Top 50 bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất giúp học sinh trau dồi cách hành văn
- 2,379 views
- 1 likes
Đề văn, bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất là cái khuôn sẵn có bổ trợ học sinh khối 12 trong việc tinh chỉnh lối viết văn, hành văn, thi cử lẫn tham dự những cuộc thi có dính đến văn chương khác nhau. Văn mẫu lớp 12 phải đạt tới độ giúp học sinh thông suốt, trình bày câu cú chỉn chu, lời lẽ liền mạch, bám sâu và sát vấn đề đưa ra. Văn mẫu lớp 12 trọng yếu xoay vần quanh dạng nghị luận (văn học / xã hội), phân tích rốt ráo một khía cạnh nào đó, đưa nhiều dẫn chứng hay để học sinh 12 ngấm nhuần trọn vẹn. Dưới đây topshare xin gửi tới bài viết top bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất đủ sức làm tài liệu trên hành trình học văn của các em. Xem ngay nhé!
11
Văn mẫu lớp 12 phân tích hình tượng con sông Đà trong tùy bút Người lái đò sông Đà

Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Tây Bắc đã trở thành vùng đất hứa của thi ca nghệ thuật muôn đời. Đặc biệt trong những năm miền Bắc đang tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội Nhiều nhà thơ nhà văn đã đến với nơi đây Để tìm cho mình Những nguồn cảm hứng mới trong đó có Nguyễn tuân. Ông đã thăng hoa trên chính mảnh đất này với tập "Tùy bút Sông Đà"với linh hồn là bút chì người lái đò Sông Đà. Bài văn Được dệt nên bằng thứ ngôn ngữ điêu luyện, Những đoạn tả đèo cao vực sâu, thác nước dữ dội hòa quyện kết hợp cùng về đẹp thiên nhiên hùng vĩ thơ mộng trữ tình. Và lấp lánh giữa bao vẻ đẹp đó chính là hình ảnh con Sông Đà mang nét hung bạo, dữ dội mà hùng vĩ, đầy cá tính.
Vẻ đẹp sông Đà trước tiên được thể hiện ở dòng chảy của con Sông Đà. Như lời đề từ ngay phần mở đầu bài văn "Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc Bắc lưu". Mọi con sông đều chảy về hướng Đông, chỉ riêng con sông Đà là theo hướng Bắc mà chảy. Chính đặc điểm thú vị này đã tạo nên nét cá tính rất riêng, rất ngang ngược và đầy độc đáo cho Đà giang.
Vẻ hùng vĩ, dữ dội của dòng sông Đà còn biểu hiện ở những vách đá đầy hiểm trở và đáng sợ đối với con người. Tác giả miêu tả cụ thể, sống động với nhiều chi tiết đặc sắc những vách đá hẹp và cao chót vót "dựng vách thành, chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời"gợi cảm giác âm u, lạnh lẽo đến mức "đang mùa hè mà cũng thấy lạnh".
Qua cách miêu tả của tác giả người đọc Được truyền một cảm giác chân thực Đến mức như đang đứng ở ngay trước mặt con Sông Đà ấy, Dường như chính họ cũng cảm thấy sờn sợn và sợ hãi khi phải qua quãng ấy: "vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu"rồi "cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào.. vừa tắt phụt đèn điện". Bằng nghệ thuật miêu tả cùng các biện pháp tu từ như nhân hóa, so sánh liên tưởng tưởng tượng, Nguyễn tuân Đã khiến người đọc cảm nhận rõ hơn bao giờ hết sự nguy hiểm của vách đá Sông Đà
Con Sông Đà với vẻ đẹp hùng vĩ được gợi lên qua những nét miêu tả ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng dài hàng cây số nước xô đá đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm". Câu văn dài, nhiều về các vế móc xích nối lên nhau đặc biệt nhịp thơ nhanh mạnh kết hợp với các từ động từ mạnh, Từ láy, Nghệ thuật điệp "xô ", "cuồn cuộn “, "gùn ghè"đã đặc tả bức tranh sông nước quả thật vô cùng chân thực gợi lên một cuộc truy đuổi dữ dội, quyết liệt của sóng nước Sông Đà hòng cướp đi sinh mạng của bao con người Sông Đà đã phát huy hết sức mạnh của mình nhằm tấn công con người.
Đặc biệt nét hung bạo dữ dội của con Sông Đà được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết ở hình ảnh những cái hút nước xoáy tít cả đáy với biện pháp so sánh kết hợp với trí tưởng tượng phong phú của mình, Nguyễn Tuân Đã có những phát hiện vô cùng thú vị khi miêu tả những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát.
Đó là "Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông", Âm thanh của nước thì được nhân hoá Lên thành "thở và kêu như cửa cống cái bị sặc". Đặc biệt cách dùng từ độc đáo "xoáy tít đáy"đã gợi tả một cách cụ thể, ấn tượng những hút nước sâu và nguy hiểm, mặt sông có những vòng xoáy nhanh và mạnh. Cái cảm giác đầy gay cấn, hồi hộp khi trèo qua quãng sông ấy "y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh"xuất phát từ những liên tưởng thật độc đáo và thú vị. Tác giả đặt mình vào vị trí của con người trên thuyền khi đi qua quãng ấy, sự nguy hiểm còn được Minh họa bằng những dẫn chứng rất sinh động có những thuyền đã bị cái hút đổ xuống thuyền trồng ngay cây chuối ngược … tan xác ở khuỷnh sông dưới.
Để có được những góc nhìn Đầy đủ và đa chiều, tác giả đã mượn góc nhìn điện ảnh để chuyển lại cho người đọc những cảm nhận Vô cùng chân thực về con Sông Đà, nguyễn tuân hình dung về một anh quay phim nào dám ngồi vào một thuyền "rồi cho cả thuyền cả mình cầm máy quay xuống đây cái hồ Sông Đà "rồi nhìn ngược lên"làm cho hình ảnh về những cái hút hiện lên rõ nét như miệng con thuỷ quái khổng lồ cố nuốt chửng bất cứ thứ gì đi qua đó. Hình ảnh những cái hút nước được miêu tả cụ thể, tỉ mỉ từ hình dáng, màu sắc, âm thanh, sự vận động dữ dội. Bằng vốn sống phong phú và trí tưởng tượng sáng tạo, Nguyễn Tuân đã tô đậm mức độ khủng khiếp của những cái hút qua hàng loạt các hình ảnh so sánh, liên tưởng độc đáo vừa giúp người đọc hình dung về những cái hút như những hung thần tàn bạo vừa khiến họ cảm thấy ghê sợ, khó bứt thoát khỏi những ghê người mà ma lực ngôn từ Nguyễn Tuân đã truyền đến cho họ.
Nét hoang sơ của con sông Đà đã được Nguyễn Tuân khắc họa qua những nét đặc tả về thác đá. Âm thanh thác nước được cảm nhận từ xa tới gần với thủ pháp nhân hoá "oán trách", "van xin", "khiêu khích", "giọng găng mà chế nhạo"kết hợp với phép so sánh "rống lên như tiếng 1 ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa… gầm thét với đàn trâu da cháy bùm bùm". Dòng thác dường như đã mở hết âm lượng, tiếng thét của thiên nhiên bừng bừng, phấn khích, mạnh mẽ và man dại. Từ những âm thanh đó, tác giả giúp người đọc cảm nhận được tính cách hung dữ y như 1 con thuỷ quái khổng lồ với những âm thanh cuồng loạn, khiêu khích.
Đặc biệt tác giả sử dụng phép so sánh với những hình ảnh ở thế hoàn toàn đối lập. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, lấy trâu mộng để tả thác nước như réo, oán trách, van xin… Cách miêu tả của tác giả rất độc đáo nhờ thủ pháp so sánh kết hợp với lối viết riêng đã gợi ra nhiều trường liên tưởng, tưởng tượng phong phú. Nhờ đó, ta thấy được, Nguyễn Tuân quả là 1 nhà văn có tầm.
Qua thủ pháp nhân hoá, Nguyễn Tuân đã thổi hồn cho đá, biến chúng thành những gương mặt với hành động rất “tướng"với chân dung, diện mạo "ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó", hình dáng, phong thái thì "bệ vệ oai phong lẫm liệt"rồi còn "hất hàm", "thách thức", mỗi lần xuất hiện bóng dáng cái thuyền nào là chúng bèn "nhổm cả dậy", "vồ", "chặn ngang", “đánh tan","tiêu diệt"cho bằng được cái thuyền. Thủ pháp nhân hóa đã phát huy tính độ tác dụng để làm nổi bật tính cách đầy hung bạo độc ác yêu chiến. Hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn với nhiệm vụ tiêu diệt con người. Những hòn đảo ấy trong cảm nhận của Nguyễn tuân là những tên chiến binh với nhiệm vụ khác nhau nhằm giúp con chuyển vào để tiêu diệt. Chỉ vài dòng đặc tả thôi cũng đủ khiến nơi đây trở thành nỗi sợ khủng khiếp đối với những kẻ yếu bóng vía.
Đá kết hợp với nước bày binh bố trận thành 3 tuyến tấn công: hàng tiền vệ, tuyến giữa, boongke chìm và pháo đài nổi. Sóng nước hò la thanh viện Để uy hiếp tinh thần con người. Sông Đà đã huy động sức mạnh tổng lực của mình "ùa vào mà bẻ gãy cán chèo", "Sông nước như thể quân liều mạng", đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền", "Đội cả thuyền lên bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng ông đò".
Qua những dòng văn miêu tả về trận thạch thuỷ sông Đà, Nguyễn Tuân lại một lần nữa làm người đọc rùng mình trước tâm địa hiểm độc, đáng sợ của con sông Đà.
Binh pháp thần sông thần đá đầy bí hiểm, thạch trận được bố trí thành ba trùng vi. Ở các trùng vi nhiều cửa tử mà chỉ có một cửa sinh và đặc biệt vị trí của sinh thường xuyên thay đổi. Đọc đến đây, ta nghĩ ngay đến trận đồ bát quái của Khổng Minh khi xưa chỉ có điều trận địa nay đã chuyển xuống mặt nước Sông Đà.
Nguyễn Tuân sử dụng hàng loạt thuật ngữ quân sự như binh pháp, pháo đài, cửa sinh cửa tử, đánh khuýp quật vu hồi, mai phục, trùng vi thạch trận, hậu vệ, boong-ke chìm, pháo đài nổi…. tạo không khí căng thẳng, kịch tính như 1 trận chiến thực sự giữa con người và thiên nhiên đã diễn ra hàng bao thế kỷ.
Con Sông Đà không chỉ mang vẻ đẹp hung bạo dữ dằn kẻ thù số một của con người mà con sông ấy còn hiện lên với một bức chân dung hoàn toàn đối lập, một nét vẽ tương phản cùng tồn tại trong một chỉnh thể, chính vì vậy mà nét đẹp của nó càng trở nên độc đáo ấn tượng, hấp dẫn. Vẻ đẹp trữ tình của con Sông Đà hiện lên dưới nhiều khía cạnh được Nguyễn Tuân cảm nhận theo những góc nhìn khác nhau.
Con Sông Đà từ trên cao nhìn xuống với hình dáng thướt tha và màu sắc biến đổi vô cùng phong phú. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống, trông con Sông Đà như “cái dây thừng ngoằn ngoèo… tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Điệp từ tuôn dài cùng với Nhịp thơ nhẹ nhàng như ru như ngân tạo nên về được Lững lờ thướt tha,đầy chất thơ cho con Sông Đà. Phép so sánh con sông như một áng tóc trữ tình là một nét nghệ thuật độc đáo mới mẻ. Chính lối so sánh giàu chất thơ, chất hoạ này vừa giúp phô ra vẻ đẹp dịu dàng đằm thắm kiều diễm kiêu sa vừa bộc lộ được chất phong tình hào hoa của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân. Qua phép so sánh, sông Đà mang dáng vẻ của 1 người thiếu nữ đầy xuân sắc đang buông hờ mái tóc làm duyên giữa cánh rừng hoa bồng bềnh màu khói. Bao nhiêu vẻ đẹp quyến rũ, thơ mộng của đất trời bỗng ùa về thức dậy trong những câu văn của Nguyễn Tuân.
Đà Giang hiện lên với đủ màu sắc biến hoá theo từng mùa. Mùa xuân sông xanh ngọc bích mùa thu nước sông lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Tác giả còn so sánh màu xanh ngọc bích của Sông Đà Với màu xanh cánh hiện của sông Gâm sông lô. Đồng thời, nhà văn còn đặt sông Đà trong dòng chảy lịch sử, ông bày tỏ sự bất bình trước cách gọi tên đầy lếu láo của bọn thực dân gọi Sông Đà là sông đen. Đoạn văn không chỉ thể hiện những cảm nhận tinh tế của 1 ngòi bút tài hoa mà còn bộc lộ được 1 cái tôi đầy uyên bác của nhà văn.
Con sông Đà dưới cái nhìn của 1 người rừng lâu ngày trở nên đầy mới mẻ và gợi cảm. Với Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như 1 “cố nhân". 2 chữ “cố nhân"vang lên cùng biết bao tình cảm trìu mến, niềm xúc động của tác giả khi gặp lại sông Đà đã cho thấy mối quan hệ gắn bó vô cùng sâu nặng, tâm tình, tri kỉ.
Khoảnh khắc mà tác giả phát hiện vẻ đẹp cổ kính của dòng sông, mặt sông loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt, sáng lóe lên 1 màu nắng tháng 3 Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu"( Lý Bạch ). Dòng sông như đang chảy về từ quá khứ xa xưa mang vẻ đẹp cổ kính như những câu thơ của tiền nhân. Bờ bãi sông Đà ngập tràn chuồn chuồn, bươm bướm, dệt nên 1 bức tranh rực rỡ sắc màu, tô điểm thêm cho vẻ đẹp dòng sông.
Bên cạnh việc miêu tả dòng sông, nhà văn còn trực tiếp giãi bày, bộc lộ niềm xúc động và hạnh phúc của mình khi gặp lại cố nhân. Những câu văn đầy tính nhạc và cảm xúc: “Chao ôi, trông dòng sông vui như thấy nắng giòn tan sau khi kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Thán từ “chao ôi"mở đầu câu thơ thể hiện bao niềm xúc động ngỡ ngàng, trầm trồ,đầy hân hoan mà "đằm đằm ấm ấm "của tác giả khi gặp lại người "cố nhân "ấy. Cách dùng từ và diễn đạt mới mẻ, đầy ấn tượng "đằm đằm ấm ấm". Nguyễn tuân với góc nhìn của người ngồi trên thuyền thả trôi trên sông đã cảm nhận được đầy đủ vẻ đẹp thơ mộng hoang sơ, tĩnh lặng nhưng đầy sức sống của đà Giang. Câu văn "Thuyền tôi trôi trên sông Đà"là 1 câu toàn thanh bằng gợi âm điệu nhẹ nhàng dịp trôi êm ả, khoan thai của con thuyền đồng thời gợi hình ảnh con người thoải mái khoan khoái, tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên.
Điệp từ lặng từ được lập lại hai lần diễn tả sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối thậm chí là Tịnh không một bóng người. Sự tĩnh lặng dường như đưa ta trở về quá khứ đến đời lý đời trên đời lê, Đó là một vẻ đẹp cổ kính hoang sơ như một bờ tiền sử và hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Đặc biệt tác giả còn sử dụng nghệ thuật lấy động tả tính, từ những âm thanh trong tâm tưởng như tiếng còi súp lê của một chuyến xe lửa cho đến âm thanh của hiện tại tiền cả đất nước sông, tất cả đều có phần gợi ra một không gian được bao phủ bởi một sự tĩnh lặng đến tuyệt đối.
Vẻ hoang dại, mộng mơ được thể hiện đầy ấn tượng qua hình ảnh “hoang dại như 1 bờ tiền sử", “hồn nhiên như 1 nỗi niềm cổ tích tuổi xưa", thường người ta so sánh cái trừu tượng với cái cụ thể, cái lạ với cái quen vậy mà ở đây, Nguyễn Tuân đã làm ngược lại. Qua cách so sánh này, tác giả vừa vẽ nên bức tranh sông Đà hoang sơ, thơ mộng vừa thể hiện được tình cảm vô cùng trìu mến và thân thương mà ông dành cho cô gái sông Đà. Hình ảnh con yêu thơ ngộ lần đầu nhung khỏi ai có xương đã tô thêm nét thơ mộng cho cảnh dòng sông
Hình ảnh những nương ngô nhú lên mấy là ngô non đầu mùa rồi là cỏ gianh ra những nõn búp, "Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi"gửi hình ảnh một con Sông Đà thoát ra khỏi cuộc sống nhiều bề lắng đọng bâng khuâng cùng với đó tiếng còi trong tâm tưởng của tác giả diễn tả khát khao của con người hứa hẹn về một tương lai giàu tiềm năng du lịch của Tây Bắc
Nguyễn tuân đã miêu tả con Sông Đà vô cùng ấn tượng với những đặc điểm và tính chất đối nghịch vừa hùng vĩ hung bạo lại kết hợp với nét thơ mộng trữ tình. Về đẹp ấy được khắc họa qua các hình thức nghệ thuật tiêu biểu như thủ pháp tương phản các biện pháp tu từ quen thuộc đặc biệt hình tượng con Sông Đà à được cảm nhận dưới nhiều góc nhìn khác nhau mang đến một Về đẹp cụ thể đa chiều Cho dòng sông. Qua hình tượng con Sông Đà, tác giả đã gửi gắm tình yêu sự gắn bó sâu sắc với quê hương xứ sở và niềm tự hào trước vẻ đẹp của thiên nhiên Đất nước.
12
Văn mẫu lớp 12 phân tích bài Ai đã đặt tên cho dòng sông

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều hình vực. Ông chuyên về thể loại bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí, lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế 1981, in trong tập sách cùng tên của ông.
Tác phẩm đã miêu tả cảnh quan thiên nhiên sông Hương, sự gắn bó của con sông với lịch sử và văn hoá của xứ Huế, của đất nước. Qua đó nhà văn bộc lộ niềm tự hào tha thiết, sâu lắng dành cho dòng sông Hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là cho đất nước.
Sông Hương nhìn từ cội nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Trong mối quan hệ đặc biệt này, sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội: khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.
Với cái nhìn được nhân hoá, sông Hương tựa cô gái Digan phóng khoáng và man dại với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Theo tác giả, nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội, người ta khó mà hiểu hết các vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó đã không muốn bộc lộ.
Như vậy, ở thượng nguồn, sông Hương có thể chất mạnh, toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính. Sông Hương khi chảy về kinh thành Huế lại mang nhiều vẻ đẹp đa dạng, gắn bó với đặc trưng văn hoá, không gian kinh thành Huế. Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.
Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ nét lịch lãm và tài hoa trong lối hành văn của tác giả. Độc giả khó cưỡng một sức hấp dẫn toát lên từ hàng loạt động từ diễn tả cái dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế.
Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái đẹp ngủ mơ màng”; nhưng ngay sau khi ra khỏi vùng núi, thì cũng như nàng tiên được đánh thức, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, “rồi vòng những khúc quanh đột ngột”, vẽ một hình cung thật tròn, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, rồi “vượt qua”, “đi giữa âm vang”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”…
Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương có lúc “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh. Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” lúc qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố và mang vẻ đẹp trầm mặc khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch cho đến lúc bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung khi gặp “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”…
Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa trong đoạn văn đã làm nổi bật một sông Hương đẹp bởi phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế phong phú mà hài hoà. Sông Hương khi chảy trong Huế, như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”, rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói là của tình yêu”.
Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, sông Hương cũng giống sông Seine của Pari, sông Đa Nuýp của Budapest,… nhưng trong cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ: nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương “đẹp như điệu Slow” chậm rãi, sâu lắng, trữ tình và với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ.
Điều này được diễn tả trong một phát hiện thú vị của tác giả: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.
Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ”. Cũng theo tác giả khúc quanh thật bất ngờ đó, tựa như một “nỗi vương vấn”, và dường như còn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo” của tình yêu…
Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc lại mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, thuở nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”, “nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế kỉ mười tám; “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”, nó chứng kiến thời đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao chiến công rừng chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc sau này…
Sông Hương với cuộc đời và thi ca là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của cuộc đời. Tuy nhiên, điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ: khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Có lẽ chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.
Có thể nói, nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn là tình yêu say đắm với dòng sông được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hoá, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.
Trích đoạn bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông đã gợi ra vẻ đẹp của Huế, của tâm hồn người Huế qua sự quan sát sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông Hương. Ông xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về Huế, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Bài kí góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương đất nước.
13
Văn mẫu lớp 12 nêu cảm nhận về khổ thơ thứ 7 trong bài Việt Bắc

"Việt Bắc" - bài thơ lục bát mang tầm vóc một trường ca dài 150 câu thơ, cảm xúc dâng lên mênh mông dào dạt. Bài thơ ra đời vào tháng 10 năm 1054, ngày giải phóng Thủ đô Hà Nội. Qua bài thơ, Tố Hữu nói lên một cách thiết tha mặn nồng mối tình Việt Bắc, mối tình cách mạng và kháng chiến.
Đoạn thơ 10 câu dưới đây trích từ câu 43 đến câu 52 trong bài thơ "Việt Bắc" nói lên bao nỗi nhớ vô cùng thắm thiết thủy chung đối với Việt Bắc:
"Ta về mình có nhớ ta,
... Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".
Hai câu thơ đầu là lời hỏi - đáp của "ta", của người cán bộ kháng chiến về xuôi, ta hỏi mình "có nhớ ta". Dù về xuôi, dù xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó thiết tha với Việt Bắc: "Ta về, ta nhớ những hoa cùng người". Chữ "ta", chữ "nhớ" được điệp lại thể hiện một tấm lòng thủy chung son sắt. Nỗi nhớ ấy hướng về "những hoa cùng người", hướng về thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và con người Việt Bắc thân yêu:
"Ta về, mình có nhớ ta,
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người".
Hai chữ "mình – ta" xuất hiện ở tần số cao trong bài thơ, cũng như ở trong hai câu thơ này đã thể hiện một cách rất đẹp tình cảm lứa đôi hòa quyện trong mối tình Việt Bắc, đồng thời làm cho giọng thơ trở nên thiết tha bồi hồi như tiếng hát giao duyên thuở nào. Đó là sắc điệu trữ tình và tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.
Tám câu thơ tiếp theo, mỗi cặp lục bát nói lên một nỗi nhớ cụ thể về một cảnh sắc, một con người cụ thể trong 4 mùa đông, xuân, hè, thu.
Nhớ mùa đông nhớ màu "xanh" của núi rừng Việt Bắc, nhớ màu "đỏ tươi" của hoa chuối như những ngọn lửa thắp sáng rừng xanh. Nhớ người đi nương đi rẫy "dao gài thắt lưng" trong tư thế mạnh mẽ hào hùng đứng trên đèo cao "nắng ánh...". Con dao của người đi nương rẫy phản quang "nắng ánh" rất gợi cảm:
"Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng".
Màu "xanh" của rừng, màu "đỏ tươi" của hoa chuối, màu sáng lấp lánh của "nắng ánh" từ con dao; màu sắc ấy hòa hợp với nhau, làm nổi bật sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của thiên nhiên Việt Bắc, của con người Việt Bắc đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời trong kháng chiến. Tố Hữu đã có một cái nhìn phát hiện về sức mạnh tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân ta do cách mạng và kháng chiến mang lại. Người lao động sản xuất thì hào hùng đứng trên "đèo cao" ngập nắng và lộng gió. Đoàn dân công đi chiến dịch thì "bước chân nát đá muôn tàn lửa bay". Người chiến sĩ ra trận mang theo sức mạnh vô địch của thời đại mới:
"Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo".
("Lên Tây Bắc")
Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ hoa mơ "nở trắng rừng". Chữ "trắng" là tính từ chỉ màu sắc được chuyển từ loại thành bổ ngữ "nở trắng rừng", gợi lên một thế giới hoa mơ bao phủ khắp mọi cánh rừng Việt Bắc màu trắng thanh khiết mênh mông và bao la. Cách dùng từ tài hoa của Tố Hữu gợi nhớ trong lòng ta câu thơ của Nguyễn Du tả một nét xuân thơ mộng, trinh bạch trong "Truyện Kiều":
"Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa".
Nhớ "mơ nở trắng rừng", nhớ người thợ thủ công đan nón "chuốt từng sợi giang". "Chuốt" nghĩa là làm bóng lên những sợi giang mỏng mảnh. Có khéo léo, kiên nhẫn, tỉ mỉ mới có thể "chuốt từng sợi giang" để đan thành những chiếc nón, chiếc mũ phục vụ kháng chiến, để anh bộ đội đi chiến dịch có "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan". Người đan nón được nhà thơ nói đến tiêu biểu cho vẻ đẹp tài hoa, tính sáng tạo của đồng bào Việt Bắc. Mùa xuân Việt Bắc thật đáng nhớ:
"Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang".
Nhớ về Việt Bắc là nhớ mùa hè với tiếng ve kêu làm nên khúc nhạc rừng, là nhớ màu vàng của rừng phách, là nhớ cô thiếu nữ đi "hái măng một mình" giữa rừng vầu, rừng nứa, rừng trúc:
"Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình".
Một chữ "đổ" tài tình. Tiếng ve kêu như trút xuống "đổ" xuống thúc giục ngày hè trôi nhanh, làm cho rừng phách thêm vàng. Xuân Diệu cũng có câu thơ sử dụng chữ "đổ" chuyển cảm giác tương tự: "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá..." (Thơ duyên – 1938). Câu thơ "Nhớ cô em gái hái măng một mình" là câu thơ đặc sắc, giàu vần điệu, thanh điệu. Có vần lưng: "gái" vần với "gái". Có điệp âm qua các phụ âm "m": "măng – một – mình". Đây là những vần thơ nên họa nên nhạc, tạo nên một không gian nghệ thuật đẹp và vui, đầy màu sắc âm thanh. "Cô em gái hái măng một mình" vẫn không cảm thấy lẻ loi, vì cô đang lao động giữa nhạc rừng, hái măng để góp phần "nuôi quân" phục vụ kháng chiến. Cô gái hái măng là một nét trẻ trung, yêu đời trong thơ Tố Hữu.
Nhớ mùa hè rồi nhớ mùa thu Việt Bắc, nhớ khôn nguôi, nhớ trăng ngàn, nhớ tiếng hát:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".
Trăng xưa "vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân". Trăng Việt Bắc trong thơ Bác Hồ là "trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa". Người cán bộ kháng chiến về xuôi nhớ vầng trăng Việt Bắc giữa rừng thu, trăng "rọi" qua tán lá rừng xanh, trăng thanh mát rượi màu "hòa bình" nên thơ. "Ai" là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, "nhớ ai" là nhớ về tất cả, về mọi người dân Việt Bắc giàu tình nghĩa thủy chung, đã hi sinh quên mình cho cách mạng và kháng chiến.
Đoạn thơ trên đây dào dạt tình thương mến. Nỗi thiết tha bồi hồi như thấm sâu vào cảnh vật và lòng người, kẻ ở người về, mình nhớ ta, ta nhớ mình. Tình cảm ấy vô cùng sâu nặng biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng sẽ qua đi, những tiếng hát ân tình thủy chung ấy mãi mãi như một dấu son đỏ thắm in đậm trong lòng người.
Đoạn thơ mang vẻ đẹp một bức tranh tứ bình đặc sắc, đậm đà phong cách dân tộc. Mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là mùa đông năm 1946, đến mùa thu tháng 10 – 1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng - Tố Hữu cũng thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc qua bốn mùa: đông – xuân – hè – thu, theo dòng chảy lịch sử. Mỗi mùa có một nét đẹp riêng dạt dào sức sống: màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màu vàng của rừng phách, màu trắng xanh hòa bình. Thiên nhiên Việt Bắc trong thơ Tố Hữu rất hữu tình, mang vẻ đẹp cổ điển. Con người được nói đến không phải là ngư, tiều, canh, mục mà là người đi nương đi rẫy, là người đan nón, là cô em gái hái măng, là những ai đang hát ân tình thủy chung. Tất cả đều thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của đồng bào Việt Bắc: cần cù, làm chủ thiên nhiên và làm chủ cuộc đời trong lao động, kiên nhẫn, khéo léo, tài hoa, trẻ trung lạc quan yêu đời, ân tình thủy chung với cách mạng và kháng chiến.
Một giọng thơ ngọt ngào, tha thiết bồi hồi cứ quyện lấy tâm hồn người đọc. Nỗi nhớ được nói đến trong "Việt Bắc" cũng như trong đoạn thơ này cho thấy một nét đẹp trong phong cách thơ Tố Hữu: chất trữ tình công dân và tính dân tộc, màu sắc cổ điển và tính thời đại được kết hợp một cách hài hòa.
Hình tượng đẹp, phong phú, gợi cảm. Một không gian nghệ thuật đầy sức sống, với những đường nét, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, cấu trúc cân xứng hài hòa, để lại trong tâm hồn ta một ấn tượng sâu sắc như Bác Hồ đã viết: "Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay...".
Thơ đích thực "là ảnh, là nhân ảnh..., từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la" (Nguyễn Tuân). Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình mến yêu Việt Bắc, tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Đoạn thơ "nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp", để ta thương, ta nhớ về mối tình Việt Bắc, mối tình kháng chiến.
14
Văn mẫu lớp 12 phân tích bài thơ Dọn về làng của Nông Quốc Chấn

Nông Quốc Chấn là nhà thơ, nhà hoạt động văn hóa, người dân tộc Tày ở Bắc Cạn. Từ một ông giáo hiền lành, sớm được giác ngộ cách mạng, được rèn luyện trong khói lửa chiến tranh, ông trở thành một cán bộ trung kiên, một nhà hoạt động văn hóa, một nhà thơ xuất sắc của Đảng và dân tộc.
Bài thơ "Dọn về làng" được sáng tác trong chiến dịch Biên giới thu – đông 1950, là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nông Quốc Chấn. Nguyên tác bằng tiếng Tày, sau đó được tác giả dịch ra tiếng phổ thông theo thể thơ tự do. Năm 1951, tại Đại hội liên hoan học sinh sinh viên thế giới tại Béc-lin, bài thơ đã được tặng giải Nhì, đã được dịch sang tiếng Pháp, giới thiệu trên Tạp chí Châu Âu.
Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tương phản giữa quá khứ đau thương với niềm vui chiến thắng và giải phóng để ca ngợi sự hồi sinh, sự vươn dậy của quê hương và của đồng bào các dân tộc Cao-Bắc-Lạng.
Mở đầu bài thơ "Dọn về làng" là tiếng gọi mẹ cất lên; gọi mẹ để báo tin vui, tin mừng chiến thắng:
"Mẹ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng đầy như củi".
Đoạn thơ làm sống lại cảnh tượng chiến trường Biên giới năm 1950. Gọng kìm đường số Bốn của giặc bị chặt đứt, bị phá tung. Quân ta đánh chiếm đồn Đông Khê, tiêu diệt hai binh đoàn Sác – tong và Lơ – pa, hàng ngàn giặc Tây "bị chết bị bắt sống". Hai so sánh "Người đông như kiến, súng đầy như cũi" đã nói lên thật hay sức mạnh và khí thế chiến đấu, chiến thắng của quân và dân ta thuở ấy.
Từ niềm vui chiến thắng, đứa con đau đớn nhớ lại những năm dài gian khổ, đau thương dưới ách kiềm kẹp, chiếm đóng của lũ giặc Pháp hung tàn.
Trên bước đường trở về làng cũ để "sửa nhà phát cỏ", để "Cày ruộng vườn trồng lúa ngô khoai", đứa con bồi hồi nhớ lại:
"Mấy tháng năm qua quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy,
Chạy hết núi khe, cay đắng đủ mùi".
Những lễ tết lâu đời phải "quên đi! Những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc phải "quên" đi. Bàn thờ tổ tiên nguội lạnh hương khói. Trải bao cay đắng vì phải chạy giặc triền miên: "Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi".
Quên sao được những kỉ niệm thương đau một thời gian khổ với bao thiên tai, dịch họa. Mưa rừng mù mịt, gió bão, sấm sét, lán sụp, cửa nát, vắt bám đầy chân. Giặc lùng sục, đốt lán, cướp bóc, gây ra bao thảm cảnh:
"Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng,
Từng cái lán nó đốt đi trơ trụi
Nó vơ hết quần áo trong túi"…
Đoạn thơ như một đoạn phim ghi lại cảnh chạy loạn giữa rừng sâu của đồng bào các dân tộc vùng biên giới phía Bắc đất nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Biện pháp liệt kê và tự sự mở ra một không gian nghệ thuật với bao chi tiết hiện thực rất sống và cảm động. Cảnh người mẹ chạy giặc, vừa địu con, vẫy em, vừa "Tay dắt và, vai đeo đầy tay nải – Bà lòa mắt không biết lối bước đi". Cảnh người cha bị giặc bắt, "Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây" rồi bị giặc giết một cách dã man:
"Súng nổ ngay đì đùng một loạt,
Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất".
Cảnh chôn cất người chồng, người cha thân yêu đầy nước mắt:
"Lán anh em rải rác không biết nơi tìm
Không ván, không người đưa cha đi chôn cất
Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng.
Con cởi áo liệm thân cho bố,
Mẹ con ẳm cha đi nằm ở chân rừng
Máu đẫm tay, nước tràn đầy mặt…"
Tất cả những cảnh đau đớn và thương tâm ấy được nhà thơ tái hiện lại một cách chân thực với nhiều máu và nước mắt. Sau tiếng khóc nghẹn ngào là tiếng thét căm thù uất hận vang lên:
"Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn,
Băm xương thịt mày, tao mới hả".
Qua đó, ta càng thấy rõ: máu không thể nào dìm được chân lí; súng đạn của quân giặc cướp nước không thể nào khuất phục được nhân dân ta.
Phần thứ hai của bài thơ nói lên niềm vui giải phóng, quê hương được hồi sinh, sức sống của dân tộc trỗi dậy vô cùng mạnh mẽ.
Có bao âm thanh giữa không gian rộng lớn Cao – Bắc – Lạng. Có tiếng "cười vang", tiếng "người nói", tiếng cười con trẻ "ríu rít" cắp sách đến trường. Có tiếng ô tô "kêu vang"; có tiếng gà gáy, tiếng chó sủa. Có bao hình ảnh náo nức đáng yêu:
"Hôm nay, Cao – Bắc – Lạng cười vang,
Dọn lán, rời rừng, người xuống làng,
Người nói cỏ lay trong ruộng rậm
Cuốc đất, dọn cỏ mẹ khuyên con".
Cuộc sống hồi sinh, cuộc sống bình yên đã trở lại với bà con làng bản: "Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá". Phải nhiều máu đổ xương tan mới có ngọn khói lam chiều đáng yêu ấy.
Nếu ở phần đầu bài thơ, tác giả nhắc lại sáu lần chữ "không" (không biết lối bước đi, cha không biết nói rồi, không ai chống gậy khi bà cụ qua đời, không biết nơi tìm, không ván không người đưa cha đi chôn cất) để phản ánh bao nỗi đau đè nặng lòng người, thì ở đoạn hai, điệp ngữ "không" bốn lần xuất hiện để làm nổi bật một hiện thực kháng chiến, đó là sự hồi sinh và sự vươn mình đứng thẳng dậy của dân tộc ta, của đồng bào các dân tộc Cao – Bắc – Lạng:
Từ nay không ngập cỏ lối đi.
Hổ không dám đẻ con trong vườn chuối
Quả trong vườn không lo tự chin, tự rụng
Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy thành vũng.
Một lần nữa, Nông Quốc Chấn đã thành công ở phép liệt kê, nêu lên hàng loạt chi tiết rất thực, rất sống để thực hiện niềm vui chiến thắng và sự hồi sinh của quê hương sau ngày giải phóng.
Bốn câu thơ cuối bài là lời từ biệt mẹ già của đứa con lên đường đi chiến đấu. Mẹ ở lại hậu phương, con ra tiền tuyến với quyết tâm "đuổi hết" giặc Pháp, giặc Mỹ. Hình ảnh "Mặt trời lên sáng rõ" mang hàm nghĩa nói về sự thắng lợi của kháng chiến, của cách mạng, sự đổi thay to lớn và niềm vui dâng lên trong lòng người.
Lời mẹ dặn biết bao yêu thương thiết tha, đằm thắm. Cuộc lên đường đầy khí thế và dào dạt niềm tin:
"Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,
Giặc Pháp, Mỹ còn giết người, cướp của trên đất ta
Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ".
Cái hay của "Dọn về làng" là ở giọng thơ mộc mạc bình dị với bao chi tiết chọn lọc cảm động. Nỗi đau thương thời giặc giã, hình ảnh người bà, người cha, người mẹ trong khói lửa đau thương, niềm vui giải phóng và hình ảnh quê hương hồi sinh được nói lên một cách thật giản dị, cảm động đáng yêu. "Dọn về làng" là một trong những thành tựu đáng tự hào của thơ ca kháng chiến thời chống Pháp. Tự hào hơn nữa vì đó là lời ca, bông hoa rừng đẹp và thơm của đứa con thân yêu người dân tộc Tày. Hơn nửa thế kỉ sau, bài thơ vẫn để lại cho chúng ta nhiều xúc động.
15
Văn mẫu lớp 12 nghị luận xã hội về bài học rút ra từ câu chuyện của tách trà

Nội dung: Trước đây, tôi không phải là tách trà đâu, tôi là đất sét đỏ cơ. Rồi có 1 người đem tôi cuộn lại, đập dẹt ra, rồi nhào, rồi lại đập dẹt. Cứ như thế và tôi đã hét lên: “Buông tôi ra”, nhưng ông ấy chỉ cười: “chưa được đâu!”. Rồi ông ta lại đặt tôi lên 1 cái bàn xoay liên tục đến mức tôi lại phải kêu oai oái: “Dừng lại đi, tôi chóng mặt lắm”. Thế nhưng ông ta chỉ gật gù: “Chưa đâu”!. Rồi ông ấy lại đặt tôi vào lò, nóng khủng khiếp. Tôi không hiểu tại sao ông ta lại muốn hành hạ tôi, đốt tôi. Tôi đập vào thành lò bôm bốp, nhưng rất lâu sau ông ta mới chịu mở ra: “Chưa đâu, chưa được đâu!” Một lúc sau, tôi được ông ta lôi ra và đặt ngồi lên kệ và tôi nguội dần. “Dễ chịu quá”. Nhưng chẳng được bao lâu, con người khó tính kia lại lôi tôi ra và lấy sơn vẽ lên khắp người tôi. Tôi không chịu được cái mùi ấy. Tôi gào lên: “Dừng lại đi mà” nhưng ông ta vẫn chỉ gật gù: “Chưa đâu”. 1 lần nữa tôi lại bị đặt vào lò và lần này cái lò nóng gấp đôi lần trước. Tôi sắp chết ngạt đến nơi. Tôi khóc, van xin, nhưng ông chủ vẫn nói: “Chưa đâu!”. Tôi chẳng còn hi vọng và sẵn sàng đầu hàng. Đột nhiên cửa lò bật mở, ông ta bế tôi ra và cẩn thận đặt lên kệ. Ông đi đâu đó và khi trở lại, ông đưa cái gương lại trước mắt tôi: “Nhìn mình xem”. Tôi nhìn và chính tôi cũng phải thốt lên: “Đó không fải là mình được. Mình đẹp quá đi mất”! Ông chủ của tôi bây giờ mới nói: “Con của ta, ta biết là bị nhào nặn là đau đớn lắm nhưng nếu ta không làm thế, con sẽ khô đi và vô dụng. Ta biết bị xoay trên bàn nặn là chóng mặt lắm, nhưng nếu ngừng lại con sẽ bị bở ra và méo mó bất thành nhân dạng, ta biết lò nung rất nóng và làm con rát bỏng nhưng nếu không vào trong đó, con sẽ mong manh và nứt vỡ. Ta biết bị sơn lên người thì mùi khó chịu lắm, nhưng nếu không làm vậy, con sẽ nhạt nhẽo chẳng có màu sắc nào trong đời cả. Nếu ta không đặt con vào lò nung thêm lần nữa thì con sẽ chẳng cứng và bền. Còn giờ đây, sau bao nhiêu khổ luyện, con là 1 sản phẩm hòan chỉnh, đẹp như ta tưởng tượng ngay từ lúc đầu, tách trà nhỏ bé ạ!”
“Đời phải trải qua giông tố, không được cúi đầu trước giông tố”, có ai đó đã nói với tôi khi tôi gặp phải khó khăn, sóng gió của cuộc đời. Thật vậy! bạn ạ, gặp khó khăn mà ta không chùn bước, vẫn hiên ngang tiến về phía trước, với tôi đó là những con người đích thực. Câu chuyện của tách trà đem đến cho chúng ta nhiều bài học sâu sắc.
Câu chuyện kể về một cục đất sét đỏ, nói được một người đem ra đập dẹp, rồi bị bỏ vào lò nung, rồi bị vẽ sơn lên khắp người, rồi lại bị nung nữa. Sau những lần như vậy nó đều hét lên “buông tôi ra, dừng lại đi, dừng lại đi mà”. Tất cả đều vì nó cảm thấy khó chịu chóng mặt nóng khủng khiếp hay nó không thể nào chịu được cái mùi sơn khó chịu ấy. Nhưng đáp lại tiếng nó chỉ là câu “chưa được đâu”. Đọc câu chuyện ta đều thấy rằng đây là một công việc hết sức bình thường của những người thợ làm gốm làm đồ mỹ nghệ. Nhưng ẩn sâu đó là nhiều bài học sâu sắc, bàn xoay, lò nung, hay sơn vẽ là biểu tượng của những khó khăn khắc nghiệt mà cuộc đời mỗi con người cần phải vượt qua. Câu chuyện có lẽ ta sẽ cười cục đất sét kia, vì đã thiếu tự tin, bản lĩnh, nó không biết rằng người thợ đang làm đẹp cho nó. Nhưng thử đặt vào hoàn cảnh đó thì bạn sẽ là như thế nào? Câu hỏi thật khó trả lời bởi cách suy nghĩ, hành xử của mỗi người là khác nhau, riêng tôi tôi sẽ cố gắng nỗ lực để vượt qua tất cả, chứ không như cục đất sét hèn nhát, thiếu bản lĩnh kia.
Cuộc sống là một khái niệm nào đó phức tạp, thậm chí rối rắm, nhiều thách thức. Con người sinh ra như thế để thử thách với cuộc đời với số phận. Cũng như cục đất sét đó kia, nói được có mặt trên cuộc đời này, nhưng cũng phải đối diện với bàn xoay, với lò nung nóng khủng khiếp. Tất cả đều do sự sắp đặt của thượng đế. Cuộc sống cũng vậy, bạn sẽ có lúc gặp nhiều may mắn. Nhưng chắc chắn rằng cũng không ít lần trải qua giông tố. Bởi một điều đơn giản, con đường nào giẫm trên hoa hồng mà bàn chân không thấm đẫm những mũi gai. Không vinh quang nào có được một cách dễ dàng, mà phải do chính con người tự đi tìm lấy hạnh phúc. Tự tin, bản lĩnh kết hợp với lòng kiên nhẫn sẽ là yếu tố quan trọng quyết định thành công của bạn. Khó khăn sinh ra như để thử thách con người, chỉ có sự thử thách của lửa mới tôi luyện nên những thanh sắt cứng rắn. Đó là lời của tổng thống Mỹ gửi cho thầy hiệu trưởng của con trai mình. Đó là cách giáo dục đúng đắn dành cho đứa con nhỏ bé của mình, để sau này lớn lên nó sẽ trở thành con người vững chãi.
Khó khăn lôi kéo những con người có ý chí, nhờ vào khó khăn mà con người trưởng thành, những tượng đài con người nên học cách rèn luyện tính bản lĩnh, tự tin để đối đầu với những con sóng dữ trên đại dương. Khi gặp phải khó khăn nên tìm kiếm “một lối đi”, chứ không phải “một lối thoát”. Nếu gặp hoạn nạn mà chúng ta hèn nhát, thiếu bản lĩnh thì ta sẽ không thể nào tồn tại được trong cái vòng xoay của cuộc đời. Như cục đất sét đỏ kia, nó luôn kêu oan phàn nàn về thử thách mà nó phải đối diện, rồi hét lên nào nên vì quá sức chịu đựng của nó. Nhưng bạn ơi, Đừng như cục đất sét hèn nhát kia nhé, tôi tin rằng mọi khó khăn sẽ được giải quyết nếu bạn có lòng tin, sự bản lĩnh kiên trì. Khi một cánh cửa đóng lại, sẽ có vô vàn cánh cửa khác mở ra, chào đón, mời gọi bạn, hãy nhìn đời qua lăng kính màu hồng để khó khăn được dễ chịu hơn, đó cũng là kim chỉ nam giúp con người thành công.
Cuộc sống luôn ẩn chứa trong nó những điều trắc ẩn về thực tế phũ phàng. Nhưng vẫn Ánh lên đâu đó Vầng Hào Quang giúp con người hiên ngang tiến về phía trước. Nếu con người đẩy mạnh mẽ tự tin thì chắc chắn rằng mọi khó khăn sẽ được vượt qua. Nếu cục đất sét Kia mạnh mẽ đủ bản lĩnh thì chắc rằng nó sẽ không kêu ca phàn nàn liên tục. Nhưng kìa cuối cùng nhờ bàn tay khéo léo của con người mà đó là đã trở thành một ấm trà vừa đẹp, vừa có ích cho người khác. Người thợ khéo tay kia như là một ân nhân, một ánh sáng trong đêm tối. Soi đường, dẫn lối, vì vậy ta hãy tin rằng, mọi khó khăn đều có hướng giải quyết, nên hãy tiếp tục gắn gương và vượt qua. Cục đất sét tưởng chừng vô dụng kia cũng được làm thành một tách trà, mang lại lợi ích cho cộng đồng.
Câu chuyện của tách trà đã dạy ta nhiều bài học sâu sắc, là hành trang để chúng ta bước vào đời đầy tự tin, mạnh mẽ, đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông. Đường đời nhiều chỗ bằng phẳng, nhưng cũng không ít chỗ gập ghềnh, hiểm trở, nhưng dù sao ta vẫn phải bước tiếp tiến về phía trước. Gặp khó khăn ta không hề chùn bước, mà chỉ cho ta thêm sức mạnh để vượt qua. Nếu bạn khao khát có được những thứ mà bạn chưa bao giờ có, thì bạn phải chấp nhận với việc làm những thứ mà bạn chưa bao giờ làm. Đó là bài học về lòng dũng cảm, tự tin để chiến thắng bản thân, vươn tới những đẳng cấp của thế giới. Cuộc sống của bạn ngày hôm nay là kết quả từ thái độ sống và sự lựa chọn của bạn trong quá khứ. Cuộc sống của bạn ngày mai là kết quả từ thái độ sống và sự lựa chọn của bạn ngày hôm nay.
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”.
Đó là những ca từ vang lên để hun đúc tinh thần của thanh niên chúng ta, hãy đủ mạnh mẽ, đủ bản lĩnh để lao động, làm việc và bạn sẽ nhận lại được hoa thơm, trái ngọt mà cuộc đời ban tặng. Cuộc sống không được tính bằng số lần chúng ta thở, mà bằng những giây phút ta được nín lặng để tận hưởng những điều kỳ diệu của cuộc sống. Hãy có niềm tin vào bản thân, để thấy cuộc sống này thật đẹp, thật ý nghĩa, hãy coi đó là điểm tựa để tiến bước trên con đường mà mình đã lựa chọn. Bởi có ai đó từng nói, “hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nâng bổng cả thế giới thế giới”, sẽ thay đổi nếu bạn chịu thay đổi, vì chinh phục những đỉnh cao của nhân loại. Những câu chuyện của tách trà một lần nữa khẳng định sức mạnh của con người có thể chiến thắng cả thiên nhiên vũ trụ nói như một bài học không bao giờ ngừng thôi thúc con người cố gắng để phát triển còn là bài học về lí tưởng sống của thanh niên thế hệ trẻ hiện nay cần phải dám mơ ước dám thực hiện để bắt kịp xu hướng hiện đại hóa đất nước. Để ghi tên mình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội cần những con người xã hội chủ nghĩa những lời ca trong “khát vọng” đã khẳng định. “Hãy sống như đời sống, để biết yêu nguồn cội, hãy sống như đời sống, vươn tới những tầm cao”. Hãy dám mơ ước để chinh phục những tầm cao của tri thức của trí tuệ đó là thái độ sống tích cực một biểu hiện của sống đẹp. Sống đẹp có nhiều khía cạnh, nhưng riêng tôi, tôi cho rằng, sống đẹp là sống có mục đích, lý tưởng, bản lĩnh, kiên cường để vượt qua mọi khó khăn trên đường đời. Đó là sống có ý nghĩa, khẳng định sự tồn tại của bản thân, hãy có ước mơ, lý tưởng để sống không thua kém ai trên đời. Dù cho là sóng gió, dù cho là rất khó, dù cho cuộc sống đưa ta đi nơi nào thì hãy luôn mạnh mẽ lên nhé bạn, sẽ đẹp hơn trong mắt người khác đấy.
Câu chuyện đã dạy cho ta nhiều bài học về niềm tin, sức mạnh, sự bản lĩnh để vượt qua khó khăn. Để thành công còn cần thêm ý chí, nghị lực, lòng kiên nhẫn. Bởi vì mọi cánh cửa đóng lại thì lòng kiên nhẫn là thứ được dùng đến. Khó khăn không làm ta chùn bước, mà chỉ cho ta thêm sức mạnh. Cục đất sét kia đã thiếu tự tin, bản lĩnh, sức mạnh để vượt qua những khó khăn. Nhưng nhờ người thợ khéo tay, nó đã trở thành tách trà có ích. Con người phải trải qua giông tố, chứ không được cúi đầu trước giông tố.
Câu chuyện của tác giả một lần nữa mang lại cho người đọc báo suy ngẫm về cuộc sống. Hãy biết vượt qua khó khăn để thấy được giá trị thực sự của bản thân, đừng hèn nhát như cục đất sét jia nhé. Bởi thực tế phũ phàng không theo ý muốn con người. Những con người hèn nhát rồi sẽ bị xã hội đào thải, sẽ nhận được số không tròn trĩnh. Hãy mạnh mẽ, bản lĩnh để đối đầu với sóng dữ, lái con thuyền của cuộc đời mình trên đại dương đầy trắc ẩn.
Đủ nắng hoa sẽ nở, đủ gió chong chóng sẽ quay, đủ yêu thương hạnh phúc sẽ đong đầy.
- top
- văn mẫu
- văn mẫu lớp 12
- văn mẫu lớp 12 đáng xem
- văn mẫu lớp 12 hay nhất
- topshare
- văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- bài văn mẫu
- bài văn mẫu lớp 12
- bài văn mẫu lớp 12 đáng xem
- bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- top văn mẫu
- top văn mẫu lớp 12
- top văn mẫu lớp 12 đáng xem
- top văn mẫu lớp 12 hay nhất
- top văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- top bài văn mẫu
- top bài văn mẫu lớp 12
- top bài văn mẫu lớp 12 đáng xem
- top bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- nghị luận
Phù hợp với bạn
29-05-2025 Thông Còi
29-05-2025 Thanh Thu
11-01-2024 Chanh
22-01-2024 Chanh