Top 50 bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất giúp học sinh trau dồi cách hành văn

  • 2,373 views
  • 1 likes
Top Share

16-06-2022 Vũ Đỗ Hải Hà

Đề văn, bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất là cái khuôn sẵn có bổ trợ học sinh khối 12 trong việc tinh chỉnh lối viết văn, hành văn, thi cử lẫn tham dự những cuộc thi có dính đến văn chương khác nhau. Văn mẫu lớp 12 phải đạt tới độ giúp học sinh thông suốt, trình bày câu cú chỉn chu, lời lẽ liền mạch, bám sâu và sát vấn đề đưa ra. Văn mẫu lớp 12 trọng yếu xoay vần quanh dạng nghị luận (văn học / xã hội), phân tích rốt ráo một khía cạnh nào đó, đưa nhiều dẫn chứng hay để học sinh 12 ngấm nhuần trọn vẹn. Dưới đây topshare xin gửi tới bài viết top bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất đủ sức làm tài liệu trên hành trình học văn của các em. Xem ngay nhé!

6

Văn mẫu lớp 12 phân tích Chữ người tử từ và Hai đứa trẻ để chứng minh nhận định

Vote
0%
Văn mẫu lớp 12 phân tích Chữ người tử từ và Hai đứa trẻ để chứng minh nhận định

Chữ người tử tù

Là hai truyện ngắn mang những giá trị nghệ thuật đặc sắc, “ Hai đứa trẻ” Thạch Lam và “ Chữ Người Tử Tù” Nguyễn Tuân đã cho người đọc được thưởng thức tác phẩm nghệ thuật thực thụ bởi những giá trị nghệ thuật độc đáo mà tác phẩm mang lại. Nguyễn Tuân là nhà văn rất yêu cuộc sống, yêu cái đẹp. Cả đời ông dành để đi tìm và thưởng thức những điều đẹp đẽ trong cuộc sống, ở đời sống luôn hướng đến cái chân, thiện, mỹ.Nguyễn Tuân nhìn đời bằng ánh mắt say mê để mọi thứ trên đời dù có thế nào đi chăng nữa, có trong hoàn cảnh éo le, đôi mắt với hiểm nguy, thử thì cũng đều là những con người có khí chất, có vẻ đẹp trời sáng từ trong tâm hồn. Tập truyện ”vang bóng một thời” của ông là tập truyện viết về những giá trị, những điều đẹp đẽ từ thời xưa, mang tính hoài niệm, hoài cổ. Truyện ngắn “ Chữ người tử tù” được rút từ tuyển tập này. Truyện mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, hướng con người đến những giá trị chân, thiện, mỹ của cuộc sống.

Cũng là người yêu cái đẹp, yêu cuộc sống nhưng khác với Nguyễn Tuân, Thạch Lan không đòi hỏi cái đẹp có phải tài hoa, xuất chúng. Đối với Thạch Lam, ông yêu mến những điều dịu dàng, nhẹ nhàng, mơ hồ và man mác, gây tạo cho người đọc những cảm xúc khó định hình. Thạch Lam yêu cái đẹp dân dã ở thôn quê, thiết tha với tình người giản dị, mộc mạc. Truyện ngắn “ Hai Đứa Trẻ” của ông là truyện ngắn hay, tạo cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc tất cả hai tác phẩm “ Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân và “ hai đứa trẻ” của Thạch Lam đều được hai tác giả sáng tác bằng tâm hồn yêu cái đẹp, mà cái đẹp chính là nghệ thuật. Bởi vậy nên hai tác phẩm đều mang những giá trị nghệ thuật đặc sắc, nghệ thuật chính là phương diện đóng góp phần rất lớn trong sự thành công của hai tác phẩm. Nghệ thuật là nơi cao nhất tập trung mối quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực. Nói đến nghệ thuật là nói đến cái đẹp, cái gì không đẹp không thể là nghệ thuật. truyện ngắn “ Chữ Người tử tù” của Nguyễn Tuân là tác phẩm gần đạt đến độ toàn mỹ, bởi những giá trị nghệ thuật hàm chứa trong tác phẩm, đầu tiên nghệ thuật trong tác phẩm được thể hiện qua tình huống truyện đặc sắc. Nguyễn Tuân đã xây dựng nên tình huống hết sức độc đáo: Huấn Cao nhân vật chính trong tác phẩm là một tên tử tù tội lớn đầy trời, phải chịu án chém. Huấn Cao được các giải đến một trại giam ở tỉnh Sơn, viên quản ngục và thầy thơ lại ở đây đều biết đến danh tiếng của Huấn Cao,biết ông là người văn võ song toàn và đặc biệt có tài viết chữ đẹp. Nguyễn Tuân đã tạo sự éo le trong tình huống truyện khi để cho người tử tù là người biết sáng tạo ra cái đẹp còn viên quản ngục kẻ cầm quyền thống trị người tử tù lại là người rất yêu cái đẹp, thích chữ đẹp và còn muốn xin chữ của Huấn Cao. Thường thường, quản ngục phải là người tàn ác, hành hạ tù nhân còn tù nhân là những kẻ sợ sệt, rụt đầu rụt cổ trước đòn roi, tiếng quát nạt của quản ngục. Nhưng ở đây thì khác, tù nhân là người rất kiêu hãnh, cảm thấy khinh bỉ những trò “ tiểu nhân vô lại của bọn cai ngục, còn viên quản ngục lại rất kính nể tù nhân, hết sức tôn trọng, thậm chí lễ phép với người tử tù. Quả là một tình huống truyện độc đáo chỉ có ở văn Nguyễn Tuân, viên quản ngục tha thiết muốn có được chữ của Huấn Cao treo trong nhà. Lẽ thường, quản ngục có thể sử dụng cách này cách khác, ép buộc tù nhân phải theo ý mình nhưng viên quản ngục ở đây lại không thể làm điều đó với Huấn Cao, cũng bởi Huấn Cao là người “ khoảnh” trước sự tài hoa của mình và cũng một phần quản ngục không muốn mình làm những điều đê hèn như vậy để đạt được mục đích. Có thể thấy,đây không phải là viên quản ngục và người tù bình thường. Chính sự day dứt trong lương tâm đã làm quản ngục khó xử khi có vấn cao trong tay mà không thể làm gì được. Bây giờ, nghệ thuật viết chữ đẹp được gọi là nghệ thuật thư pháp, quản ngục là người muốn thưởng thức cái đẹp còn tử tù là người sáng tạo ra cái đẹp, vì vậy, xét trên bình diện xã hội, họ là kẻ thù của nhau, ở hai giai cấp trái ngược nhau. Nhưng xét trên bình diện nghệ thuật, họ là tri ân tri kỷ, là những người đều yêu và trân quý cái đẹp. Xuất phát từ tâm hồn luôn hướng đến cái đẹp, Nguyễn Tuân đã xây dựng nên giá trị nghệ thuật đầu tiên trong tác phẩm đó là tình huống truyện hết sức độc đáo và ấn tượng.

Giá trị nghệ thuật tiếp theo trong tác phẩm là giá trị nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết lời thoại và độc thoại khắc họa tính cách nhân vật. Nguyễn Tuân xây dựng diễn biến chuyện theo trình tự, thời gian tuần tự chú ý từng tình tiết nhỏ để mỗi tình tiết là một mảnh ghép cho sự thành công của tác phẩm như tình tiết Huấn Cao đỡ gông, phủi rệp. Huấn Cao ung dung nhận rượu, thịt và cảnh Huấn Cao cho chữ không những xây dựng tình tiết độc đáo mà việc sử dụng lời thoại độc thoại đã góp phần khắc họa tính cách nhân vật rõ nét. Người đọc dễ dàng nhận ra đặc điểm của nhân vật Huấn Cao thông qua nghệ thuật xây dựng tình tiết và đối thoại độc thoại. Trước hết người đọc nhận ra tử tù là một người văn võ song toàn và vô cùng tài hoa, cái tài hoa của Huấn Cao được cả Tỉnh sơn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp. Không những vậy Huấn Cao còn có sức khỏe có tài nghệ, võ công, “giỏi bẻ khóa vượt ngục”. Chữ ông Huấn được tấm tắc khen là đẹp lắm, vuông lắm ai có được chữ ông Huấn Cao trong nhà thì thật là quý giá vô cùng. Không những vậy Huấn Cao hiện lên rất kiêu hãnh, kiêu ngạo, ra dáng anh hùng “chọc trời khuấy nước” qua hành động “dỗ gông phủi rệp”, thúc xuống nền tảng đá “đánh thuỳnh một cái” làm mấy tên lính áp giải rùng mình nể sợ. Hành động này đã xóa đi ý nghĩ dọa nạt người khác của bọn tiểu nhân vô lại. Huấn Cao còn ngời lên vẻ đẹp của thiên lương trong sáng thông qua việc đồng ý tặng chữ cho viên quản ngục là người biết phục Thiện đúng lúc, áy náy nói “rằng suýt nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ” và hết sức chân tình qua lời khuyên:“ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi… Tôi bảo thật đấy, thày quản nên tìm về nhà quê mà ở, ở đây khó giữ thiện lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc cái đời lương thiện đi”. Xóa bỏ ranh giới giữa hai giai cấp, thiên lương của Huấn Cao đã làm cho quản ngục cảm động rơi nước mắt. Không chỉ cho chữ, Huấn Cao còn khuyên quản ngục hết sức chân tình. Bằng nghệ thuật xây dựng tình tiết, đối, Nguyễn Tuân đã khắc họa nên hình tượng nhân vật tử tù rất đẹp, tài hoa kiêu hãnh, ngang tàng và có thiên lương ngời sáng.

Giá trị nghệ thuật góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm nữa đó là sự tương phản, đối lập giữa cảnh với cảnh và giữa ánh sáng với bóng tối. Điều này được thể hiện rõ qua cảnh cho chữ trong tác phẩm ở cảnh này. Nguyễn Tuân đã huy động vốn ngôn ngữ và dồn hết tâm sức của mình vào đây. Huấn Cao đồng ý tặng chữ cho quản ngục vào cái đêm trước ngày ra pháp trường ấy. Đêm hôm đó, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn tiếng ngõ vọng canh, “ một cảnh tượng của ngày chưa từng có” đã hiện ra. Khung cảnh đó thật khiến người đọc ấn tượng bởi bức tranh cho chữ được xây dựng lên trong sự đối lập: đối lập giữa “ một buồng tối chật hẹp, ẩm, đường đầy mạng nhện”, với “ ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên”. Ánh sáng của bó đuốc đã xua đi bóng tối u ám của nhà giam, xua đi những xấu xa, chống cường quyền bạo lực. Đó là ánh sáng của chân lý của những điều ấm áp, những lẽ phải ở đời. Đối lập giữa sự bẩn thỉu của nhà giam “ ẩm ướt, đầy phân chuột, phân gián” với mùi thơm tỏa ra từ thoi mực, từ vuông lụa mới, sự bẩn thỉu đó không những là bẩn thỉu của phân chuột, mạng nhện mà còn là sự bẩn thỉu trong lương tâm của những tên vô lại trốn ngục tù này. Thỏi mực thơm, vuông lụa trắng là cái đẹp, cái thanh cao của tâm hồn con người. Nguyễn Tuân dùng thủ pháp nghệ thuật đối lập, tương phản để nâng cao cái đẹp, cái thiện lên một tầm cao mới, đề cao cái chính nghĩa, thiên lương của con người đồng thời cũng tạo nên điểm nhấn cho tác phẩm truyện.

Cuối cùng nghệ thuật trong tác phẩm còn được thể hiện ở cách sử dụng từ Hán Việt rất đắt, tạo nên màu sắc lịch sử cổ kính, bi tráng, ngôn ngữ lịch lãm. Là người hoài cổ, yêu thích những giá trị đẹp để từ ngày xưa, Nguyễn Tuân đã sử dụng rất nhiều từ Hán Việt trong tác phẩm như: phiến trát, tiếng trống thu không, án thư, triều đình, sách thánh hiền…tất cả đã tạo nên không khí cổ kính, đưa người đọc quay trở về thời xa xưa với những khung cảnh bi tráng, giúp con người ngược dòng thời gian quay trở lại thời xưa cũ. Nguyễn Tuân đã dồn hết tâm sức của mình cho tác phẩm thông qua việc tạo cho tác phẩm những giá trị nghệ thuật đặc sắc. Nhờ điều này mà “ Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân là truyện ngắn đặc sắc, “ gần đạt đến độ toàn mỹ” trong nền văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng 8.

Hai đứa trẻ

Có ai đó cho rằng: “ nghệ thuật chính là cái đẹp” nhưng theo quan niệm của lý luận văn học: “ nghệ thuật là một hình thái ý thức, nghệ thuật không chỉ gắn biển với cái đẹp mà còn là nơi con người gửi gắm tâm sự suy nghĩ về cuộc đời”. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là truyện ngắn chứa đựng những tâm sự, suy nghĩ về cuộc đời của tác giả. Bởi vậy nên chuyện mang nhiều giá trị nghệ thuật đặc sắc góp phần vào sự thành công của tác phẩm. Giá trị nghệ thuật đầu tiên trong tác phẩm đó là sự miêu tả những diễn biến của nội tâm nhân vật Liên thông qua những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh, tinh tế. Đọc những dòng văn đầu tiên của thiên truyện, trước khung cảnh ngày tàn nơi phố huyện, nhân vật liên dâng lên trong lòng một “nỗi buồn man mác”.Nhưng liên lại không biết mình buồn vì điều gì, chỉ thấy trước thời khắc của ngày tàn, Liên xôn xao, bâng khuâng trong lòng, buồn mà không biết mình buồn vì điều gì thì nỗi buồn đó có lẽ kinh khủng lắm. Liên buồn gì buổi chiều thường gợi buồn gợi nhớ hay buồn vì cảnh sống luẩn quẩn nơi Phố huyện nghèo? không rõ nữa! Liên cứ thế mà nhìn cố quên cả việc dọn hàng. Khi đêm xuống, bóng tối bao trùm khắp cảnh vật. Liên cùng em ngồi trên chõng đưa mắt ngắm nhìn trời đất, nhìn phố quê. Ở đoạn này, Thạch Lam không hề đưa ra một từ ngữ nào để diễn tả tâm trạng Liên, nhưng người đọc vẫn có thể cảm nhận được cảm xúc mơ hồ trong liên lúc này. Chị cùng An ngắm nhìn bầu trời sao đêm lấp lánh.

Đêm tối ở phố huyện chẳng có gì để hai chị em chơi đùa. Chúng lặng nhìn những con đom đóm bay là trên mặt đất, nước mắt nhìn những vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Có gì đó rất ngây thơ, hồn nhiên, hai đứa trẻ đang tự tìm thú vui cho mình, còn Liên điều này làm chị nhớ đến những kỉ niệm ngày trước được ở Hà Nội, được “hưởng những thức quà ngon, được đi chơi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Hoài niệm hay tiếc nuối? có lẽ là cả hai khi mà Hà Nội thì “nhiều đèn quá” còn ở đây thì tối lắm, bóng tối bao trùm mọi nẻo đường”. Hai chị em Liên và an dù trời đã khuya nhưng vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đến từ Hà Nội. Lúc đợi Tàu, liên trông cho em ngủ, em ngủ rồi, chỉ còn mình chị ngồi yên trước cảnh đêm khuya, cảm nhận mọi biến chuyển trong không gian, con đom đóm đám trước mặt, lá, hoa bàng rơi trên vai, Liên cảm thấy tâm hồn yên tĩnh hẳn. Có lẽ bởi cảnh vật yên tĩnh nên lòng chị cũng yên tĩnh. Nhưng cảm giác bây giờ thế nào, Liên “ mơ hồ không hiểu”. Có lẽ nhà văn cũng không biết nên dùng từ ngữ diễn đạt như thế nào. Là cô đơn? trống vắng? hay buồn tẻ trước không gian của đêm tối? không hiểu là gì nữa! Thạch Lam dẫn dắt người đọc vào một thế giới cảm xúc quá mơ hồ và khó tả. Khi tàu đến, Liên đánh thức em dậy, cả hai chị em cùng ngắm nhìn đoàn tàu đi qua liên nhận ra “ Tàu đêm nay không đông, thưa vắng người hơn mọi khi và kém sáng hẳn”. Nhưng liên biết khách trên tàu là “ ở Hà Nội về”. Chị lặng theo mơ tưởng, tất cả kí ức về ngày trước lại hiện lên thật rõ nét. Có lẽ là tiếc nuối, hoài niệm khi Liên nghĩ về Hà Nội xa xăm, rực ánh đèn không giống như vầng sáng ngọn đèn của chị Tí, của bác Siêu. Thực tại làm Liên mơ tưởng về quá khứ huy hoàng, dâng lên trong lòng cảm xúc bồi hồi, lưu luyến lên tàu chạy quất rồi vẫn mãi nhìn theo cái chấm sáng ngày một mờ dần. Kết thúc dòng cảm xúc lẫn lộn của Liên, tác giả để chị chìm vào giấc ngủ với “ bóng tối ngập tràn đầy”. Thạch Lam quả thật đã đưa người đọc lạc vào thế giới cảm xúc hỗn độn, mơ hồ như lạc vào màn sương dày lâng lâng không tìm được lối ra.

Ngoài nghệ thuật miêu tả diễn biến nội tâm nhân vật, Thạch Lam còn thành công trong việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa các vùng âm thanh và ánh sáng. Sự tương phản đó thể hiện ở cảnh phố huyện khi bóng tối bao trùm, “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Bóng tối đã phủ lên mọi vật, nhưng giữa cả vùng tối đen như mực ấy chỉ hiện lên những nguồn sáng nhỏ lẻ, yếu ớt, khe sáng phát ra từ những ngôi nhà để hé cửa, ánh sáng lấp lánh của những vì sao, hột sáng tương ớt lọt qua phên nứa, của ngọn đèn con của chị tí, bếp lửa của Bác phở Siêu và cả ánh đèn dầu mập mờ của chị em Liên. Đó đều là những ánh sáng yếu ớt, nhỏ, không đủ để đẩy lùi màn đêm đen tối. Sự đối lập còn thể hiện qua cảnh đoàn tàu chạy qua phố huyện. Ở cảnh này, nhà văn xây dựng sự tương phản ở cả âm thanh và ánh sáng giữa một vùng quê yên tĩnh, tối tăm, đoàn tàu chạy qua làm huyên náo mọi người.Tiếng còi tàu không như tiếng trồng cầm canh khô khan “đánh tung lên một tiếng ngắn khô khan” rồi “ chìm vào bóng tối”, không như tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi điên mà tiếng còi tàu xe đêm “ rít lên”, “ rầm rộ đi tới”. Ánh Sáng Từ đoàn tàu cũng là thứ ánh sáng khác biệt, từ xa đã thấy “sát mặt đất như ma trơi”, “ một làn khói bừng sáng”, “ các toa đèn sáng trưng”, chiếu ánh sáng cả xuống đường. Đoàn tàu như một ngôi sao băng vụt qua bầu trời đêm đen. Đoàn tàu đến mang ánh Sáng mới lạ cho phố nghèo. Đó là ánh sáng của sự sang trọng, xa hoa, ánh sáng của văn minh, tiến bộ, ánh sáng của cuộc sống diễm lệ. Ánh Sáng ấy khác hẳn với ánh sáng yếu ớt của những ngọn đèn nhỏ nơi phố quê, mang đến cho con người sự mong muốn, ngưỡng vọng về những điều xa xôi,về cuộc sống đổi mới. Nghệ thuật tương phản trong truyện ngắn quả là sự thành công rực rỡ, tạo điểm nhấn cho tác phẩm nghệ thuật.

Cuối cùng một nghệ thuật nữa thuộc về phong cách tác giả đó là giọng văn tâm tình, thủ thỉ, đậm chất thơ, truyện không có cốt chuyện cụ thể, rõ ràng. Thạch Lam là nhà văn có tâm hồn đa cảm, ông thường viết những chuyện về cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày của con người, bởi vậy nên tác phẩm của ông thường không có cốt truyện rõ ràng. Tưởng rằng điều này sẽ làm cho tác phẩm nhàm chán, đơn điệu nhưng nhờ vào tài năng của Thạch Lam, đó lại là sự thành công mà không phải ai cũng làm được. Những người yêu sự nhẹ nhàng thường tìm đến với văn Thạch Lam bởi chất thơ được trải dài trong tác phẩm, chất thơ đó được thể hiện qua việc miêu tả cảnh vật từng con chữ từng phím đàn, ngân nga, ru lòng người lắng lại: “ chiều, chiều rồi, một chiều êm ả như ru”, “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Ta không thể quên được những câu văn đầy sức gợi: “ đêm tối với Liên quen lắm, Chị không còn sợ nó nữa”, “ sao trên trời vẫn lấp lánh”. Cả phố huyện bây giờ mới thật là hết nao động, chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn”, nó gợi lên trong lòng ta những cảm xúc bâng khuâng, như ta đã hóa thân vào nhân vật liên và đang trải qua từng cung bậc cảm xúc. Văn Thạch Lam cứ âm ỉ, lấn sâu dần, sâu dần, cuối cùng để lại trong lòng ta một khoảng trống vô định, một xúc cảm khó tả. Chính những giá trị nghệ thuật rất riêng trong “ Hai đứa trẻ” đã làm nên sự thành công cho tác phẩm này.

Đánh giá chung về giá trị nghệ thuật của Chữ người tử tù va Hai đứa trẻ

Đều là những tác phẩm có giá trị nghệ thuật đặc sắc, “ Hai đứa trẻ” và “ Chữ Người Tử Tù” đều mang đến cho người đọc những ấn tượng khó phai. Cả hai tác phẩm đều là tác phẩm văn học lãng mạn thời kỳ trước Cách mạng, đều đi sâu diễn biến tâm lí nhân vật và cùng chung nghệ thuật xây dựng sự tương phản giữa Ánh Sáng và Bóng Tối trong tác phẩm. Tuy nhiên, Thạch Lam đi theo lối viết truyện nhẹ nhàng không có cốt truyện còn Nguyễn Tuân xây dựng được tình huống truyện độc đáo, ngôn ngữ không giản dị mộc mạc mà tài hoa, uyên bác. Quả thật: giá trị nghệ thuật là rất quan trọng, bởi vì không có giá trị nghệ thuật thì không thể có tác phẩm nghệ thuật được. Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn chứa trong tâm hồn, là những người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp. Sáng tạo nghệ thuật đặc sắc, nhà văn giúp người đọc hiểu thêm về cuộc sống có những rung cảm sâu sắc ở đời thêm nâng niu và tôn thờ cái đẹp.

Kết luận

Ý kiến của Phạm Văn Đồng như một dấu mốc để độc giả đánh giá sự thành công của tác phẩm thông qua phương diện nghệ thuật. Nhờ sự thành công về nghệ thuật mà hai tác phẩm “ Chữ Người Tử Tù” của Nguyễn Tuân và “ hai đứa trẻ” Thạch Lam trở thành những truyện ngắn nhận được sự yêu quý và trân trọng từ độc giả.

7

Văn mẫu lớp 12 phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Vote
0%
Văn mẫu lớp 12 phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Khi lòng ta đã hóa những con tàu

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Hoàn cảnh lịch sử diễn ra đó là khi cả nước rộn ràng lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây Bắc” để có thể xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc. Lúc bấy giờ có biết bao nhà văn, nhà thơ lúc này đây dường như cũng đã thực hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Trong đó không thể không nhắc đến người nghệ sĩ yêu nước Nguyễn Tuân được ví như một cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Tuân đã sáng tác ra tác phẩm “Người lái đò sông Đà” để có thể thể hiện được rõ nét và vô cùng sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.

Có thể nói khi đến với nghệ thuật, thì chính đối với Nguyễn Tuân là đến với sự tìm tòi và sáng tạo, bởi vì chính nhà văn là người sáng tạo lại thế giới. Tác giả Nguyễn Tuân sợ mình của ngày hôm nay dường như cũng giống với mình của ngày hôm qua, ông như sợ sự trùng lặp tầm thường. Cho nên ông đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài cho tác phẩm, phải đi thì mới có thể viết lên các tác phẩm có giá trị được.

Hình ảnh con sông Đà cũng được nhiều nhà văn, nhà thơ khắc họa, nhưng phải đến với Nguyễn Tuân thì con sông Đà mới hiện ra chân thực và vô cùng cảm động. Với ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình biết bao nhiêu. Con sông Đà như còn mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một, tất cả như cũng có thể cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…” không dừng lại ở đó thì nước sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ…đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”. Nguyễn Tuân còn miêu tả có khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhổm cả dậy để vồ lấy”… Thế nhưng chính cái hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở sông Đà. Nhà văn còn miêu tả nổi bật lên được hình ảnh con sông ở những đoạn xuôi dòng, không những thế thì ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, thật uyển chuyển, mang đậm chất thơ với đoạn miêu tả: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…

Chính trên con sông ấy, hình ảnh ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Khi đứng trong một cuộc chiến đấu “một mất, một còn” với những cái thác nước, tác giả Nguyễn Tuân lúc này cũng đã cho ta thấy được cái tài hoa, sự trí dũng tuyệt vời của ông lái đò. Hình ảnh của người lái đò sông Đà cũng chính là một hiện thân của tác giả, ông như cũng chỉ thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội mà dường như cũng không ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả…

Sử dụng giọng văn thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của cùng một sự vật là một thành công của Nguyễn Tuân. Hình ảnh con sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, đồng thời con sông Đà cũng chính là một kẻ thù nhưng lại là một cố nhân. Chính dưới ngòi bút tác giả, con sông không chết cứng mà vận động một cách mạnh mẽ, thêm với đó có một sự sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tất cả như đã tác động mạnh vào giác quan người đọc. Hình ảnh của ông lái đò cũng thế cũng xuất hiện một cách sinh động, thể hiện một sự rõ nét và sắc sảo… Đối với nhà văn Nguyễn Tuân thì “đã là văn thì trước hết phải là văn”. Đầu tiên đã là văn phải đẹp, phải trau chuốt. Và đối với cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả Nguyễn Tuân như đứng trên toàn bộ tác phẩm. Hình ảnh con người và sự vật lúc này đây cũng lại thông qua ngòi bút Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ biết bao nhiêu.

Qua bài tùy bút thì nét đẹp sông Đà được đánh giá chính là một công trình dày công sáng tạo của tạo hóa. Con sông Đà như cũng vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng dấp đến màu sắc, với những câu văn miêu tả dòng nước, tốc độ chảy của con sông Đà mới đẹp làm sao. Đó cũng chính là nguồn cảm hứng của bao nhiêu văn, nghệ sĩ. Nước của con sông Đà khi đến mùa xuân dòng xanh ngọc bích, còn với mùa thu thì nước sông Đà dường như cứ lừ lừ chín đỏ giống như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Hình ảnh con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên mà nó cũng thật gợi cảm. Con sông Đà như cũng đã gây nên nỗi nhớ da diết cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Khi gặp lại sông Đà, tác giả Nguyễn Tuân như cũng cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố nhân mà phải thốt lên: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.

Cũng chính trong cái đẹp đẽ, một cái đẹp như thật thơ mộng của đất trời thiên nhiên, hình ảnh con người xuất hiện như một nghệ sĩ tài hoa. Ông lái đò sông Đà điêu luyện điều khiển con thuyền một cách chủ động và thuần thục nhất giống như một người nghệ sĩ. Hình ảnh ông lái đò bao giờ cũng đứng trên thác sóng dữ dội mà bắt chúng phải quy hàng. Với đoạn văn miêu tả cảnh ông lái đò vượt thác thật đẹp: “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”. Nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn violon thật hay, thật nhịp nhàng không chệch một nốt.

Có thể nói tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển lớn trong phong cách Nguyễn Tuân. Ở trước cách mạng, nhà văn Nguyễn Tuân lúc đó cũng thường đi tìm đề tài cho tác phẩm bằng cách quay về với quá khứ. Nguyễn Tuân luôn viết, tìm hiểu với một thời vang bóng đã qua. Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy được nhân vật của Nguyễn Tuân là những Huấn Cao, nhân vật quản ngục mang tâm trạng của kẻ có phí phách “nào biết trên đầu có ai”. Tất cả các nhân vật “vang bóng một thời” là những vị anh hùng ngang dọc, họ đều khinh bạc đến điều. Thế nhưng sau cách mạng thì nhà văn Nguyễn Tuân đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động hết sức bình dị, gần gũi nhất ở ngay chính trong các công việc bình thường mà họ đang làm.

Với tác phẩm “Người lái đò sông Đà” thì người lái xuất hiện trước mắt chúng ta như những người nghệ sĩ tài hoa có một trí dũng song toàn. Nguyễn Tuân cũng đã miêu tả hình ảnh người đời thường lái đò, Thêm với đó là Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, sự cảm phục những con người góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính trong việc tái hiện lại hình ảnh sông núi Tây Bắc và thêm với đó là hình ảnh của người lái đò, tác giả Nguyễn Tuân đã kết hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau trong tác phẩm của chính mình như: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc… Tất cả mọi vật, mọi sự như hiện ra trước mắt ta sừng sững và sinh động biết bao nhiêu. Miêu tả đoạn “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Con sông Đà còn có âm thanh sóng vỗ vào đá, vào mạn thuyền thế rồi những con sóng dậy lên thành thác núi. Đọc tác phẩm độc giả giống như đang tận mắt chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, đồng thời cũng lại chứng kiến từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và cả những đoạn sông êm ả, trữ tình biết bao nhiêu.

Chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta lại coi Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà văn của sự tài hoa và uyên bác. Vì vốn cũng như nguồn tri thức khổng lồ của ông về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… thật lớn. Tất cả các kiến thức này cũng thường được tuôn trào dào dạt trong tác phẩm của ông. Thể hiện rất rõ trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” thì Nguyễn Tuân cũng đã đưa ta đến với một miền quê hương Tổ quốc. Vị trí sông Đà, rồi lịch sử sông Đà đã được Nguyễn Tuân giới thiệu bằng những trang viết đầy tính uyên bác, tài hoa.

Nói riêng về khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của tác giả Nguyễn Tuân thật phong phú. Cứ mỗi từ ngữ khi đưa vào câu văn dường như đã được chắt lọc, gọt giũa cẩn thận. Nguyễn Tuân như cũng đã khéo sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo. Giọng văn của Nguyễn Tuân đôi khi có vẻ thô kệch, nó dường như cũng đã dàn trải nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Tác giả không chỉ viết lên những trang văn tài hoa mà còn khiến cho người đọc cảm nhận được âm hưởng trong mỗi đoạn văn.

Tác giả đã viết về người lái đò sông Đà, cũng như viết về một vùng quê hương Tổ quốc thì nhà văn Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với người lao động và thêm với đó là tình yêu thiên nhiên đất nước. Thực sự chính văn chương của ông đã mang đến cho chúng ta một vẻ đẹp tri thức tài hoa, uyên bác.

8

Văn mẫu lớp 12 phân tích tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ

Vote
0%
Văn mẫu lớp 12 phân tích tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ

Tô Hoài là cây bút văn xuôi hàng đầu của văn học Việt Nam hiện đại, ông có vốn sống, vốn hiểu biết sâu sắc về con người và phong tục văn hóa của vùng đất Tây Bắc. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc của Tô Hoài khi viết về cuộc sống và số phận của cặp vợ chồng người H’Mông dưới ách thống trị của phong kiến miền núi trước năm 1945. Tác phẩm không chỉ hướng đến phản ánh hiện thực về đời sống của người dân nghèo mà còn mang giá trị nhân văn sâu sắc khi hướng về những giá trị tốt đẹp, sức sống mãnh liệt bên trong con người, điều này được thể hiện rõ nét qua chi tiết Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ.

Mị từng là cô gái xinh đẹp, có tàu thổi sáo được nhiều chàng trai trong làng theo đuổi “trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị”. Xinh đẹp, trẻ trung, yêu đời lại là người yêu tự do lẽ ra Mị xứng đáng được sống hạnh phúc nhưng cuộc đời của Mị lại là một chuỗi những đau khổ, bi kịch khi buộc phải làm con dâu gạt nợ cho gia đình thống lí.

Từ khi trở thành con dâu gạt nợ cho gia đình thống lí, Mị đã trở nên lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, tê liệt khả năng phản ứng và sống cam chịu đến mức đáng thương. Sức sống bên trong Mị bị tê liệt nhưng không bị lụi tắt hoàn toàn bởi chỉ cần một cơn gió thổi đến, sức sống ấy lại bùng cháy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Trong đêm tình mùa xuân, sức sống trong Mị tuy đã trỗi dậy nhưng không đủ để Mị cứu mình. Phải đến đêm cắt trói cứu A Phủ sức sống tiềm tàng ấy mới thực sự được thức tỉnh.

Trong đêm hơ tay thổi lửa, Mị đã chứng kiến cảnh A Phủ bị trói đứng trong sân nhà Pá Tra. Cảnh trói người nhà thống lí đã trở nên quen thuộc đến mức Mị tâm hồn bị tê liệt của Mị vô cảm, rửng rưng trước sự xuất hiện của A Phủ. Khi ấy, giọt nước mắt của A Phủ đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức và làm cho sức sống trong Mị bùng cháy dữ dội.

Nhìn thấy tình cảnh của A Phủ, Mị nhớ về những kí ức đau khổ khi bị A Sử trói, từ thương mình Mị thương xót, đồng cảm cho hoàn cảnh của A Phủ. Mị từ cõi vô thức dần thức tỉnh phần ý thức bị tê liệt bấy lâu nay, Mị nhận thức sâu sắc hơn bao giờ hết về tội ác của cha con thống lí “chúng trói người ta tới chết”. Đồng cảm với số phận đau khổ của A Phủ cùng sự bất bình với tội ác của cha con thống lí, Mị đã có hành động táo bạo khi cắt dây cởi trói cho A Phủ.

Phải thấy rằng hành động này vô cùng dứt khoát, táo bạo, là hiện thân cho sức sống mạnh mẽ thức tỉnh trong Mị bởi khi cắt dây có nghĩa Mị đã chấp nhận đối đầu không chỉ cường quyền mà cả thần quyền là con ma nhà thống lí. Sau khi cứu người, Mị bỗng sợ hãi vụt chạy theo A Phủ, đây cũng là khi sức sống, khát khao sống bộc lộ rõ nhất và cũng chính tình thương và khát khao sống đã cứu thoát A Phủ và cả bản thân của Mị.

Chi tiết Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ không chỉ lên án sâu sắc thế lực phong kiến miền núi đã tước đoạt quyền sống và hạnh phúc của con người mà còn thể hiện sự đồng cảm của nhà văn Tô Hoài đối với những con người nghèo khổ, bất hạnh, những nạn nhân đáng thương trong xã hội ấy.

Miêu tả sự thức tỉnh của sức sống bên trong Mị, nhà văn Tô Hoài cũng đã chỉ ra con đường để những người dân nghèo khổ tự giải thoát cho cuộc đời mình, đó là việc dũng cảm đứng lên chống cường quyền, thần quyền, tham gia cách mạng để hướng đến cuộc sống tốt đẹp. Đây chính là những thông điệp mới mẻ của Tô Hoài được thể hiện trong tác phẩm này.

9

Văn mẫu lớp 12 phân tích giá trị hiện thực trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa

Vote
0%
Văn mẫu lớp 12 phân tích giá trị hiện thực trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa

Có người từng nói, đại ý, là một nhà văn cần phải có đôi mắt mở to, khắc khoải, bồn chồn đầy nghiêm khắc. Là một nhà văn dám và đặt ngòi bút đi sâu vào đời sống con người , Nguyễn Minh Châu đã viết lên một câu chuyện giàu tính nhân văn – Chiếc thuyền ngoài xa. Và gửi gắm vào đó chất hiện thực, nhân đạo sâu sắc.

Từ đầu thập kỉ 80 trở đi, Nguyễn Minh Châu nổi lên nhà một nhà văn tiên phong trong sự nghiệp đổi mới nền văn xuôi Việt Nam. Chất khai thác tác phẩm của ông đã không còn đi vào những hình tượng con người với vẻ đẹp lí tưởng. Mà là con người mang đậm chất hiện thực đời sống cá nhân và mang tính khái quát cao.

Đọc tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, ta có thể hình dung ra dễ dàng quá trình vận động tư tưởng tình cảm, cũng như những sự tìm tòi tiếp cận đời sống và sáng tạo của ông. Nguyễn Minh Châu bằng con mắt của mình đã hòa vào đời sống tinh thần chung, đi sâu khắc họa và phơi bày những viên ngọc vẫn sáng lấp lánh bên trong con người họ. Đã khẳng định một tính chất “bất khả chiến bại” của cái đẹp tinh thần, của cái đẹp tinh khôi thuần khiết, của cái thiện, cái chân, cái mĩ.

Trong câu chuyện của mình, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm tư tưởng bằng việc mở đầu bằng góc nhìn của một người nghệ sĩ, khi trước cũng từng là người lính, giờ trở lại nơi đây, chiến trường cũ của mình. Tại đây Phùng đã nhìn thấy những cảnh tượng, còn ác độc và tàn bạo hơn cả những gì anh đã từng trông thấy trong chiến tranh.

Đó là một cảnh tượng “trớ trêu và bất ngờ”, có ai ngờ phía sau một khoảnh khắc đẹp vô ngần của tạo hóa, một cảnh tượng được xem là “đắt trời cho như vậy” đã mang đến một trong những điều vô cùng tuyệt diệu cho Phùng. Nhưng, chính anh cũng không ngờ, phía sau một điều tưởng như hoàn mĩ, lại bước ra từ đó hình ảnh mang tính chất tàn độc của thói vũ phu và bạo lực trong gia đình. Đó chính là cách mang tình huống ý nghĩa bất ngờ, có ý nghĩa và tính chất khám phá đời sống. Đó là hình ảnh mang tính sự thật, lúc này ta đều cùng mang chung một câu hỏi? Vì sao người đàn ông đó lại có thói vũ phu như vậy? Và tại sao người đàn bà hàng chài kia lại nhẫn nhục, cúi đầu chịu những vết roi vọt quá sức kinh hãi và tàn độc của gã đàn ông đó.

Lần Phùng và Đẩu nghe được câu chuyện của người đàn bà đó, cũng là lúc bí mật chính thức bật mí. Phía sau tấm rèm, một hiện thực được miêu tả như bước ra từ trang truyện cổ tích. Nhưng phía sau lại cả một thế giới đầy khó khăn và thử thách. Mà con người ta chỉ biết chọn cách nhẫn nhục để mang lại hạnh phúc cho cuộc sống chính mình.

Vì lo lắng cho miếng cơm manh áo của các con, có lần còn phải phải ăn “xương rồng luộc chấm muối” nên người đàn bà đã luôn phải nhẫn nhịn những đòn roi của chồng. Phía sau đó là một hoàn cảnh khó khăn, đương đầu với nghề chài lưới lênh đênh và sóng to gió lớn trên biển, vì quá khó khăn nên hắn mang vợ mình ra để đánh đập cho bớt khổ. Hiểu điều đó, nên “ba ngày một trận nhẹ năm ngày một trận nặng” trút xuống tấm lưng yếu ớt và cô độc của người đàn bà. Đằng sau cảnh tượng ấy là một trái tim nhẫn nhục và hi sinh, luôn hạnh phúc khi chỉ cần thấy các con mình no đủ…

Nếu không đi sâu bóc trần, ta chỉ còn thấy được những gì trần trụi đơn giản của tạo hóa. Con người là một trong những sinh vật khó hiểu nhất, vì thế, đằng sau nụ cười còn có thể là một giọt nước mắt. Là một nhà văn Nguyễn Minh Châu đã ý thức điều này và làm nổi bật lên chất hiện thực trong văn của mình.

10

Văn mẫu lớp 12 nghị luận về nạn bạo hành gia đình trong Chiếc thuyền ngoài xa

Vote
100%
Văn mẫu lớp 12 nghị luận về nạn bạo hành gia đình trong Chiếc thuyền ngoài xa

Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng phát biểu: “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường…”. Quan điểm nghệ thuật đó đã được thể hiện thông qua tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, một tác phẩm với giá trị nhân đạo sâu sắc. Trong đó, vấn đề bạo hành gia đình là một vấn đề nổi cộm trong tác phẩm, được tái hiện một cách đầy đau xót và nhức nhối.

Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” viết về những trải nghiệm của Phùng trong chuyến đi thực tế ở một vùng biển miền Trung. Ở đây, anh đã ngỡ ngàng nhận ra khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc sống khi chứng kiến cảnh người đàn bà bị chồng bạo hành và khi lắng nghe những lời tâm sự của bà về cuộc đời.

Bạo hành gia đình là hành động hành hạ về tinh thần lẫn thể xác giữa những thành viên trong gia đình. Đó là vấn đề nghiêm trọng từ xưa đến nay, diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng không phải ai cũng có can đảm lên tiếng chống lại nó.

Cảnh tượng bạo hành được tái hiện trong tác phẩm thông qua những hình ảnh khi người chồng đánh vợ một cách thô bạo: “dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, “vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két” vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”

Đứa con thương mẹ đã chạy ra cứu bằng cách đánh trả lại cha. Nó “rướn thẳng người vụng chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng” của người đàn ông, nhưng lão đã “dang thẳng cánh tay cho thằng bé hai cái tát”

Người mẹ cam chịu, nhẫn nhịn khi bị chồng đánh, giờ đây lại ứng xử lạ lùng: miệng mếu máo gọi con rồi “ôm chầm lấy nó, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”, rồi “buông đứa trẻ thật nhanh, đuổi theo người đàn ông”.

Có thể thấy được rằng, bạo hành gia đình được biểu hiện thông qua hành động đánh đập vợ con, đe dọa, sử dụng những từ ngữ bạo lực nhằm trút hết nỗi căm giận của người đàn ông. Và cảm xúc, hành động của người mẹ cùng đứa con cũng tiêu biểu cho nhiều gia đình trong thực tế đời sống, khi mà người con thì sinh ra uất hận với cha, còn người vợ thì cam chịu, nhẫn nhịn. Tuy vậy, bạo hành gia đình ở cuộc sống ngoài kia lại có nhiều gương mặt, có nhiều hình hài hơn, và thậm chí còn tàn nhẫn hơn. Đó không chỉ là tra tấn về thể xác, mà còn là tra tấn về mặt tinh thần. Những sự lạnh nhạt, lời nói tựa dao găm còn gây tổn thương hơn nhiều những vết sẹo trên cơ thể. Bạo hành gia đình có thể xảy ra giữa vợ và chồng, cha mẹ với con cái... Nó diễn ra muôn hình vạn trạng, nhưng đều gây tổn thương cho nạn nhân.

Vậy, nguyên nhân của bạo lực gia đình đến từ đâu? Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, người đàn bà đã tâm sự: “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối...”. Theo bà, tất cả là vì “khổ”, vì nghèo đói. Còn trong cuộc sống, nó bao gồm cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân khách quan có thể là vì người bạo hành được sinh trưởng trong một môi trường có vấn đề, họ chịu nhiều tổn thương từ thuở bé, dẫn đến tính cách bạo lực. Hoặc cũng có thể là vì hoàn cảnh sống quá khổ, khiến bạo hành như một cách để họ trút nỗi tức giận sau khi uống rượu, quên đi thực tại. Nhưng quan trọng hơn cả là ở lý do chủ quan, vì bản thân người bạo hành không thể làm chủ được mình, họ ích kỷ, họ quên đi cảm nhận của người khác. Họ đổ lỗi, trốn tránh thực tại, và từ đó họ làm tổn thương cả gia đình.

Bạo hành gia đình dẫn đến nhiều hậu quả tồi tệ, nó khiến cho bao gia đình tan vỡ, khiến cho những người vợ, những đứa con... bị tổn thương, chịu những vết sẹo trong tâm hồn. Trong tác phẩm, Phác là đứa con của gia đình người đàn bà hàng chài, cậu bé thương mẹ mình vô cùng, nhưng không ai có thể biết trước rằng liệu cậu có trở thành một phiên bản nhỏ của cha mình hay không. Cậu có thể sẽ ám ảnh đến suốt cuộc đời. Nghiên cứu cho thấy, những vụ tự tử xảy ra đến phần nhiều từ lý do gia đình, khi mà nạn nhân phải gánh chịu sự bạo hành tinh thần lẫn thể xác từ các thành viên trong gia đình.

Vậy, phải làm thế nào để có thể hạn chế được nạn bạo hành gia đình? Trong tác phẩm, dù Phùng và Đẩu có thuyết phục thế nào, người đàn bà cũng không chịu ly dị. Từ đó, ta thấy được rằng, nếu muốn cho bất cứ lời khuyên, sự vận động, lời kêu gọi nào, chúng ta cũng đều phải thấu hiểu nỗi lòng của họ. Trước tiên, cần giáo dục mọi người ngay từ khi còn ngồi trong nhà trường. Quan trọng hơn cả, là nhà nước cần đưa ra những biện pháp, nâng cao môi trường sống, chất lượng sống của nhân dân. Cải thiện được cuộc sống của nhân dân, cũng là ngăn chặn nạn bạo hành gia đình. Đối với cá nhân, mỗi người cần có sự bình tĩnh, nhìn nhận bản thân, cố gắng không nói những lời tổn thương, gây ra những hành động tàn bạo đối với các thành viên trong gia đình.

Có thể nói, Nguyễn Minh Châu là nhà văn không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của nhà văn. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã đặt ra một vấn đề nghiêm trọng trong xã hội: nạn bạo hành gia đình. Tác phẩm chính là tiếng chuông cảnh tỉnh cho mỗi người trong chúng ta, để cùng nhau xóa bỏ nạn bạo hành gia đình.