Top 50 bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất giúp học sinh trau dồi cách hành văn
- 2,391 views
- 1 likes
Đề văn, bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất là cái khuôn sẵn có bổ trợ học sinh khối 12 trong việc tinh chỉnh lối viết văn, hành văn, thi cử lẫn tham dự những cuộc thi có dính đến văn chương khác nhau. Văn mẫu lớp 12 phải đạt tới độ giúp học sinh thông suốt, trình bày câu cú chỉn chu, lời lẽ liền mạch, bám sâu và sát vấn đề đưa ra. Văn mẫu lớp 12 trọng yếu xoay vần quanh dạng nghị luận (văn học / xã hội), phân tích rốt ráo một khía cạnh nào đó, đưa nhiều dẫn chứng hay để học sinh 12 ngấm nhuần trọn vẹn. Dưới đây topshare xin gửi tới bài viết top bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất đủ sức làm tài liệu trên hành trình học văn của các em. Xem ngay nhé!
26
Văn mẫu lớp 12 phân tích tác phẩm Những ngày đầu của nước Việt Nam mới

"Những năm tháng không thể nào quên" của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong những hồi kí cách mạng đặc sắc nhất, độc đáo nhất. Những sự kiện chính trị, những mẩu chuyện lịch sử... được tác giả kể lại, bình luận và đánh giá đã thể hiện tầm vóc vĩ đại của nhân dân ta, của Đảng ta và Bác Hồ trong những năm đầu nhà nước công nông bị bao vây bởi thù trong giặc ngoài. Cuốn hồi kí đã thể hiện bản lĩnh chính trị kiên cường, nhân cách vãn hóa của một vị tướng tài ba khi tái hiện những năm tháng không thể nào quên ấy. Tác phẩm này được tác giả viết từ mùa xuân năm 1970 và hoàn thành vào mùa xuân năm 1972.
"Những ngày đầu của nước Việt Nam mới" trích ở chương XII, phần thứ nhất cuốn hồi kí "Những năm tháng không thể nào quên". Đoạn đầu, tác giả dùng phép so sánh để nhận diện và đánh giá một chặng đường lịch sử 25 năm (1945-1970) của đất nước ta, dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch.
Đã rất xa, cái ngày mà nước Việt Nam chúng ta chưa có tên trên bản đồ thế giới. Tổ quốc ta có mấy ngàn năm lịch sử cùng với hai nước láng giéng Căm-pu-chia, Lào "mang một cái tên mơ hồ" do bọn thực dân đặt ra: Ấn-độ-chi-na thuộc Pháp.
Cũng đã xa rồi, cái ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn là "một hòn đảo Tự do" hiện lên giữa "những lớp sóng cồn trên biển cả mênh mông" của chủ nghĩa tư bản ở miền Đông Nam châu Á, khi mà "anh em bè bạn còn chưa mấy ai nhận ra ta "...
Ngày nay (năm 1970) thời kì làm mưa làm gió của chủ nghĩa đế quốc đã qua. Mỗi hành động kẻ cướp của chúng trên bán đảo Đông Dương đều "không tránh khỏi bị trừng phạt"; mỗi tội ác của chúng gây ra tại đây đều "động tới lương tri, tình cảm" của hàng trăm triệu con người trên trái đất; mọi cách tô son trát phấn của chủ nghĩa thực dân đối với bọn ngụy quyền tay sai "đều hoài công, vô ích".
Tiếp đó, tác giả nêu lên một số sự kiện lịch sử như sự ra đời của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam lập tức được sự hân hoan chào đón của cả loài người tiến bộ từ lâu. Sự thành lập Chính phủ vương đoàn kết dân tộc Căm- pu-chia được hàng chục nước gần xa công nhận, để chỉ ra hiện thực cách mạng vô cùng tươi sáng, lạc quan "ngày nay". Tác giả nhắc lại "bóng ma trong dĩ vãng" của mấy trăm vạn quân Quốc dân đảng Trung Hoa, "những ngày tàn" của Tưởng Giới Thạch trên đảo Đài Loan để chỉ ra sự thay đổi lớn lao của thế và lực cách mạng mà "ta thật khó hình dung lại những giờ phút hiểm nghèo khi gần hai chục vạn quân Tưởng từ mấy ngả ập vào miền Bắc ".
Tác giả trang hồi kí đã mở ra trước mắt chúng ta một bức tranh về chặng đường lịch sử cách mạng Việt Nam. Những tương phản so sánh được nêu lên đầy ấn tượng, tạo ra cảm hứng lạc quan, tin tưởng, tự hào trong lòng độc giả mỗi chúng ta.
Đoạn thứ hai, tác giả nhắc lại muôn vàn khó khăn mà cách mạng và nhân dân ta phải trải qua trong những ngày đầu. Đảng ta mới mười lăm tuổi đã giành được chính quyền, đã đem lại mùa xuân trên dải đất ông cha để lại, nhưng tin vui đó "chưa thể báo với bạn bè xa gần một cách trọn vẹn". Nước Việt Nam Dân Chủ cộng hòa mới sinh "nằm giữa bốn bề hùm sói" phải mưu trí, dũng cảm đấu tranh để "sống còn", phải tìm dùng những phương pháp đau đớn "để cứu vãn tình thế".
Về chính trị còn quá nhiều khó khăn. Tuy đã qua thời kì "ẩn náu, lẩn tránh, về sống giữa đồng bào" nhưng mọi hoạt động của Đảng "vẫn tiến hành theo phương thức bí mật"; những cán bộ của Đảng "chưa ra làm việc công khai"; hầu hết các đảng viên đều công tác "dưới danh nghĩa những cán bộ Việt Minh", thế mà, "kẻ thù vẫn nhận ra ta". Chính quyền cách mạng được thành lập nhiều ngày "vẫn chưa được nước nào công nhận". Bọn tướng lĩnh Tưởng Giới Thạch coi chính quyền của ta là chính quyền "chỉ tồn tại trên thực tế", không phải là một chính quyền "tồn tại về pháp lí".
Tình hình kinh tế hết sức khó khăn; ruộng đất bỏ hoang, nạn hạn hán, lụt lội kéo dài, một số nhà máy Nhật trao trả chưa thể cho chạy được, hàng hóa khan hiếm, việc buôn bán với nước ngoài đình trệ.
Về tài chính, ta chưa phát hành được tiền Việt Nam; kho bạc giành được chỉ có một triệu bạc rách; Ngân hàng Đông Dương "luôn gây rối loạn về mặt tiền tệ"; bọn Tưởng tung rất nhiều tiền Quan kim, làm cho tài chính và việc buôn bán của ta "càng nguy ngập".
Đời sống của nhân dân ta rất thấp và khó khăn: không có công ăn việc làm, nhiều nơi đồng bào phải ăn cháo, lác đác có người chết đói, dịch tả phát sinh; quân Tưởng lại đem thêm vào dịch chấy rận.
Cuộc xâm lăng của giặc Pháp "nổ ra rất sớm" tại Nam Bộ làm cho tất cả mọi khó khăn của đất nước và dân tộc "thêm trầm trọng" làm cho vận mệnh Tổ quốc ta đã có lúc như "ngàn cân treo sợi tóc".
Có lúc người đọc chúng ta ngày nay, sau hơn nửa thế kí cảm thấy nghẹt thở khi đọc đoạn hồi kí trên đây. Đó là một thời kì vô cùng khó khăn mà "con thuyền cách mạng đang luồn những mỏm đá ghềnh để lướt tới". Tác giả đã truyền cho thế hệ hôm nay và những thế hệ mai sau biết được một cách cụ thể về những khó khăn hiểm nghèo mà Bác Hồ, và cha anh chúng ta phải gánh chịu, phải đối phó vượt qua để "sống còn".
Đoạn thứ ba nói về sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ để chiến thắng mọi khó khăn, thử thách.
Cách mạng đã giành được chính quyền, dù "mới bắt tay làm lần đầu", nhưng tình hình đó "đã khác trước". Ta phải "củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng" đó là vấn đề cấp bách.
Từ thượng tuần tháng Chín (năm 1945), Chính phủ lâm thời ban hành nhiều sắc lệnh, nghị định.
Tác giả đã kể lại những việc làm to lớn của chính quyền cách mạng trong những ngày tháng khó khăn ấy. Giải tán hệ thống quan lại cũ, đập tan hoàn toàn bộ máy chính quyền của thực dân, phong kiến, quyết định sẽ mở tổng tuyển cử trong cả nước để bầu ra Quốc dân đại hội (Quốc hội), ra sắc lệnh tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp, tất cả do "chính nhân dân lựa chọn, trực tiếp bầu ra". Nhờ đó mà chính quyền nhân dân được "củng cố vững chắc ở cơ sở", khối đoàn kết của toàn dân được "mở rộng" thực hiện "công nông chuyên chính".
Bản dự án Hiến pháp đầu tiên được công bố để toàn dân đóng góp ý kiến vào Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chính phủ ra sắc lệnh giảm tô 25%; xóa bỏ tất cả các món nợ lâu đời ở nông thôn; ban hành chế độ ngày làm tám giờ; công nhân có quyền theo học các lớp huấn luyện quân sự, v.v...
Sắc lệnh đặt ra Bình dân học vụ trong toàn cõi Việt Nam. Việc học chữ quốc ngữ trở thành bắt buộc và không mất tiền.
Thuế thân và nhiều thứ thuế vô lí do chính quyền thực dân đặt ra trước đây "đều bị bãi bỏ".
Ngày 4 tháng Chín, Chính phủ lập Quỹ Độc lập và tổ chức Tuần lễ vàng. Có biết bao nghĩa cử cao quý cảm động, Chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân cả nước đã quyên góp được hai mươi triệu đồng và ba trăm bảy mươi ki-lô vàng.
Qua đó, ta thấy sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Bác Hồ, nhiệt tình cách mạng và tinh thần yêu nước của nhân dân ta được khơi dậy, tạo nên một sức mạnh phi thường. Đặc biệt, cách mạng đã mang lại quyền tự do dân chủ, quyền công dân cho cả dân tộc. Hơn bao giờ hết, cách mạng và chính quyền cách mạng là của dân, do dân và vì dân.
Đoạn thứ tư, tác giả nói về vai trò của Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng và của dân tộc. Viết thư gửi Uỷ ban nhân dân ở các tỉnh, huyện và làng, Người nhắc: "Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng là đầy tớ của dân". Người kêu gọi: "Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm". Người nói: Phải "dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân" để mưu cầu "hạnh phúc cho dân", để đem lại "một niềm hạnh phúc trọn vẹn" cho dân. Đại tướng cho biết: "Hạnh phúc cho dân" là "lí tưởng của Người", là "tấm lòng của Người". Hạnh phúc cho dân là mục tiêu cao cả và thiêng liêng mà chính quyền cách mạng phải phấn đấu, bởi lẽ như Người đã nói: "Nước độc lập mà dân không được hạnh phúc thì độc lập cũng không có nghĩa lí gì".
Trong bài báo Tự phê bình, Người chỉ ra bốn khuyết điểm của chính quyền cách mạng, rồi Người chân thành nói: "Những sự thành công là nhờ đồng bào cố gắng. Những khuyết điểm kể trên là lỗi tại chúng tôi".
Tác giả hồi kí đã phân tích và bình luận mới quan hệ tốt đẹp giừa Nhà nước và chính quyền cách mạng với nhân dân. Nhân dân lao động "đã nhận thấy rõ Nhà nước hôm nay đúng là Nhà nước của mình"; Nhà nước "đang hằng ngày, hằng giờ bảo vệ quyền lợi và mang lại hạnh phúc cho dân". Và nhân dân tin tưởng "Những gì hiện nay nó chưa làm được, thì nhất định nó sẽ làm được trong tương lai".
Kết thúc chương XII, Đại tướng đã dành những lời tốt đẹp nhốt nói về tấm lòng của nhân dân đối với vị lãnh tụ kính yêu: "Đồng bào đã nhận thấy ở Bác Hồ, hình ảnh tượng trưng cao đẹp nhất của dân, của nước của cách mạng, của chính quyền mới, chế độ mới".
Hồi kí thường mang đậm dấu ấn cá nhân; người viết hồi kí thường sử dụng phương thức biểu đạt tự sự để kể lại những gì mình đã tham dự, đã sống và hành động, những tâm sự, tình cảm của mình trong quá khứ. Do đó, hồi kí phải hết sức chân thực.
Hồi kí "Những năm tháng không thể nào quên" của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mang đậm dấu ấn dân tộc và chính quyền cách mạng. Tác giả đã sử dụng các phương thức hồi tưởng, tự sự kết hợp với phân tích, bình luận, đánh giá các sự kiện cách mạng và lịch sử. Chủ thể trữ tình trong bản hồi kí của Đại tướng là dân ta, Đảng ta, Bác Hồ; thấp thoáng mới thấy nhân vật trữ tình "tôi" xuất hiện. Màu sắc kí sự, biên niên sử là nét riêng, màu sắc riêng làm nên tính độc đáo "Những năm tháng không thể nào quên".
Niềm tự hào về Đảng ta, nhân dân ta, lòng yêu kính và biết ơn Bác Hồ vĩ đại là những tình cảm đẹp nhất, sâu sắc nhất tỏa sáng trẽn từng trang hồi kí. Sự trầm tĩnh và khiêm tốn của tác giả là nét đẹp tâm hồn của vị tướng tài ba
- tác giả "Những năm tháng không thể nào quên", làm người đọc gần xa thêm phần ngưỡng mộ.
27
Văn mẫu lớp 12 phân tích giá trị nhân đạo trong truyện Vợ Nhặt của Kim Lân

"Vợ nhặt" là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của Kim Lân. Truyện kể về chuyện anh cu Tràng nhà nghèo ở xóm ngụ cư đã nhặt được vợ khi trận đói đang diễn ra kinh khủng, người chết đói đầy đường.
Truyện ngắn đã phản ảnh nỗi đau khổ và niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc của người nghèo, qua đó nói lên số phận con người trong xã hội cũ, cái đêm trước khi cách mạng bùng nổ. Giá trị lớn nhất của truyện "Vợ nhặt" là giá trị nhân đạo.
Cho đến nay trong nền văn học hiện đại Việt Nam chưa có tác phẩm nào viết về trận đói năm Ất Dậu - 1945 thật hay, thật xúc động như truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân. Cảm hứng nhân đạo dào dạt từ đầu truyện đến cuối truyện.
Truyện "Vợ nhặt" đã phản ánh nỗi đau khổ tột cùng của nhân dân ta, của người nghèo trong trận đói năm Ất Dậu. Đoàn người từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau lên "xanh xám như những bóng ma" nằm ngổn ngang khắp các lều chợ. Quạ đen đậu trên nhừng ngọn cây bay vù lên "như những đám mây đen" trên nền trời. Mùi gây của xác người vẩn lên khắp xóm chợ. Người chết đói như ngả rạ. Sáng nào cùng ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường!
Đói và chết đói đâu chỉ riêng ai! Mẹ con Tràng, cái nhà "vắng teo đứng rúm ró" trên mảnh vườn đầy cỏ dại. Của nhà là một tấm phên rách. Niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. Cơ ngơi ấy đã làm cho nàng dâu mới thất vọng tiếng thở dài". Bà cụ Tứ "mặt bủng beo u ám". Anh cu Tràng "bước mệt mỏi", cái đầu "trọc nhẵn chúi về đằng trước" với bao lo lắng chật vật. Đám trẻ con xóm chợ, trước đây tinh nghịch thế, giờ đây chúng nó "ngồi ủ rủ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích". Trước nhà kho trên tỉnh có mấy chị con gái "ngồi vêu ra". Đặc biệt nhân vật "thị", cái đói đã cướp đi tất cả. Không họ tên, tuổi tác, không gia đình, anh em. Không quê hương bản quán. Hình hài tiều tụy, xơ xác đáng thương. Áo quần "tả tơi như tổ đỉa". Thị "gầy sọp hẳn đi", khuôn mặt lưỡi cày "xám xịt", chỉ còn thấy hai con mắt. Con đường phía trước của thị là vực thẳm, là chết đói. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả. Chị nghe Tràng nói "muốn ăn gì thì ăn", thấy anh ta vỗ vỗ vào túi khoe "rích bố cu", hai con mắt "trũng hoáy" của thị tức thì "sáng lên". Tình tiết thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, trông có vẻ thô lỗ, nhưng không đáng chê, trái lại rất đáng thương. Thị đang đói, thị đã nhịn đói nhiều ngày, thị cần được ăn, thị cần được sống. Kim Lân rất nhân hậu khi nói về thị, khi nói về sự đói khát của người nghèo.
Cái xóm ngụ cư càng về chiều "càng xơ xác, heo hút" nhà cửa "úp súp, tối om", những khuôn mặt "hốc hác u tối". Bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ là một nồi cháo cám. Người con gái giữa trận đói như một thứ vứt đi, có thể "nhặt" được. Thị lấy chồng không một quả cau, không một lá trầu, chẳng có "quan tám tiền cheo, quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau". Về nhà chồng, đứng trước mẹ chồng, nàng dâu mới "khép nép", "cúi mặt xuống tay vân vê tà áo đã rách bợt". Tối tân hôn, "tiếng khóc tỉ tê" của những gia đình có người mới chết đói vọng đến thô thiết não nùng. Sáng tinh mơ tiếng trống thúc thuế dội lên từng hồi "dồn dập, vội vã". Bằng những chi tiết rất hiện thực, rất điển hình, Kim Lân đã thể hiện tình cảm xót thương, lo âu cho số phận của người nghèo khổ trước hoạn nạn, trước nạn đói đang hoành hành. Đáng quý hơn nữa, ông đã đứng về phía nhân dân, về phía người nghèo vạch trần và tố cáo tội ác của Nhật - Pháp bắt nhổ lúa trồng đay, bắt đóng thuế, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, gây ra trận đói năm Ất Dậu làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Truyện "Vợ nhặt" đã biểu lộ một tấm lòng trân trọng đối với hạnh phúc của con người. Cách kể của Kim Lân rất hóm hỉnh về tình huống anh cu Tràng nhặt vợ và những tình tiết xoay quanh nàng dâu mới. Chỉ một vài câu "tầm phơ tầm phào", Tràng đãi thị 4 bát bánh đúc thế mà hắn nhặt được vợ! Nhặt được vợ nhưng hắn cũng phải liều: "Chặc, kệ!". Hắn nghĩ thóc gạo này nuôi thân còn khó, lại còn "đèo bòng". Trên đường dẫn vợ mới nhặt được về nhà xin phép mẹ già, anh cu Tràng vui như mở cờ trong bụng. Kim Lân tả đôi mắt và nụ cười của anh con trai cục mịch này để làm nổi bật niềm hạnh phúc mới nhặt được vợ. Tràng "phởn phơ khác thường". Hắn "tủm tỉm cười nụ". Hai mắt "sáng lên lấp lánh". Có lúc cái mặt hắn "cứ vênh lên tự đắc với mình".
Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông "hay đáo để". Tràng khoe hai hào dầu, rồi cười hì hì, bị thị "phát đánh đét" vào lưng với câu mắng yêu: "Khỉ gió". Tràng nghển cổ thổi tắt phụt ngọn đèn con, bị thị mắng: "Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!". Những tình tiết ấy rất hay nói lên tình yêu mạnh hơn cái chết.
Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập quán ăn hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm, bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ, thương con và thương mình, bà nhận nàng dâu mới: "Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng". Tình thương của bà mênh mông, bà nghĩ "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được...". Bà dịu dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là "con". Lòng đầy thương xót, bà nói với hai con: "Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá...". Qua đó, ta càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao động nghèo khổ đứng trước tai hoạ, họ đã dựa vào nhau, san sẻ tình thương, san sẻ vật chất cho nhau để vượt qua mọi thử thách, hướng tới ngày mai với niềm tin và hi vọng: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời...". Người đọc cảm thấy ngọn đèn "vàng đục" chiếu sáng trong mái lều đêm tân hôn của vợ chồng Tràng là ngọn đèn hi vọng và hạnh phúc ấm no.
Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất trong truyện "Vợ nhặt". Bà cụ Tứ gọi là "chè khoán... ngon đáo để". Bà tự hào nói với hai con là " xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy". Trong bữa cháo cám, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cảnh gia đình mẹ con vô cùng "đầm ấm hòa hợp" hạnh phúc. Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thổ có những bữa cơm nhiểu thịt cá ngon lành hơn, nhưng họ khồng bao giờ có thể quên được bữa cháo cám buổi sáng hôm ấy. Vị cháo cám "đắng chát" mà lại ngọt ngào chứa đựng bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi người nhà quê, ông hiểu sâu sắc tâm lí, tình cảm của họ. Ông đã làm cho những thế hệ mai hậu biết cái đắng chát trong cuộc đời của ông cha, cảm nhận được cái hương đời, cái tình thương của lòng mẹ,... mà không một thứ cao lương mĩ vị nào có thể sánh tày?
Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đổi đời của người dân cày Việt Nam. Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ con tinh nghịch reo lên: "Chông vợ hài". Việc Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm chợ cảm thấy "có một cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ". Bà cụ Tứ vui sướng vì con trai đã có vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm, tươi tỉnh "rạng rỡ hẳn lên". Vợ Tràng trở thành người đàn bà "hiền hậu đúng mực". Tràng như từ một giấc mộng bước ra. Anh ngủ dậy cảm thấy "êm ái lửng lơ". Hạnh phúc đến quá bất ngờ. Việc hắn có vợ sau một ngày một đêm mà hắn "vẫn ngỡ ngàng như không phải".
Sự đổi đời còn được thể hiện ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu dọn lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt. Hai cái ang nước được kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hót sạch. Mẹ chồng, nàng dâu mới, con trai, ai cũng muốn góp phần sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc. Họ không nghĩ đến cái chết mà hướng về sự sống, về hạnh phúc và sự đổi đời. Tràng cảm thây hắn đã "nên người", hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này!
Một chi tiết rất hay là vợ Tràng sau khi nghe tiếng trống thúc thuế đã báo tin ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Còn anh cu Tràng thấy trong óc mình "lá cờ đỏ bay phấp phới". Cách mạng sắp đến. Nạn đói sẽ bị đẩy lùi. Hình ảnh lá cờ đỏ cuối truyện không chỉ tô đậm giá trị nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng lạc quan đầy chấn động, như một dự cảm về ngày mai ấm no, hạnh phúc.
Hạnh phúc của Tràng và niềm vui của mẹ già tuy muộn mằn nhưng đáng quý và đáng trân trọng biết bao! cổ kim đống tây đã có ai nhặt được vợ? Cái đói do bọn Nhật, Pháp gây ra đã cướp đi tất cả tính mạng và phẩm giá con người. Một sự thật được khẳng định: niềm khao khát tình yêu và hạnh phúc, khao khát sống mạnh hơn cái chết. Cái vị đời ngọt ngào và tình người ấm áp đã tỏa sáng giá trị nhân đạo truyện "Vợ nhặt" mà ta trân trọng.
28
Văn mẫu lớp 12 phân tích truyện Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành

Nguyễn Trung Thành là nhà văn sinh ra ở vùng đất Thăng Bình, Quảng Nam, tên khai sinh của ông là Nguyên Ngọc. Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước lầm than khi phải trải qua hai cuộc kháng chiến lớn của dân tộc, hơn ai hết, ông trân quý và khâm phục những con người hy sinh hết mình cho cách mạng, cho Tổ quốc thân yêu.
Đặc biệt đối với vùng đất Tây Nguyên anh dũng cùng những con người bộc trực, dũng cảm, kiên trung một lòng gắn bó cách mạng được ông ưu ái và dành nhiều niềm thương yêu. Bởi vậy mà bao nhiêu cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên anh hùng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận để ông viết nên tác phẩm Rừng xà nu đầy thành công, trở thành một kiệt tác gắn bó với tên tuổi của mình.
Rừng xà nu được viết vào những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước oanh liệt. Tác phẩm được in trên tạp chí Văn nghệ giải phóng, trích trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Đây là bài ca ca ngợi bản lĩnh, ý chí sắt đá, bất khuất kiên cường của đồng bào Tây Nguyên.
Rừng xà nu quanh làng Xô man được tác giả giới thiệu trong đoạn đầu tác phẩm đầy độc đáo. Một rừng cây luôn "nằm trong tầm đại bác của đồn giặc", bị súng đạn bắn phá liên tục, sự hủy diệt vô cùng tàn bạo của quân giặc trước sức sống của thiên nhiên - " Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi xà nu cạnh con nước lớn". Một cảnh tượng đầy đau thương hiện ra trước mắt, bao nhiêu cây xà nu không cây nào là không bị trúng đạn, cây nào cũng bị vết thương loang lổ, loét mãi ra rồi chết.
Đạn đại bác hung tàn, không nhân nhượng trước vẻ đẹp kiêu hùng thiên nhiên, cây vừa lớn đã bị chặt làm đôi rồi đổ ào. Song, rừng xà nu ấy vẫn không chịu khuất phục, những cây cường tráng nhanh chóng tự chữa lành vết thương. Chúng vẫn tiếp tục sức sống mạnh mẽ của mình để dang rộng vòng tay mà che chở cho ngôi làng thân yêu. Cây nọ tiếp cây kia vẫn sinh sôi nảy nở, sự sống vẫn đâm chồi trước sự tàn phá của quân thù “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên".
Cây xà nu tự mình đứng lên, trường tồn và phát triển, dũng cảm hiên ngang trước bom đạn kẻ thù "hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng". Hình ảnh rừng xà nu hiện lên thật đẹp, thật đáng tự hào biết bao. Cây xà nu chính là biểu trưng cho vùng đất Tây Nguyên, là đại diện tiêu biểu cho con người Tây Nguyên, là hình ảnh ẩn dụ cho cốt cách, sức sống của đồng bào Tây Nguyên từ trước đến nay. Trong đau thương vẫn ánh dũng kiên cường, trong áp bức vẫn tràn trề hy vọng, vẫn mang ý chí đấu tranh, nguyện theo gương cách mạng, là sự sống bất diệt của buôn làng Xô man.
Sau hình ảnh xà nu, tác giả tiếp tục tái hiện chân thực cuộc sống và chiến đấu của người dân nơi đây. Họ là những thế hệ giàu lòng yêu nước, có niềm tin lớn lao vào cách mạng, là những gương anh hùng sáng chói với non sông, Tổ quốc. Đó là một Cụ Mết đại diện cho những thế hệ anh hùng đi trước đầy kinh nghiệm, bản lĩnh và giàu lòng yêu nước, luôn hướng cho dân làng những bước đi đúng đắn trong chiến đấu. Là một người nhìn xa, thấu hiểu dân làng, là một chỗ dựa tinh thần không thể thiếu của làng Xôman.
Với cụ "Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn". Chân lý “Chúng nó dùng súng, mình phải cầm giáo" của cụ như một lời tuyên ngôn trong cuộc chiến của dân tộc. Đó còn là một Tnú với những phẩm chất anh hùng. Khi còn nhỏ, anh sớm đã giác ngộ cách mạng, phấn đấu để trở thành những người như anh Quyết lãnh đạo cách mạng. Một cậu bé gan góc và đầy dũng cảm, giữa bao chiến trận đầy súng đạn của giặc, cậu bé giao liên vẫn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Khi bị bắt, Tnú vẫn một lòng trung thành dù bị tra tấn đầy ác độc, nhưng vẫn nhất quyết giữ bí mật. Sau khi vượt ngục, những tưởng được hạnh phúc bên vợ con thì giặc tiến vào diệt phong trào nổi dậy, một lần nữa Tnú phải chịu đau thương trước sự tra tấn và khổ đau khi vợ con bị giết mà không làm gì được. Càng trong đau thương, phẩm chất anh hùng càng ngời sáng trong Tnú, càng trong áp bức càng kiên cường đứng lên trả mối thù lớn cho vợ con, cho chính mình và cho dân làng Xô man yêu dấu.
Tiếng thét căm hờn là tiếng căm phẫn, xé lòng giữa cuộc chiến, là tiếng hiệu triệu người người đứng lên giết chết quân thù, bè lũ cướp nước. Bàn tay bị đốt mười ngón nhưng không thiêu rụi được ý chí của người con Tây Nguyên. Cuối cùng, Tnú cũng đã giết chết được thằng Dục, kẻ đã thẳng tay giết người thân của anh, trả mối thù sâu nặng bấy lâu. Tnú tiêu biểu cho thế hệ thanh niên trưởng thành trong cách mạng, tin yêu và đem hết sức mình phục vụ quân giải phóng.
Đó còn là những Dít, bé Heng,... thế hệ tiếp nối bao chiến công cha anh để cùng nhau chung sức đưa thắng lợi đi đến cuối cùng. Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, ngày càng trưởng thành, kiên cường chiến đấu xứng đáng với hi sinh của cha anh. Dường như, trong cuộc chiến khốc liệt, con người Tây Nguyên càng khẳng định được chính mình. Trong lầm than, đen tối, họ lại càng kiên dũng, ngời sáng tuyệt vời.
Rừng xà nu và nhân dân làng Xô man như hai mà một, đều chịu nhiều đau thương, đều vươn mình mạnh mẽ. Đó là sức sống bất diệt, là tinh thần bất khuất của con người Tây Nguyên nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng.
Bằng sự kết hợp tài tình giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, Nguyễn Trung Thành không chỉ ngợi ca vẻ đẹp trong nhân cách của người con Tây Nguyên mà qua đó còn đặt ra một vấn đề mang tính thời đại: Để tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ tự do cho đất nước trước nhất phải cầm vũ khí đứng lên.
29
Văn mẫu lớp 12 phân tích truyện Bắt sấu rừng U Minh Hạ

Nhắc đến Sơn Nam, người đọc hầu như ai cũng nghĩ đến một nhà khảo cứu sâu sắc, một nhà văn đầy tâm huyết về miền đất cực nam của tổ quốc. Hầu như tất cả các tác phẩm của ông đều tập trung vào đề tài này.
Riêng về sáng tác văn học, tác phẩm đặc sắc nhất và tiêu biểu nhất của Sơn Nam chính là tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau, trong đó, bắt sấu rừng u minh hạ là một trong các truyện ngắn nổi bật hơn cả của ông. Trên từng trang viết, Năm Hên, ông già bắt sấu, nhân vật chính của truyện đã hiện lên khá sinh động và lôi cuốn người đọc.
Rừng U Minh Hạ là một khu vực thiên nhiên còn hoang dại: Muỗi vắt nhiều hơn cỏ. Chướng khí mù như sương” (Thay lời tựa Hương rừng Cà Mau). Nơi mà những người dân miền cực nam Tổ Quốc đang khai khẩn và sinh sống. Từng ngày, từng giờ họ sẵn sàng đấu tranh với thiên nhiên và thú dữ để bảo tồn sự sống của mình.
Những con người “trên phá Sơn Lâm, dưới đâm Hà Bá”. Này đã có công làm cho mảnh đất nơi đây phì nhiêu, màu mỡ bằng cách bón vào lòng đất mới mồ hôi và xương máu của chính mình. Trong cuộc đấu tranh khắc nghiệt đầy sinh tử ấy đã xuất hiện không ít những con người đôn hậu, thật thà nhưng đầy mưu lược và dũng cảm Năm Hên Ông già bắt sấu trong truyện này đúng là một con người như thế.
Mang đậm nét tính cách của người nông dân Nam bộ trong buổi đầu tìm đất mới để sinh cơ lập nghiệp, ông Năm Hên, trước hết là một con người thật thà đôn hậu. Tuy là cung cách xuất hiện của ông rất lạ: Trong xuồng vỏn vẹn một lọn nhang trần và một hũ rượu. Từ sớm đến chiều, ông bơi xuồng tới lui theo rạch mà hát”.
Lại nữa, bài hát của ông nghe sao mà “ảo não rùng rợn” như thể đang ru dỗ cho một linh hồn oan khuất nào đó. Nhưng khi thấy bà con có vẻ nghi ngờ, thiếu tin tưởng về cách bắt xấu bằng tay không của mình, ông Năm Hên đã thật thà bộc bạch: Tôi đây không tài giỏi chi hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít, theo như người khác thị họ nói là bùa phép để kiếm tiền. Là một người thật thà, đôn hậu, ông Năm Hên hành động vì nghĩa, không màng lợi lộc riêng tư cho mình.
Ông tâm sự: “Nghề bắt sấu có thể làm giàu được, ngặt nỗi không màng thứ phú quí đó..”, Người đọc hiểu ra, khi mới đến đây xưng tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp, ông đã cải chính cách gọi về sự hành nghề của mình là bắt sấu chớ không phải câu sấu là thể hiện sự ẩn giấu một niềm tự hào thầm kín về công việc của mình, một công việc hoàn toàn vì nghĩa.
Thấy việc cần làm là làm, thấy người hoạn nạn là không ngại hiểm nguy ra sức giúp đỡ chẳng chút tính toán thiệt hơn. “Không màng thứ phú quí đó, đúng như lời nói ông già bắt sấu. Hình ảnh của ông không khỏi gợi chúng ta liên tưởng đến ông Ngư, ông Tiều, ông quán trong truyện Lục Vân tiên của Nguyễn Đình chiểu, như con người luôn ngời sáng một tinh thần hành động vì nhân nghĩa.
“Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng…
Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ”
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn
Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây”
Do bộc bạch hết sức chân thành về gia cảnh và động cơ nghề nghiệp của mình, ông Năm Hên đã tạo được niềm tin bước đầu của dân làng. Câu nói của ông lúc đầu: “Tôi đây không tài giỏi chi hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít” là câu nói khiêm tốn, thực tế cho thấy ông là người đầy mưu trí.
Cách bắt sấu của ông được Tư Hoạch kể lại quả thật là tài tình: Lửa châm vô sậy, đế, cóc kèn xung quanh bắt cháy xuống đám sậy để trong ao. Chập sau bị khói bay cay mắt, ngộp thở, phần thì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường đào sẵn hòi nãy… Ông đút vô miệng sấu một khúc mốp.
Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn, muốn há miệng cho rộng để nhà ra cũng không được và: Ông Năm Hên xách cây mác, nhắm ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ để cắt gân đuôi. Đuôi sấu bị liệt. Thế là mình yên trí, lấy dây cóc kèn trói thúc ké hai chân sau của nó lại, chừa hai chân trước để nó bơi tiếp mình…
Nghe chuyện nầy có người đã nhận xét: “Thực là bậc thánh của xứ nầy rồi! Mưu kế như vậy thực quả cao cường”. Cũng qua lời tường thuật lại chuyện bắt sấu một cách khá cặn kẽ của Tư Hoạch, ai cũng thấy rõ ông Năm Hên là người rất dũng cảm. Phải dũng cảm mới giữ vững được thái độ bình tĩnh trước lời sấu dữ mà chẳng chút nao lòng sợ sấu há miệng hung hăng đòi táp (ổng).
Ổng đút vô miệng sấu một khúc mốp. Chính nhờ lòng dũng cảm, bình tĩnh, nên ông Năm Hên đã đánh gục được đàn sấu ăn thịt người. Bốn mươi lăm con cá sấu bị ông thòng cổ cho người xuôi sông chở về. Loài “thủy quái ấy” ngoan ngoãn phục tùng cứ như là được thuần dưỡng rồi vậy. Với lòng dũng cảm, ông đã thực sự là chủ nhân của vùng đất rừng hoang dại này.
Chính môi trường sống khắc nghiệt đã khiến con người phải mài sắc mưu mẹo và tài trí của mình để sinh tồn. Trở lại tính cách của hình tượng ông già “bắt sấu rừng U Minh Hạ” này, ta thấy ông còn là một con người mang tâm sự u uất. Hãy nghe ông bày tỏ gia cảnh: Cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tôi…. Anh bị sấu ở Ngã Ba Đình bắt mất. Đây là một tổn thất lớn lao đối với ông. Bởi vậy ông thề quyết tâm trả thu cho anh mình.
Mười hai năm trôi qua kể từ ngày đó mối thù ấy vẫn không nguôi. Cảnh sấu xuất hiện ở rừng nhiều như trái mù u chín rụng lúc này được gợi lên trong lòng ông một nỗi đau nhức nhối tâm can, một nỗi cực lòng như chính ông đã chân thành bộc bạch với dân làng. Tâm sự đó, ông gửi vào lời hát:
“Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn hỡi!
Xa cây xa cối,
Xa cội xa nhành,
Đầu bãi cuối gành
Hùm tha, sấu bắt
Bởi vì thắt ngặt
Manh áo chén cơm
U Minh đỏ ngòm
Rừng tràm xanh biết!
Ta thương ta ta tiếc
Lập đàn giải oan….”
Thấy nhà văn miêu tả giọng hát của ông ảo não, rùng rợn, “Tiếng như khóc lóc nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ bi ải” người đọc đủ hiểu. Lại nữa nội dung bài hát buồn thảm. Đó không chỉ là lời tiếc thương của ông đói với người anh xấu số của mình mà đó còn là tiếng chiêu hồn tưởng nhớ đến, gọi về biết bao mảnh hồn người xa xứ vì “thắt ngặt manh áo chén cơm”. Giữa cảnh “U Minh Hạ đỏ ngòm, rừng tràm xanh biếc” đã phải thiệt mạng do “hùm tha, sấu bắt”…
Người đọc càng thêm thông cảm ông, một con người sống tinh thần phong phú sâu sắc nên không bận lòng đến cuộc sống vật chất. Vì thế mà hành trang trên đường đi bắt sấu dữ cứu giúp dân lành của ông thật đơn sơ: Trong xuồng có vỏn vẹn một lọn nhang trần và một hũ rượu.
Đặc biệt, tâm sự u uất của người thợ già chuyên bắt sấu nầy thể hiện rõ nét qua hình ảnh thảm thương đầy bí ẩn của ông ở đoạn cuối truyện, sau khi bắt được đàn sấu: áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay. Cứ tưởng như ông đang nhập đồng. Phải chăng ông thay mặt cho dân làng ở đây hát lên lời “Cầu siêu” cho biết bao oan hồn uổng tử đã vất vưởng lang than nơi “đầu bãi, cuối gành” buổi nào đã từng bỏ mạng vì cá sấu trong cuộc đấu tranh vì sự sinh tồn bao đời nay cho cư dân ở đây”.
Như thế, thông qua lời nói, hành động, thể hiện nội tâm nhân vật, đặc biệt là chỉ bằng vài chi tiết đơn sơ, nhà văn Sơn Nam đã thể hiện được tính cách nhân vật chính, ông Năm Hên, người thợ già chuyên bắt sấu ở rừng u Minh Hạ này một cách sinh động với sắc thái Nam bộ rõ nét là thật thà, đôn hậu đầy mưu trí và đặc biệt trọng nghĩa khinh tài.
Chúng ta đã đọc nhiều tác phẩm văn học từ sau Cách mạng tháng Tám, khắc họa khá thực, cụ thể và sinh động hình tượng người nông dân Nam bộ. Đó là những con người ít nhiều có dáng dấp tinh thần vị nghĩa của Lục Vân Tiên: thật thà, đôn hậu rất mực trung thành với chính nghĩa, với lí tưởng, với cách mạng, dũng cảm bất khuất trước kẻ thù.
Với nhân vật ông Năm Hên nói riêng, và truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ nói chung của nhà văn Sơn Nam, chúng ta được hiểu thêm một vẻ đẹp của người Nông dân Nam Bộ trong buổi đầu đi tìm đất mới, khai phá đất rừng hoang dại để mưu cầu sự sống còn. Dù mưu trí và dũng cảm đến đâu họ cũng không tránh khỏi biết bao gian lao nguy hiểm, nhiều lúc phải gặp cả những mất mát đau xót. Ngày nay được sống trên mảnh đất yêu thương này, đâu lẽ chúng ta quên lãng công đức của bao lớp tiền nhân…
30
Văn mẫu lớp 12 nêu cảm nhận về tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng

Mùa lá rụng trong vườn là cuốn tiểu thuyết tiêu biểu và đặc sắc của Ma Văn Kháng xuất bản năm 1985. Truyện lấy bối cảnh một gia đình truyền thống vào những năm 80 của thế kỉ XX, khi đất nước bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ sau chiến tranh, gây ra nhiều thay đổi. Truyện đã phản ánh chân thực những biến động trong xã hội thời bấy giờ và những ảnh hưởng to lớn của nó tới gia đình – tế bào của xã hội.
Mùa lá rụng trong vườn là một đoạn trích trong chương II của tiểu thuyết cùng tên, được tặng giải thưởng hội nhà văn Việt Nam năm 1986.
Chiều 30 Tết năm Bính Tuất ai trong nhà ông Bằng cũng mong chờ chị Hoài- vợ của anh Tường liệt sĩ cũng là con trai trưởng của cụ Bằng. Nay chị đã lấy chồng. Và như cầu được ước thấy, chị Hoài sau khi đi bộ một đoạn đường khá xa đã đến cổng nhà ông Bằng, tiếp đón chị đầu tiên là tiếng reo vui của Phượng, theo sau là Đông, Lý, Luận ai cũng tíu tít đón chị dâu cũ. Và nghẹn ngào nhất có lẽ chính là cảnh ông Bằng, cha chồng và con dâu trưởng gặp lại nhau với bao cảm xúc dâng trào.
Chị Hoài năm nay đã gần năm mươi tuổi, nhưng chị vẫn rất đẹp với dáng người thon gọn, đôi mắt đen láy, khuôn miệng tươi cười và người chị rất gọn. Chị đi bước nữa với anh làm ở Ủy ban xã, chị đang làm chủ nhiệm của hợp tác xã đan dệt thảm ngô, họ có bốn đứa con.
Chị Hoài về đây, mang theo rất nhiều quà quê từ gạo nếp, đến giò thủ, bột sắn dây, gói hạt giống mướp hương,….Chị Hoài và các em trai em dâu của nói chuyện, hỏi thăm nhau rôm rã, vui mừng vì lâu ngày mới được gặp nhau. Rồi sau đó, ông Bằng đi xuống, ông nhìn chị như chực trào nước mắt. Chị Hoài nhìn ông, và khóc, chị cất tiếng chào: “Ông” trong nghẹn ngào. Ông Bằng run run, giọng khàn đặc đáp lại “ Hoài đấy ư, con?”. Nhìn cảnh đó, khiến Phượng không kìm được nước mắt. Ông Bằng lấy khăn giấy lau đi đôi mắt ướt của mình và hỏi thăm về gia đình chị.
Cuộc gặp mặt giữa ông Bằng và người dâu trưởng là chị Hoài là một cuộc gặp gỡ vừa vui mừng vừa xót xa. Trong một chừng mực nào đó, cuộc gặp lại này xoa dịu niềm cô đơn và tiếp thêm niềm tin cho ông Bằng trong cảnh ngộ gia đình hiện tại. Ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế của Ma Văn Kháng ghi lại cận cảnh phút giây rớm nước mắt đó. Đúng là một cuộc gặp gỡ nhiều tâm trạng, nhiều nỗi niềm mà một nhân vật trong truyện đã nhận ra : “Cảnh gặp gỡ vui mừng nhiễm một nỗi tiếc thương, đau buồn, ê nhức cả tim gan.”
Khi mâm cỗ thịnh sọan được đưa lên, mọi người quây quần bên nhau, ông Bằng đứng trước bàn thờ tổ tiên như quên hết mọi thứ xung quanh, trôi ngược về quá khứ để tri ân cha mẹ, tổ tiên, ông tâm tình với vợ và con trai cả đã hi sinh của mình: "Trong giây lát, nhập vào dòng xúc động tri ân cùng tiên tổ và những người đã khuất, ông Bằng lâng lâng trong những hoài niệm hư ảo, thoát trần. Nhưng ông chỉ ở trong dòng tình cảm trôi lững lờ đó trong giây phút. Quá khứ không cắt rời với hiện tại. Tổ tiên không tách rời với con cháu. Tất cả liên kết thành một mạch bền chặt thủy chung. Bởi vậy, ông lại trở về với những ngày đang sống, với những người đang sống, mắt ông bỗng cay xè". Có thể thấy, ông bằng là gạch nối giữa quá khứ với hiện tại của gia đình trong giây phút thiêng liêng ấy. Ông là kiểu nhân vật trong đạo đức gia đình.
Chủ đề chính của tác phẩm là mối quan hệ gia đình truyền thống trước những biến động của xã hội thời chuyển đổi, cho đến cùng của câu chuyện, dường như lời giải xác đáng vẫn chưa được đưa ra và những trở trăn vẫn còn đó. Thế nhưng, thông điệp được đưa ra, có lẽ là thông điệp đúng nhất và toàn diện nhất trong mọi hoàn cảnh, chính là lòng bao dung và tình yêu thương sẽ cứu vớt tất cả mọi thứ lỗi lầm, mọi toan tính nhỏ nhen, mọi ích kỷ cá nhân, mọi dày vò về vật chất và tinh thần.
Mùa lá rụng trong vườn đã thể hiện sự quan sát và cảm nhận tinh nhạy của nhà văn về những biến động, những đổi thay trong tư tưởng và tâm lí của con người Việt Nam giai đoạn xã hội chuyển mình xóa bỏ dần mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường với những rạn vỡ tất yếu theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực trong quan niệm sống, cách sống và cách lựa chọn các giá trị. Nhà văn bày tỏ niềm lo lắng sâu sắc cho các giá trị truyền thống trước những đổi thay của thời cuộc.
- top
- văn mẫu
- văn mẫu lớp 12
- văn mẫu lớp 12 đáng xem
- văn mẫu lớp 12 hay nhất
- topshare
- văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- bài văn mẫu
- bài văn mẫu lớp 12
- bài văn mẫu lớp 12 đáng xem
- bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- top văn mẫu
- top văn mẫu lớp 12
- top văn mẫu lớp 12 đáng xem
- top văn mẫu lớp 12 hay nhất
- top văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- top bài văn mẫu
- top bài văn mẫu lớp 12
- top bài văn mẫu lớp 12 đáng xem
- top bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- nghị luận
Phù hợp với bạn
29-05-2025 Thông Còi
29-05-2025 Thanh Thu
11-01-2024 Chanh
22-01-2024 Chanh