn mịt mờ, trắng nước ngỡ như biển khơi. Những ngôi nhà ở Pha Luông như dập dềnh trên biển lớn.
Hình ảnh những ngôi nhà ở Pha Luông đã gợi lên trong tâm hồn người chiến sĩ trẻ Tây Tiến một cảm giác nhẹ nhõm thanh thản, bình yên sau một chặng đường dài hành quân vất vả. Ở khổ thơ này, từng mảnh hình khối, đường nét chuyển đổi rất nhanh. Tất cả dường như đột ngột xuất hiện trong một khung cảnh núi rừng bao la, hùng vĩ giống như một bức tranh hoành tráng.
Thành công của Tây Tiến là khắc họa đậm nét chất lãng mạn và hào hùng của người lính Tây Tiến. Bức tranh Tây Tiến vừa thơ mộng, trữ tình, dịu êm, vừa dữ dội, kì vĩ được khắc họa đậm nét qua nỗi nhớ thiết tha của người lính. Quang Dũng đã vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật tạo hình trong hội họa. Bút pháp nghệ thuật của nhà thơ thật uyển chuyển, phóng khoáng, đưa lại cho người đọc những cảm xúc mới mẻ phong phú.
3
Văn mẫu lớp 12 phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Ta từng biết đến những vần thơ yêu đương vội vàng, hối hả của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu: “Đã hôn rồi hôn lại/ Cho đến mãi muôn đời/ Đến tan cả đất trời/ Anh mới thôi dào dạt”. Nhưng cũng không thể không nhắc đến một Xuân Quỳnh với tình yêu dịu dàng, nhưng đậm sâu, khắc khoải, điển tình của người con gái. Tình yêu ấy đã được thể hiện đầy đủ và trọn vẹn nhất trong bài: “Sóng”.
Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, viết khi bà đứng trước biển Diêm Điền. Lúc này Xuân Quỳnh đang ở độ tuổi 25, vừa trải qua những đổ vỡ trong tình yêu. Người phụ nữ ở độ tuổi này có suy nghĩ rất chín về tình yêu; mặt khác cũng thấy được ý thức của cái “tôi” bên cạnh cái ta chung. Tác giả cũng không đặt tình yêu trong quan hệ cảm tính một chiều mà thể hiện khát vọng tình yêu như một nhu cầu tự nhận thức, khám phá.
Mở đầu bài thơ với hai câu thơ cùng cấu trúc tạo nên những làn sóng vừa nhẹ nhàng vừa mạnh mẽ: “Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ”. Câu thơ tạo thành hai cặp đối lập: “dữ dội/ồn ào” và “dịu êm/lặng lẽ”, chỉ với bốn tính từ nhưng Xuân Quỳnh đã diễn tả đầy đủ những cung bậc khác nhau của sóng. Đây đồng thời cũng chính là cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu. Xuân Quỳnh ngắt nhịp 2/3 cho câu thơ, đồng thời với sự luân phiên nhịp nhàng bằng trắc đã có thấy sự đối nghịch trong những trạng thái của sóng, cũng là trạng thái của em, với liên từ “và” đã khẳng định dù chúng là những xúc cảm đối nghịch nhưng luôn song song tồn tại với nhau, không mâu thuẫn mà đan xen, vận động và có sự chuyển hóa. Đây chính là những cung bậc cảm xúc phức tạp trong tâm hồn người con gái đang yêu.
Chuyện tình yêu mấy ai có thể hiểu sâu sắc và tường tận, nhưng người con gái ở đây không chịu những yếu tố mập mờ như thế, cô quyết tâm từ bỏ không gian nhỏ hẹp, đến với không gian rộng lớn:
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Đây quả thực là một quyết định hết sức táo bạo, quyết liệt của người con gái. Nó khác hẳn người con gái trong xã hội cũ luôn bẽn lẹn, thẹn thùng, không dám quyết định cuộc đời mình. Còn người con gái chủ động tìm kiếm câu trả lời, tìm kiếm hạnh phúc.
Khát khao được yêu thương là nỗi khát khao muôn đời, đặc biệt là tuổi trẻ. Xuân Diệu đã từng viết rằng: “Làm sống được mà không yêu/ Không nhớ không thương một người nào”. Yêu đương như một lẽ tất yếu của con người, và người con gái trong bài thơ cũng vậy, nỗi khát khao tình yêu bồi hồi trong lồng ngực trẻ, luôn thổn thức, rực cháy. Các từ “ngày xưa” “ngày sau” khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của sóng cũng như sự trường tồn vĩnh cửu, bất diệt của tình yêu:
“Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Trong bất cứ vấn đề nào của cuộc sống, con người luôn có nhu cầu giải mã, lí giải chúng và trong tình yêu của không phải là một ngoại lệ: “Trước muôn trùng sóng bể/ .../ Khi nào ta yêu nhau”. Hình tượng sóng được Xuân Quỳnh sử dụng để diễn tả bản chất của tình yêu đó là sự bí ẩn không thể lí giải được. Giữa em và muôn trùng sóng bể có sự đối lập rất rõ nét, em nhỏ bé, mong manh, hữu hạn trước cái vô biên, rộng lớn của vũ trụ, chính điều đó đã làm thức dậy những suy tư, trăn trở trong lòng cô gái đang yêu. Từ “em nghĩ” được lặp lại hai lần, nhấn mạnh vào nhu cầu khám phá, cắt nghĩa. Em nghĩa về biển lớn “Từ nơi nào sóng lên?” và câu trả lời là “Sóng bắt đầu từ gió”; em nghĩ về anh và em, là câu hỏi muôn đời: “Khi nào ta yêu nhau?”, và câu trả lời thật chính xác: “Em cũng không biết nữa”. Quả đúng tình yêu chẳng thể đong đếm, cân đo chính xác từng giây phút, từng thời điểm, tình yêu như một cơn mưa rào, bất chợt đến khiến ta ngỡ ngàng, hạnh phúc. Hai câu hỏi của nhân vật trữ tình đan cài, hòa quyện vào nhau, chúng dường như nhập vào làm một. Nếu như nguồn gốc của sống, ta có thể cắt nghĩa được, thì nguồn cội của tình yêu ta lại không thể cắt nghĩa nổi. Đó là một điều lạ lùng, bí ẩn, đây cũng chính là yếu tố tạo nên sự hấp dẫn cho tình yêu.
Những nhịp sóng khi êm đềm, khi dâng lên cuộn trào cũng như chính cung bậc cảm xúc trong tình yêu: Con sóng dưới lòng sâu/ .../ Dù muôn vời cách trở. Nỗi nhớ là cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ này, nỗi nhớ ấy gắn với không gian “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, với “bờ”; nó bao trùm cả thời gian “ngày đêm không ngủ được”, và xâm chiếm tâm hồn con người, ngay cả trong vô thức “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Một tiếng “nhớ” thôi mà đã diễn tả đầy đủ được tình yêu em dành cho anh .Đồng thời đây là khổ duy nhất trong bài có đến 6 câu thơ, sự phá cách ấy đã góp phần diễn tả trào dâng mãnh liệt của nỗi nhớ trong tình yêu.
Nỗi nhơ da diết, khắc khoải đi cùng với sự thủy chung, son sắt trong tình yêu của nhân vật trữ tình: “Dẫu xuôi về phương Bắc/.../ Hướng về anh – một phương”. Phương Bắc và phương Nam là hai địa danh cách xa nhau hàng ngàn cây số, sử dụng hai danh từ này nói lên sự xa xôi, cách trở. Đặc biệt trong cách dùng từ xuôi về Bắc, ngược về Nam dường như đã hàm chứa sự cách trở, éo le, những biến động trong cuộc đời. Nhưng đối lập với cái thường biến ấy là sự bất biến “Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh – một phương”. Đó là biểu hiện của tấm lòng thủy chung, son sắt.
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Trong khổ thơ, Xuân Quỳnh sử dụng rất sáng tạo cặp hình ảnh ẩn dụ “sóng – bờ” ở đây được sử dụng rất mới mẻ dù đã được nói đến nhiều trong ca dao, thơ cũ. Nếu trong ca dao, sóng/ thuyền/đò là ẩn dụ cho người con trai, bờ/bến ẩn dụ cho người con gái; thì ở đây “sóng” lại là hình ảnh của người con gái, “bờ” là niềm hạnh phúc sum vầy. Như vậy, trong khổ thơ, ta không chỉ thấy vẻ đẹp của một tình yêu mãnh liệt, thủy chung mà còn thấy được sự chủ động đầy mạnh mẽ của người con gái khi yêu.
Từ bỏ cái chật chội, bé nhỏ Xuân Quỳnh hướng đến cái lớn lao hơn, đẹp đẽ hơn đó là khát vọng dâng hiến và bất tử hóa tình yêu: Cuộc đời tuy dài thế/.../ Để ngàn năm còn vỗ. Khổ thơ thứ tám vừa là suy tư về không gian, thời gian nhưng đồng thời cũng thể hiện những nhận thức trong tình yêu và đi đến ước nguyện được tan ra, được dâng hiến trọn vẹn trong tình yêu. Nhà thơ khao khát tình yêu của mình hoà trong tình yêu của mọi người. “Tan ra” không phải mất đi mà hoà giữa cái chung và cái riêng. Tình yêu như thế không bao giờ cô đơn.
Bài thơ sáng tạo hình tượng sóng đặc sắc, giàu ý nghĩa biểu tượng. Kết hợp với kết cấu song hành giữa “sóng” và “em” khi đan cài, hòa quyện làm một khi tách rời, độc lập để nhìn ngắm, nhận thức và soi chiếu nhau. Thể thơ ngũ ngôn, giàu nhịp điệu, ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc đã góp phần tạo nên sự thành công của tác phẩm.
Với hình tượng “sóng” giàu sức biểu cảm và trên cơ sở khám phá sự tương đồng “sóng” và “em” , Xuân Quỳnh đã diễn tả một cách chân thực và đầy đủ nhất tình yêu của một người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách, bão giông của cuộc đời và sự hữu hạn của đời người để sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu ấy vừa mang vẻ đẹp truyền thống vừa có những nét hiện đại.
4
Văn mẫu lớp 12 phân tích ý nghĩa của bản Tuyên Ngôn Độc Lập

Sinh thời Hồ Chí Minh không bao giờ nhận mình là nhà văn, nhà thơ mà chỉ là người bạn của văn nghệ, người yêu văn nghệ. Nhưng trên bước đường hoạt động cách mạng Người nhận thấy văn chương có thể phụng sự đắc lực cho tuyên truyền. Cộng với một tài năng nghệ thuật và một tinh thần nghệ sĩ chan chứa cảm xúc nên Người đã sáng tác nên nhiều tác phẩm có giá trị. Tiêu biểu trong số những tác phẩm đó phải kể đến “Tuyên Ngôn Độc Lập”. Nó không chỉ là áng văn chính luận hay sắc sảo với những lập luận chặt chẽ mà còn mang ý nghĩa như tuyên ngôn khẳng định cho một đất nước-đó chính là nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Có thể nói, bản tuyên ngôn ra đời mang tầm vóc lịch sử lớn của dân tộc ta. Đó là khi cách mạng tháng Tám thành công nhưng ngay sau đó Mỹ âm mưu nhảy vào nước ta với tham vọng xâm lược nước ta. Chúng kéo theo bọn tay sai phản động và đồng minh của chúng. Trước tình hình ấy Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập để khẳng định chủ quyền của đất nước ta.
Mở đầu bản tuyên ngôn Người nêu ra một nguyên lý mang tính phổ quát: “tất cả mọi người sinh ra và các dân tộc trên thế giới đều có quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Có thể nói đây là đoạn văn vừa khéo léo tài tình lại vừa kiên quyết. Hồ Chí Minh khẳng định điều đó bằng cách trích dẫn những lời lẽ mà tổ tiên người Pháp và Mỹ đã ghi lại trong hai bản tuyên ngôn Pháp và Mỹ- đây là hai bản tuyên ngôn từng làm rạng rỡ cho truyền thống văn hóa và những tư tưởng văn hóa của dân tộc. Nó trở thành lí lẽ bất hủ không ai chối cãi được.
Cách viền dẫn ấy thể hiện sự kiên quyết trong từng câu chữ, nói như thế nhằm đánh trúng tim đen của đối phương và kiên quyết nhắc nhở họ đừng phản bội chính những gì mà ông cha chúng đã nêu cao. Đừng chà đạp vào những giá trị mà ông cha chúng đã dày công xây dựng. Nếu chúng làm trái thì chẳng khác nào đạp đổ hết bao nhiêu sương máu mà ông cha chúng đã mất đi để nói lên những bản tuyên ngôn như thế. Chúng đã làm vây bẩn lá cờ nhân đạo ấy.
Cách viện dẫn ấy còn thể hiện sự khéo léo tài tình ở chỗ Bác ngầm ý đặt ba bản tuyên ngôn ngang hàng nhau, ba dân tộc, ba cuộc đấu tranh ngang hàng nhau. Nó giống với áng thiên cổ hùng văn của Nguyễn Trãi:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
Sự khéo léo ấy còn để khóa miệng chặn chân kẻ thù đang âm mưu xâm lược nước ta. Đây là thủ pháp nghệ thuật gậy ông đập lưng ông vì sự thật lịch sử đã chứng minh những hành động của chúng như phỉ thổ và chà đạp lên những giá trị mà ông cha chúng tạo ra.
Không những thế, sự khéo léo còn được thể hiện khi tác giả dùng “suy rộng ra”. Người thật khéo léo khi suy rộng ra từ quyền con người đến quyền dân tộc, câu nói ấy có ý nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Và những lí lẽ ấy là không thể chối cãi được.
Sang đoạn tiếp theo, tác giả vạch ra tội ác của kẻ thù. Người bắt đầu đoạn văn bằng chữ “thế mà” thể hiện sự khác nhau đến trái ngược giữa hành động và lí thuyết của chúng, hay cũng chính là để vạch tội cái sự làm trái quy luật của bọn chúng khi xâm lược nhân dân ta. Sau đó Người vạch trần tội ác của chúng trên tất cả các mặt
Thứ nhất, về chính trị thì chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta chút quyền tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man, lập ba chế độ khác nhau giữa ba miền để nhằm ngăn chặn cho nhân dân ta đoàn kết lại đấu tranh chống Pháp. Không những thế chúng còn tắm nhân dân ta trong những bể máu.
Về kinh tế, chúng bó lột nhân dân ta đến tận xương tủy, chúng giữ độc quyền in, hành hạ nhân dân ta. Chúng cướp hầm mỏ, nguyên liệu, khoét rỗng tài nguyên của đất nước…kết giấy bạc, đặt ra hàng trăm thứ thuế- hậu quả của tội ác ấy là nạn đói năm 1945 làm cho gần hai triệu đồng bào ta chết đói.
Biện pháp liệt kê được Bác sử dụng có hiệu quả đã kể tội chúng trên tất cả những lĩnh vực. Mỗi ý liệt kê lại được tách thành những đoạn văn riêng, điệp từ chúng được cất lên gợi sự khinh bỉ tột cùng của nhân ta với thực dân Pháp.
Không chỉ luận tội kẻ thù mà bác còn lật tẩy bộ mặt xảo trá của chúng cho thế giới biết được sự man trá dối gian của chúng. Nếu Pháp kể công là có công khai hóa Đông Dương thì bản tuyên ngôn đã chỉ rõ rằng sự thật là trong năm năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật. Thực dân Pháp rêu rao có quyền quay trở lại Đông Dương nhưng sự thật là mùa thu 1940 chúng ta cướp chính quyền từ tay Nhật chứ không phải tay Pháp. Những điệp từ sự thật nhấn đi nhấn lại để cho thấy những luận điệu xảo trá lừa bịp dư luận của thực dân Pháp. Không những thế, khi bắt được tù binh thì nhân dân ta vẫn trao trả đầy đủ còn chúng thì giết sạch những cán bộ chiến sĩ của ta. Điều đó cho thấy, Pháp không những không có công mà còn có tội rất lớn.
Sau khi bẻ gẫy những luận điệu của chúng, Bác đi đến một kết luận rằng: “dân tộc Việt Nam xứng đáng được hưởng tự do hạnh phúc”. Bác nêu rõ một bên là chính nghĩa, một bên không những vô liêm sỉ mà còn phi nghĩa.
Chính vì thế, phần cuối tác giả nêu lên: “Chúng tôi chính phủ lâm thời tuyên bố thoát li…Việt Nam”. Người kêu gọi toàn dân hãy đoàn kết để chống lại âm mưu của thực dân Pháp. Không những thế, họ còn kêu gọi sự ủng hộ của các nhân dân trên thế giới. Người khẳng định một dân tộc gan góc chống lại những thế lực kia thì phải được độc lập tự do. Và thay mặt cho toàn nhân dân, Người quyết tâm giữ vững nền độc lập ấy cho dù có phải hi sinh biết bao xương máu cũng nhất định giữ vững.
Qua đây ta thấy bằng những lí lẽ dẫn chứng thuyết phục, cách lập luận sắc sảo, bằng chứng xác thực bản tuyên ngôn hiện lên như một viên ngọc quý có giá trị và ý nghĩa sâu sắc. Bản tuyên ngôn ấy không chỉ nói lên sự độc lập của nhân dân ta mà còn góp vào nền văn học Việt Nam một áng văn chính luận sắc sảo.
5
Văn mẫu lớp 12 nghị luận xã hội: Đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố

Trong cuộc đời mỗi con người chắc hẳn ai cũng vấp phải những khó khăn, sự cản trở để bước đến thành công như thất bại trong công việc, gia đình bị đổ vỡ, tình yêu bị phản bội… khi đó có người cảm thấy bất lực trước cuộc sống, họ tìm đến rượu để giải sầu, thậm chí tìm đến cái chết để không phải đối diện với sự thật. Nhưng nhà văn Đặng Thùy Trâm – một cô y tá dũng cảm đã chứng kiến bao nhiêu sự mất mát của đồng chí, đồng đội trong chiến tranh, cô dám đương đầu với sóng gió của cuộc đời và đã đưa ra chân lý sống cho chính bản thân mình: Đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố. Chân lý này cũng là lời khuyên, bài học bổ ích, chúng ta có thể lấy làm phương châm sống để sống tốt hơn.
Trước khi hiểu hơn về câu nói của Đặng Thùy Trâm, chúng ta cần hiểugiông tố là gì? Giông tố ở đây dùng để chỉ cảnh gian nan đầy thử thách hoặc việc xảy ra dữ dội, mãnh liệt. Câu nói đó đã khẳng định cuộc đời có thể trải qua nhiều gian nan nhưng chớ cúi đầu trước khó khăn, chớ đầu hàng trước những thử thách mà hãy dũng cảm đối đầu với những thử thách, khó khăn đó.
Chúng ta hãy cùng nhau quay ngược dòng thời gian để trở về với hai cuộc chiến tranh ác liệt nhất trong lịch sử của dân tộc Việt Nam đó là cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Cuộc chiến tranh này đã làm cho cả dân tộc ta phải sống trong sự lầm than, cực khổ nhưng vì hòa bình, độc lập, tự do mà cả một thế hệ, cả dân tộc đã đoàn kết đứng lên đấu tranh để lấy lại những gì thuộc về chúng ta. Lòng hy sinh, sự kiên cường, bản lĩnh của người lính, hậu đã giúp đất nước chúng ta vượt qua giông tố để đứng hiên ngang sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới. Không những thế, toàn thế giới phải nghiêng mình kính phục đất nước nhỏ bé của chúng ta – những con người quả cảm, yêu nước, luôn biết hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích dân tộc.
Khi đất nước hòa bình, con người trở về với cuộc sống đời thường, mỗi người có một cuộc sống riêng, một nỗi lo riêng. Có người luôn gặp những bất hạnh trong cuộc sống, họ cảm thấy tạo hóa đang đẩy họ đến bước đường cùng, họ tuyệt vọng khi không đạt được ước mơ, họ cảm thấy bất lực khi không lo được cho vợ con một cuộc sống hạnh phúc, có người cảm thấy lạc lõng cô đơn trước cuộc sống hiện tại… Tất cả những điều đó phải chăng là những thử thách của cuộc đời dành cho họ hay là do con người trong cuộc sống ngày nay ngày càng trở nên vô cảm và chính con người đã đẩy mình vào những khó khăn đó. Đứng trước những điều đó, đòi hỏi bản thân mỗi chúng ta cần phải bình tĩnh, phải suy xét và phải mạnh mẽ đương đầu với nó, như thế chúng ta mới không bị những giông tố kia làm hại cuộc đời ta.
Nếu trong chiến tranh cả một thế hệ phải đương đầu với sóng gió, khi hòa bình lập lại, mỗi cá nhân phải tự mình trải qua những thử thách, dù trong hoàn cảnh nào cũng đòi hỏi chúng ta đừng nhụt chí mà hãy bước tới nó, đi qua nó và đạt được thành công. Như vậy, gian nan, thử thách chính là môi trường tôi luyện con người.
Câu nói của Đặng Thùy Trâm đúng với mọi hoàn cảnh, với mọi đối tượng và qua câu nói đó giúp cho chúng ta thấy rằng: Đó là tiếng nói của một lớp trẻ sinh ra và lớn lên trong thời đại đầy bão táp nhưng họ sống thật đẹp và hào hùng, đồng thời câu nói thể hiện một quan niệm nhân sinh tích cực: sống không sợ gian nan, thử thách, phải có nghị lực và bản lĩnh.
- top
- văn mẫu
- văn mẫu lớp 12
- văn mẫu lớp 12 đáng xem
- văn mẫu lớp 12 hay nhất
- topshare
- văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- bài văn mẫu
- bài văn mẫu lớp 12
- bài văn mẫu lớp 12 đáng xem
- bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- top văn mẫu
- top văn mẫu lớp 12
- top văn mẫu lớp 12 đáng xem
- top văn mẫu lớp 12 hay nhất
- top văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- top bài văn mẫu
- top bài văn mẫu lớp 12
- top bài văn mẫu lớp 12 đáng xem
- top bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- nghị luận
Phù hợp với bạn
29-05-2025 Thông Còi
29-05-2025 Thanh Thu
11-01-2024 Chanh
22-01-2024 Chanh