Top 50 bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất giúp học sinh trau dồi cách hành văn
- 2,385 views
- 1 likes
Đề văn, bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất là cái khuôn sẵn có bổ trợ học sinh khối 12 trong việc tinh chỉnh lối viết văn, hành văn, thi cử lẫn tham dự những cuộc thi có dính đến văn chương khác nhau. Văn mẫu lớp 12 phải đạt tới độ giúp học sinh thông suốt, trình bày câu cú chỉn chu, lời lẽ liền mạch, bám sâu và sát vấn đề đưa ra. Văn mẫu lớp 12 trọng yếu xoay vần quanh dạng nghị luận (văn học / xã hội), phân tích rốt ráo một khía cạnh nào đó, đưa nhiều dẫn chứng hay để học sinh 12 ngấm nhuần trọn vẹn. Dưới đây topshare xin gửi tới bài viết top bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất đủ sức làm tài liệu trên hành trình học văn của các em. Xem ngay nhé!
16
Văn mẫu lớp 12 nêu suy nghĩ về câu nói Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân của Khổng Tử

Khổng Tử là danh hiệu tôn kính hậu thế dành cho Khổng Khâu. Ông sống trong thời kỳ trật tự xã hội đã suy đồi, chư hầu lấn quyền thiên tử, đại thần chiếm đoạt ngôi chư hầu dẫn đến cảnh chém giết nhau hỗn loạn, không còn đạo lý, kỷ cương Ông mong muốn tái lập lại trật tự xã hội, làm cho mọi người trở nên tốt đẹp hơn, đối xử với nhau hòa hảo, thân ái. Một lần Khổng Tử tâm sự với học trò “Nguyện vọng của ta là muốn cho người già được nuôi dưỡng đầy đủ, bạn bè tin cậy lẫn nhau, trẻ nhỏ được quan tâm chăm sóc”. Chính vì thế ông luôn muốn dùng tài năng của mình giúp nước, giúp đời.. Ông được suy tôn như một trong những nhà khai sáng Nho giáo, đồng thời là giảng sư và triết gia lỗi lạc bậc nhất cõi Á Đông.
Để sống có Nhân thì tuân theo nguyên tắc vàng của Khổng tử: ông đã tranh luận rằng người ta phải luôn đối xử với người khác đúng như những gì họ muốn người khác đối xử với họ. Đức hạnh theo Khổng tử là dựa trên việc sống hài hòa với mọi người.Hệ thống đạo đức của Khổng Tử dựa trên lòng vị tha và hiểu những người khác, điều này được thể hiện rõ qua câu nói của ông: “Kỷ sở bất dục,vật thi ư nhân” tức là cái gì mà ta không muốn thì đừng làm cho người khác.
Câu nói có thể coi là một quan điểm về “Nhân” tức là về lòng yêu thương của con người.Đây là một quan điểm hoàn toàn đúng đắn và tiến bộ. Một quan điểm thể hiện cách sống nhân văn. Mỗi chúng ta sống cùng nhau, đều mong muốn những điều tốt đẹp nhất đến với mình chứ không ai mong muốn rủi ro vậy nên những gì mà mình không muốn cũng đừng đem đến cho người khác. Thực tế, trong cuộc sống khó tránh khỏi những suy nghĩ ích kỉ của bản thân, vì lợi ích của mình, ví dụ như xếp hàng nơi công cộng,tình trạng chen lến xô đẩy cũng là muốn mình được đáp ứng nhu cầu trước, tuy nhiên để xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp thì gì mà mình không muốn cũng đừng đem đến cho người khác.
“Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” trong thực tế có nghĩa là hãy biết coi trọng tình người, tự đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, lúc nào cũng lây cái tâm đức trong sáng để nghĩ về những điều đã xảy ra, sự việc liên quan tới người khác để xử sự đầy tình người.Trong xã hội có những con người cứ thích yêu cầu người khác làm những việc mà bản thân họ không thích, chỉ nghĩ đến bản thân với lối sống nhỏ nhen ích kỉ, đố kị với người khác. Ví như khi đứng chờ thanh toán hàng giữa một siêu thị, bạn sẽ không thể không thấy cảnh người ta chen lấn, xô đẩy nhau để được thanh toán nhanh hơn, chẳng ai nghĩ đến ai, người ta cứ chăm chăm vào cái lợi cho bản thân mà không nghĩ đến lợi ích chung to lớn hơn. Trong một công ty, anh này thấy anh kia chăm chỉ hơn được xếp ưu tiên hơn thì nặng lời bóng gió, ám chỉ. Những điều gì khó khăn thì đùn đẩy hết cho người khác, còn mình thì nhận về những cái phần dễ dàng. Có bao giờ ta thử hỏi, ai cũng chọn phần dễ dàng thì gian khổ sẽ dành phần ai? Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, vậy việc nặng học ai gánh? Ai cũng chỉ chăm chăm lo cho chính cái tôi của mình, thế thì xã hội sẽ đi về đâu?
Cái thói sống vị kỉ ấy sẽ làm tha hóa đi nhân cách con người, kéo lui theo cả sự phát triển của xã hội. Một cá nhân sống ích kỉ khiến tập thể không phát triển được, kìm kẹp, soi mói lẫn nhau, tranh giành không ai nhường ai, thử hỏi một tập thể như vậy sao có thể vững mạnh. Rồi xã hội cũng vì thế mà chậm phát triển bởi xã hội cũng là được tạo bởi các nhân. Các cá nhân không tốt thì xã hội không phát triển là điều đương nhiên.
Từ đây mỗi người cần rèn luyện để có lối sống vị tha. Mình nên thay đổi chính mình trước khi mong muốn sự thay đổi từ người khác, hãy yêu thương tin tưởng họ trước khi mong họ yêu thương và tin tưởng mình. Cần học cách ứng xử nhân văn, nhìn nhận sự việc dưới nhiều góc độ để có cái nhìn cảm thông sâu sắc hơn.Ví dụ một ngày nào đó bạn vô tình xúc phạm người bạn của mình trước đám đông trong quá trình nói chuyện, lời nói ra rồi cũng đâu thể rút lại? Có phải bạn không bao giờ muốn bị bẽ mặt trước đám đông không? Vậy người khác thì sao?Khi này ta thử hoán đổi suy nghĩ cho người bạn kia, nếu mình là người bị xúc phạm thì sẽ như thế nào? Hành động ra sao? Có suy nghĩ được như vậy ta mới thấm nhuần câu nói của Cổ nhân “Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác”.
“Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” trên thực tế có nghĩa là biết coi trọng tình người, tự đặt mình vào hoàn cảnh người khác, tự bụng mình mà suy ra bụng người, lúc nào cũng lấy cái tâm đức trong sáng để nghĩ về sự việc đã xẩy ra, sự việc liên quan đến người khác mà có cách xử sự đầy tình người.
Trong xã hội có những người cứ yêu cầu người khác làm những việc mà bản thân họ không thích. Kẻ nào chỉ nghĩ đến bản thân, tính toán cho cá nhân, nhỏ nhen, đố kị,… tất sẽ bị mọi người xa lánh, coi thường, ghê sợ.
Phê phán những người sống ích kỉ, miệng lưỡi như rắn độc, chỉ biết đến bản thân mình không quan tâm tơi những người xung quanh. Đây là lỗi sống cần loại bỏ để góp phần xây dựng một xã hội văn minh tốt đẹp. Kẻ nào chỉ nghĩ đến bản thân, tính toán cho cá nhân, nhỏ nhen, đố kị,… tất sẽ bị mọi người xa lánh, coi thường, ghê sợ.
Tóm lại, người có lòng nhân, giàu tình thương mới biết ứng xử theo phương châm “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Câu nói của Khổng Tử nhắc mỗi chúng ta phải tự đặt mình vào người khác, suy nghĩ cho người khác nhiều hơn, mọi hành động và việc làm đều lấy tình người làm chuẩn mực như vậy xã hội mới tốt đẹp và ngày càng phát triển.
Bằng tài năng đức độ của mình, Tư Mã Thiên đ ã có lời bình về Khổng Tử: “Trong kinh “Thi” có câu nói như thế này: “Cái giống như núi cao khiến người ta chiêm ngưỡng, cái giống như đại Đạo khiến người ta tuân theo. Từ xưa tới nay trong thiên hạ, Quân Vương và người tài đức thì có cũng nhiều. Họ khi đang còn sống đều vinh hoa quý hiển, nhưng chết đi rồi thì chẳng còn lại chút gì. Khổng Tử là một người bình dân, nhưng những người đọc sách đều tôn ông làm thầy. Từ Thiên tử, Vương Hầu đến nhân dân cả nước, những ai nói về “Lục Nghệ” thì đều xem học thuyết ấy của Khổng Tử là chuẩn tắc cao nhất. Có thể nói Khổng Tử là một Thánh nhân chí cao vô thượng”.
17
Văn mẫu lớp 12 nghị luận xã hội về văn hóa cảm ơn

Trong cuộc sống có hai điều tưởng chừng như đơn giản, mà con người lại mất rất nhiều thời gian để học đó chính là văn hóa cảm ơn và xin lỗi. Nghe tưởng như khó tin nhưng đó lại là sự thật trong cuộc sống bây giờ. Hôm nay, chúng ta sẽ đi tìm hiểu về văn hóa đầu tiên chính là văn hóa cảm ơn. Văn hóa cảm ơn có ý nghĩa gì chúng ta cùng đi tìm hiểu nha.
Từ trước đến nay, chúng ta hay nghe nói đến hai từ “cảm ơn”, vậy tại sao phải cảm ơn? Cảm ơn chính là một truyền thống đạo lí của dân tộc ta từ bao đời nay. Cảm ơn là hai từ dùng để bày tỏ sự biết ơn của mình đối với người khác, đó có thể là đối với những người đã nuôi dưỡng sinh thành ra chúng ta, có thể là những người đã giúp đỡ, bảo vệ hay dạy dỗ cho chúng ta trưởng thành, nên người,…tất cả chúng ta đều phải nói cảm ơn. Mọi người cứ nghĩ lời cảm ơn nói rất đơn giản ai cũng nói được, nhưng không, không phải ai cũng biết nói hai tiếng cảm ơn đối với những người đã vì mình. Nói câu cảm ơn phải làm sao cho người nhận thấy rõ được sự chân thành của mình trong câu nói ấy là một điều chúng ta cần phải học.
Có khi nào mẹ nói hai tiếng cảm ơn tới cha mẹ mình một cách nghiêm túc và chân thành hay chưa? Hay bạn nghĩ rằng, cha mẹ sinh ra ta, nuôi dưỡng chúng ta đó là trách nhiệm của cha mẹ, chúng ta không cần cảm ơn, đó là điều tất yếu rồi, cảm ơn làm gì. Nếu nghĩ như vậy thì quả là một sai lầm, cha mẹ đã dành cả cuộc đời của mình để hy sinh cho con cái nên người, dù bao vất vả, cực nhọc cha mẹ vẫn cam chịu chỉ mong sao con cái trưởng thành, không chịu thiệt thòi. Vậy còn các bạn, các bạn đã làm gì được cho cha mẹ hay chưa? Câu trả lời đa phần là chưa. Cha mẹ cũng không cần các bạn làm gì, chỉ cần các bạn biết trưởng thành nên người. Vậy làm con, một lời cảm ơn trân thành để thể hiện sự biết ơn với cha mẹ liệu có khó không. Có rất nhiều các bạn trẻ ngày nay, mải chơi, mà quên đi sự hy sinh của cha mẹ, không những không biết ơn cha mẹ mà còn có hành vi bất hiếu, đến khi hối hận thì nhận ra đã không kịp nữa rồi.
Những người thầy, những người giúp đỡ chúng ta dù chỉ là một chuyện nhỏ nhất chúng ta cũng cần nói câu cảm ơn. Khi chúng ta nói câu cảm ơn, là khi chúng ta đã biết trưởng thành, biết tôn trọng người khác, có thái độ biết ơn với những người xung quanh, khi nói câu cảm ơn bạn sẽ thấy lòng mình thanh thản hơn. Và người nhận được câu cảm ơn của các bạn sẽ thấy được sự chân thành của bạn và thấy sự giúp đỡ của mình là có ích. Chỉ cần như vậy thôi, xã hội của chúng ta đã tốt đẹp lên rất nhiều.
Lời cảm ơn không mang giá trị vật chất, nhưng nó lại mang giá trị tinh thần to lớn mà con người không thể mua được bằng vật chất. Nó giúp gắn kết mọi người lại với nhau hơn. Có khi nào bạn tưởng tượng, một ngày nào đó, xã hội chúng ta vắng đi lời cảm ơn thì sẽ như thế nào không? Ắt hẳn cái xã hội ấy thật nhạt nhẽo, con người cũng chẳng buồn giúp đỡ lẫn nhau. Sự gắn bó giữa người với người cũng dần mất đi thay vào đó sẽ là sự thờ ơ, xa lánh.
Hiện nay, văn hóa xin lỗi và văn hóa cảm ơn đang ngày càng mai một. Nguyên nhân cũng là do cơ chế thị trường, khiến con người tính toán nhiều hơn, vụ lợi hơn và ít quan tâm nhau hơn. Vì vậy, những người trẻ lại càng bị ảnh hưởng nặng nề về thực trạng này.
Trước thực trạng này, chúng ta cần phải có nhận thức đúng đắn. Không nên tiết kiệm lời cảm ơn, mà cũng không nên cảm ơn quá nhiều, hãy biết cảm ơn đúng lúc, đúng chỗ, đúng thời điểm và hơn nữa là phải có một thái độ chân thành khi cảm ơn. Đừng nói lời cảm ơn một cách sáo rỗng như vậy sẽ mất đi hết giá trị của lời cảm ơn.
Theo tôi, chúng ta nên rèn cho mình thói quen biết cảm ơn, biết xin lỗi để nó trở thành một thói quen, taọ nên cách cư xử có văn hóa giữa người với người. Có như vậy, xã hội của chúng ta mới có thể tốt đẹp, văn minh hơn, con người mới đoàn kết, gắn bó với nhau hơn.
18
Văn mẫu lớp 12 nêu cảm nhận về bài thơ Đò Lèn

Tuổi thơ và quê hương luôn là những kỉ niệm cháy bỏng trong nỗi nhớ của nhà thơ Nguyễn Duy. Nỗi nhớ ấy ngày đêm da diết, vấn vương từng bước đi trong đường đời của nhà thơ người lính Nguyễn Duy. Thời thơ ấu, sớm mồ côi mẹ, Nguyễn Duy được bà ngoại hiền từ, nhân hậu nuôi nấng, thương yêu. Trong tâm hồn Nguyễn Duy, bà ngoại là hình ảnh gần gũi, thân thiết đến vô cùng. Đã có bao bài thơ Nguyễn Duy sáng tác khi đi xa người bà kính yêu đã trở thành những bài thơ đẹp nhất của hồn quê hương sâu lắng và mặn mà nỗi nhớ thương.
Có những bài thơ được Nguyễn Duy sáng tác để bộc lộ nỗi nhớ thương và biết ơn đối với người mẹ nơi quê xa, nhưng ở đó lại lâp lánh vẻ đẹp của hình ảnh người bà cao quý, tảo tần. Đối với Nguyễn Duy, bà là mẹ, là người đã cho cháu mình lòng yêu thương và cả sự hi sinh vô bờ bến. Bài thơ Đò Lèn đã trở thành một trong những bài thơ ngập tràn tình yêu thương đằm thắm như thế.
Có thể nói: Đò Lèn là một bài thơ hay, giản dị và dễ hiểu. Một bài thơ được khơi nguồn từ tình yêu quê hương và lòng biết ơn sâu sắc với người bà nặng công nuôi nấng, vỗ về thương yêu như bài Đò Lèn, thực sự đã đem đến cho người đọc một tình cảm nhân bản sâu sắc. Đò Lèn với bao câu thơ xúc động đó đã gợi cho người đọc nhiều xúc cảm về những kỉ niệm tuổi thơ của Nguyễn Duy bên người bà thân thiết, giữa quê hương êm đềm một thời quá khứ.
Vì thế, những cái tên địa danh thuộc huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, quê hương của Nguyễn Duy đã được nhà thơ nhắc đến thật nhiều như bao tình trìu mến dành cho mỗi một nơi: nào là cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng, Đồng Quan, Ba Trại… Tất cả hiện lên để gắn với kỉ niệm ấu thơ day dứt lòng người. Và tất cả đã lùi vào quá khứ, nhưng đó lại là một quá khứ đẹp đến vô cùng. Cái "thuở nhỏ của "tôi" được Nguyễn Duy nhớ kỹ đến từng cử chỉ của con trẻ nghịch ngợm: đi câu cá ở cống Na, níu váy bà vì ngơ ngác giữa chợ Bình Lâm: sợ lạc mất người bà thân thiết hay cái gì cũng lạ lẫm đối với chú bé sớm thiếu thốn tình thương vỗ về? Rồi cùng bạn nhỏ "tôi" leo lên "bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật". Rồi cả cái ưò "ăn trộm nhãn chùa Trần" cũng được "cái tôi" Nguyễn Duy nhớ đến trong kí ức long lanh giọt nước mắt ngậm ngùi.
Rồi "đền Cây Thị", "đền Sòng" với phảng phất "mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm" cũng trở thành kỉ niệm sâu nặng ân tình trong trái tim yêu thương của người con đi xa quê lâu lắm chưa trở về. Thế mà, những bước "chân đất đi đêm xem lễ", "điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng" và cả sắc màu của đời sống tâm linh lại bỗng trở thành rõ nét, rõ hình trong nỗi nhớ của Nguyễn Duy. Nét và hình ấy làm xao xuyến tất cả những ai đã đi qua thời thơ bé đáng yêu, bây giờ nhớ lại chợt thấy lòng se thắt tiếc nhớ.
Nào đâu chỉ có tiếc nhớ mà thôi, vì còn có cả lời xót xa, ân hận cho một sự dại khờ. Bởi vì:
Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở Đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn.
Người bà của "tôi" vất vả, nhọc nhằn như thế đó. Bước chân "thập thững" qua suốt những nơi ở quê "tôi" nơi Hà Trung, rồi đến cả những nơi thuộc giáp ranh Ninh Bình cũng có bước "bà đi". Hình tượng người bà vì thế đã có sức ám ảnh, cuốn hút nhà thơ và cả những ai từng có một người bà, người mẹ, người chị lam lũ suốt bốn mùa như thế. Bà của "tôi" là Tiên, là Phật, là Thánh, Thần. Dù "tôi" có ngây thơ sống giữa hai bờ hư thực, dù "cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng" thì "bà tôi" vẫn cứ mãi là hình ảnh thánh thiện đến trong trẻo ở trong "tôi". "Cái năm đói" trong quá khứ có ý nghĩa gì đâu! Vì với tôi, đứa cháu bé bỏng hồi nào của bà, nay dù có lớn khôn thì hình ảnh trong veo ấy vẫn còn đó quyện lẫn mùi "thơm huệ trắng, hương trầm". Bước chân vững vàng hôm nay của Nguyễn Duy qua mọi nẻo đường cuộc sống luôn chập chờn êm đềm quá khứ thần tiên về "bà tôi".
Rồi nhọc nhằn đâu đã hết đối vđi "bà" của "tôi". Chiến tranh tàn khốc cơ cực càng nhiều không kể xiết:
Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn.
Bà của "tôi" vẫn sừng sững một ngoan cường giữa cuộc đời trần trụi vẫn tảo tần, vẫn chịu đựng tất cả để tồn tại, để thách thức mọi khổ đau. "ga Lèn " quê hương yêu dấu vẫn đậm bóng liêu xiêu, vẫn in "bước cao thấp" của "bà tôi". Bà vẫn chờ đợi tin tức đứa cháu yêu thương của bà. Cháu sẽ về với bà. Bà ơi, dù nhà, đền Sòng, chùa chiền và cả Thánh, Phật có bay đi hết, nhưng vẫn còn đây một bà Tiên đức độ giữa cuộc đời của cháu phải không? Bà Tiên ấy đã tiếp thêm sức mạnh đến vô tận cho cuộc đời một Nguyễn Duy luôn vươn tới mãi. Dù đó là một Nguyễn Duy:
Khi tôi biết thương bà tôi đã muộn
Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi.
Bài thơ Đò Lèn kết thúc bằng nỗi nhớ, sự ân hận muộn màng của cháu là "tôi" dành cho "bà". Nhưng tất cả lại là những câu thơ chan chứa yêu thương và sự ấm áp nhất. Bởi ai đã hiểu hết sự hi sinh của những người bà, người mẹ như Nguyễn Duy thì người đó chính là người trưởng thành nhất và người đó luôn có trái tim nhân ái, nồng ấm nhất giữa trần gian phàm tục này.
19
Văn mẫu lớp 12 phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi

Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Nguyễn Đình Thi là người đa tài. Thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện sự tìm tòi về hình ảnh. Bài thơ “Đất nước” chính là những tìm tòi độc đáo nhất. Bài thơ lấy hình tượng đất nước làm trung tâm với hai màu sắc vừa tươi đẹp vừa bất khuất.
Trước hết, Nguyễn Đình Thi cảm nhận đất nước trong mùa thu hoài niệm và mùa thu hiện tại. Mùa thu trở thể hiện nối tiếp từ hiện tại về quá khứ rồi trở lại hiện tại.
Thi sĩ mở đầu “Đất nước” bằng một vài chiêm nghiệm:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới”
Không gian vô cùng tươi sáng của một buổi sớm thu đặc trưng quê hương Việt Nam. Một chút mùi vị “hương cốm” gợi lòng người bao điều.
“Cốm làng vòng thơm mát những vòng tay”
Người ta bỗng nhớ những câu văn đầy đặc sắc Hà Nội trong thơ Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng… Người ta nhớ về người mẹ, người bà, người em thảo thơm. Thật bình dị và thân thương!
Từ hương cốm, mùa thu năm xưa hiện về:
“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.”
Hai câu đầu là cảnh, hai câu sau là người. Cảnh và người hợp hảo trong cuộc chia ly năm ấy. Mỗi câu từ chứa một nét chạm khắc thú vị như cái buồn vắng lặng của “những phố dài”, chút “chớm lạnh” cô đơn, đẹp nhưng buồn của cái “xao xác” và chút “hơi may”. Thiên nhiên đẹp nhưng buồn còn lòng người cũng không nguôi cảm giác đơn côi. Người ra đi tựa thế Kinh Kha đầy quyết tâm. Người ở lại chùn chân dưới lá thu bay. Hình ảnh thơ vừa giàu chất cổ điển vừa đầy tinh thần hiện đại. Cuối cùng, thi sĩ về với mùa thu hiện đại.
“Mùa thu nay khác rồi”
Thi sĩ reo vang về thu nay với tâm trạng phơi phới. Từ trong tư thế “đứng vui”, “phấp phới” mà tác giả cảm nhận được thiên nhiên như “thay áo mới”, “Trong biếc”, “nói cười”… Mùa thu ngày nay đầy hứng khởi và niềm vui sống. Từ đó, tâm trạng đơn côi xưa cũ đã thay thế cho tâm trạng hào phóng, tấm lòng rộng mở. Nó được chứng minh từ những hình ảnh trải rộng về địa lí “trời xanh”, “núi rừng”, “cánh đồng”, “ngả đường”, “dòng sông”… Phụ từ “đây” như khoe như mời mọc tận hưởng. Hẳn thi sĩ đang tự hào về quê hương lắm!
Cùng với việc thể hiện đất nước tươi đẹp trong mùa thu, Nguyễn Đình Thi còn khắc họa hình ảnh đất nước trong chiến tranh. Đó là một đất nước kiên cường và bất khuất:
“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!”
Đất nước như có một sức sống bền bỉ. Đất nước anh dũng, kiên cường đã thành truyền thống, điều ấy khẳng định qua cụm từ “chưa bao giờ khuất”. Mặt khác, những từ láy “đêm đêm”, “rì rầm” thể hiện sức sống tiềm ẩn, sự tự cường trong lớp trầm tích ngàn năm.
Đất nước đau thương mà quật khởi vô cùng:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều”
Thán từ “ôi” như niềm cảm xúc dâng trào khi nhìn lại đất nước. Đất nước chìm trong đau thương với “chảy máu”, “đâm nát”. Tác giả tố cáo đanh thép tội ác của giặc khi giày xéo quê hương.
Thế rồi, đất nước cũng quật khởi vô cùng. Nguyễn Đình Thi đã sử dụng biện pháp đối lập để thể hiện. Đó là sự đối lập giữa tàn bạo ác liệt của cuộc chiến đấu hiện lên trong “những năm đau thương”, “xiềng xích”, “súng đạn” với sức mạnh quân ta “ngời lên”, “bật lên”, “không khoá được”, “không bắn được”, “đứng lên”… Đó là sự đối lập giữa vất vả lam lũ “Ngày nắng đốt”, “đêm mưa dội” với tương lai ngời sáng “trời đất mới”, “ánh bình minh”…
Cuối cùng, cả đất nước đọng lại trong tư thế “rũ bùn đứng dậy”:
“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà”
Bốn câu thơ lục ngôn với giọng đanh, chất chứa cảm xúc của thi sĩ. Hình ảnh “người lên như nước vỡ bờ” hay “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” thể hiện sức mạnh cộng đồng vừa đau thương vừa anh dũng. Cũng từ cái kết này, người đọc thấy được niềm tin vào chiến thắng và tương lai của đất nước mà Nguyễn Đình Thi luôn hướng tới.
Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi rất đặc sắc trong cách sáng tạo ngôn từ, diễn đạt liền mạch đầy cảm xúc, giọng thơ phong phú và nhiều hình ảnh thú vị giàu sức gợi. Nguyễn Đình Thi đã mang tới một bài ca về đất nước đậm nét đặc trưng và tinh thần chung của người Việt.
20
Văn mẫu lớp 12 phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm

Mặt đường khát vọng là tập trường ca hùng tráng được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971. Bản trường ca khái quát quá trình thức tỉnh của tuổi trẻ các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam. Họ nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ; hướng về nhân dân, về đất nước; ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng.
Đất Nước có thể coi là chương hay nhất trình bày sự cảm nhận và lý giải của tác giả về đất nước, cũng đồng thời thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của cả bản trường ca, đó là tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân". Trình tự triển khai mạch suy nghĩ và cảm xúc của tác giả khá chặt chẽ nhưng cũng rất phóng túng. Đoạn thơ mở đầu bằng những lời định nghĩa say sưa về đất nước. Tiếp đó là sự hình dung về đất nước qua chiều dài thời gian - lịch sử, qua về rộng của không gian - lãnh thổ địa lí và qua chiều sâu văn hóa - phong tục, lối sống, tính cách của người dân Việt Nam, với một niềm tự hào sâu sắc. Từ ba bình diện này, lời thơ hào hứng, giàu chất suy tư hướng đến tư tưởng chủ đạo: "Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân". Mạch cảm xúc và suy tư của bài thơ trôi chảy một cách tự nhiên, vừa chặt chẽ vừa đầy hứng khởi, đồng thời lại cũng có những vang động sâu xa.
Trong phần đầu của đoạn trích, bằng hình thức trữ tình - chính luận, nhà thơ đã đưa ra định nghĩa riêng của mình về đất nước bằng những cảm nhận về đất nước trong cổ tích, ca dao. Lời thơ định nghĩa thoát khỏi những khái niệm khó khăn để trở thành một cuộc chuyện trò gần gũi, thân mật mà bay bổng. Mức độ đậm đặc của các chất liệu lấy từ cổ tích, truyền thuyết, ca dao, dân ca, huyền thoại.... tạo cho đoạn thơ đầu một âm hưởng đầy quyến rũ. Những câu thơ như:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "Ngày xửa ngày xưa..."mẹ thường hay kể
Đoạn thơ đầu làm mờ đi khái niệm đất nước là của các vương triều. Ngay từ lúc sơ khai, nó đã là của nhân dân. Định nghĩa đất nước bằng sự lựa chọn chất liệu từ văn hóa dân gian, đó là một ẩn ý của Nguyễn Khoa Điềm bời văn hóa dân gian của nhân dân. Cách định nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm là một sự khám phá mới mẻ, độc đáo tạo ra sự hấp dẫn và thú vị đối với người đọc.
Cách định nghĩa về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã chạm được vào những gì thiêng liêng nhất, lớn lao nhất nhưng cũng lại gần gũi và thân thiết nhất đối với mỗi chúng ta. Nõ dễ gợi cho ta những suy ngẫm về quá khứ, về lòng tự hào dân tộc. Và bởi thế, nó thức tỉnh ý thức dân tộc và tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với nhân dân trong mỗi chúng ta.
Phần sau của đoạn thơ từ "Những người vợ nhớ chồng" đến hết đoạn trích là phần tập trung làm nổi bật tư tưởng "Đất nước của nhân dân". Trong phần này, tư tưởng đã quy tụ mọi cách nhìn nhận và đưa đến những phát hiện sâu sắc và mới mẻ của tác giả về địa lí, lịch sử và văn hóa của đất nước.
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Quả là những phát hiện rất mới về thiên nhiên đất nước. Những núi Bút, non Nghiên, núi Vọng Phu, hòn Trống Mái... vốn đã rất quen thuộc nay bỗng trở nên thật lạ. Nó không phải là sản phẩm của tạo hóa mà là tâm hồn, là số phận của nhân dân. Đến đây, thiên nhiên, tạo hóa không phải là cái làm nảy sinh ra những câu chuyện đầy huyền thoại mà chính những câu chuyện về những tâm hồn, những số phận của con người trong quá khứ làm cho những danh thắng kia có tâm hồn, làm cho nó sống mãi. Cái nhìn rất thơ của tác giả đi đến một khái quát đầy thấm thía:
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...
Tiếp nối những câu thơ khám phá độc đáo về thiên nhiên là những câu thơ khám phá vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam, cũng như vai trò, vị trí của con người Việt Nam trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là những con người yêu thương sâu sắc, thủy chung tình nghĩa; là những con người cần cù lao động, anh hùng trong đánh giặc; là những con người "không ai nhớ mặt đặt tên" nhưng chính họ "đã làm ra Đất Nước". Họ là những người âm thầm làm nên lịch sử, âm thầm gìn giữ những nét văn hóa của dân tộc qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử dân tộc.
Từ những khái quát giản dị nhưng đầy tính nhân văn, tác giả khẳng định:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.
Đó là một chân lý. Một chân lý đã được nhận thức trong suốt quá trình phát triển dài lâu của lịch sử nhưng chỉ đến văn học Việt Nam hiện đại, nó mới đạt đến đỉnh cao, mới cất lên thành những tuyên ngôn đầy tự hào và hang động sâu xa.
- top
- văn mẫu
- văn mẫu lớp 12
- văn mẫu lớp 12 đáng xem
- văn mẫu lớp 12 hay nhất
- topshare
- văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- bài văn mẫu
- bài văn mẫu lớp 12
- bài văn mẫu lớp 12 đáng xem
- bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- top văn mẫu
- top văn mẫu lớp 12
- top văn mẫu lớp 12 đáng xem
- top văn mẫu lớp 12 hay nhất
- top văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- top bài văn mẫu
- top bài văn mẫu lớp 12
- top bài văn mẫu lớp 12 đáng xem
- top bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- nghị luận
Phù hợp với bạn
29-05-2025 Thông Còi
29-05-2025 Thanh Thu
11-01-2024 Chanh
22-01-2024 Chanh