Top 50 bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất giúp học sinh trau dồi cách hành văn
- 2,392 views
- 1 likes
Đề văn, bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất là cái khuôn sẵn có bổ trợ học sinh khối 12 trong việc tinh chỉnh lối viết văn, hành văn, thi cử lẫn tham dự những cuộc thi có dính đến văn chương khác nhau. Văn mẫu lớp 12 phải đạt tới độ giúp học sinh thông suốt, trình bày câu cú chỉn chu, lời lẽ liền mạch, bám sâu và sát vấn đề đưa ra. Văn mẫu lớp 12 trọng yếu xoay vần quanh dạng nghị luận (văn học / xã hội), phân tích rốt ráo một khía cạnh nào đó, đưa nhiều dẫn chứng hay để học sinh 12 ngấm nhuần trọn vẹn. Dưới đây topshare xin gửi tới bài viết top bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất đủ sức làm tài liệu trên hành trình học văn của các em. Xem ngay nhé!
31
Văn mẫu lớp 12 phân tích nhân vật cô Hiền trong truyện Một người Hà Nội của Nguyễn Khải

Nguyễn Khải được coi là cây bút khá nổi tiếng của văn xuôi nước ta từ sau rách mạng tháng Tám. Những sáng tác văn chương của Nguyễn Khải phản ánh sinh động và khá chân thật quá trình vận động của cả nền văn học từ thời chiến tranh sang thời hòa hình. Trong những sáng tác trước năm 1977, Nguyễn Khải chủ yếu quan tâm đến các vấn đề mang tính thời sự chính trị. Và những sáng tác của ông từ năm 1978 về sau ông lại quan tâm nhiều hơn về cuộc sống đời thường. Ông đi sâu phản ánh và phân tích những diễn biến tâm lí khá phức tạp nhưng rất hợp lí của con người trong thời đại sau chiến tranh. Một người Hà Nội rút từ tập truyện Hà Nội trong mắt tôi là một tác phẩm tiêu biểu cho ngòi bút Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Trong truyện Một người Hà Nội Nguyễn Khải đã xây dựng khá thành công hình tượng nhân vật bà Hiền - một nhân vật khá tiêu biểu cho người Hà Nội.
Một người Hà Nội nói riêng và cả tập truyện Hà Nội trong mắt tôi nói chung là chứa đựng một tình yêu sâu nặng với Hà Nội với những hiểu biết sâu sắc và tinh tế của Nguyễn Khải về nét đẹp của cảnh vật và con người Hà Nội.
Cô Hiền xuất thân từ một gia đình giàu có, lương thiện, có học thức, yêu thích thơ văn. Cô Hiền đẹp, thông minh, được bố mẹ cho phép mở phòng tiếp khách văn chương, vẻ đẹp của cô Hiền là một vẻ đẹp khá toàn diện được tác giả thể hiện qua nhiều góc độ khác nhau, từ cách chọn người bạn trăm năm đến việc thu xếp việc nhà, sinh con và răn dạy con cái.
Về hôn nhân, cô Hiền đã vượt qua thói thường tình của con người, cô không ham danh, hám lợi, không cơ hội, không lính toán. Cô có một quan điểm rất nghiêm túc đúng đắn về hôn nhân. Là một phụ nữ có nhan sắc, yêu văn chương, thời còn con gái tiếp xúc nhiều với những văn nhân nghệ sĩ, nhưng cô lại không sống theo lối sống lãng mạn, viễn vông. Cô cũng chả hứa hẹn gì với đám nghệ sĩ, văn nhân, đùa vui một thời son trẻ thế là đủ. Cô chọn người bạn đời của cô cũng không phải là một ông quan nào mà là một ông giáo cấp tiểu học, hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc. Cô Hiền luôn đặt trách nhiệm làm vợ, làm mẹ lên trên mọi thú vui khác. Cô coi việc phụng dưỡng chồng, chăm sóc cho chồng con là một niềm vui, là niềm hạnh phúc của cô. Trong việc quản lí gia đình cô Hiền luôn là người chủ động, tự tin và xác định rõ vai trò quan trọng của người vợ trong gia đình. Theo cô “Người đàn bà không làm nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chả ra sao”. Vì vậy mà cô Hiền đã phê phán cái thói "bắt nạt vợ" quá đáng của người cháu. Cô là một người sớm có nhận thức về “bình đẳng nam nữ".
Về việc dạy con, cô Hiền dạy con khi chúng còn nhỏ và dạy từ những chuyện sinh hoạt hàng ngày trong gia đình như cách ngồi ăn, cách cầm bát, cầm đũa, múc canh ... vì cô cho đó là một hình thức văn hóa: văn hóa ẩm thực, văn hóa sống ... và hơn nữa, đó là văn hóa của người Hà Nội. Theo cô, người Hà Nội phải sống cho thật chuẩn mực: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng”.
Về việc sinh con, cô Hiền cũng có quan điểm rất tiến bộ so với những người đương thời. Cái thời mà người ta thích đẻ nhiều để sau này có “con đàn, cháu đống” cho vui cửa, vui nhà và họ coi đó là niềm hạnh phúc. Họ thích đẻ nhiều mà ít quan tâm đến việc nuôi nấng và giáo dục con cái đến nơi đến chôn vì họ cứ theo cái quan niệm cũ: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Cũng ở vào cái thời đại đó nhưng cô Hiền lại có một nhận thức đúng đắn, tiến bộ. Cô không tin vào việc “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”, và cô có một quyết định khá dứt khoát: chấm dứt việc sinh đẻ vào năm bốn mươi tuổi, để có điều kiện nuôi dạy con cái một cách chu đáo để chúng có thể “sống tự lập”, không bị lệ thuộc, sống có nhân, cách. Tình yêu thương con của cô Hiền là một thứ tình cảm sáng suốt của một người mẹ có nhân cách, giàu lòng tự trọng, có suy nghĩ sâu sắc, đúng đắn, có tầm nhìn sâu rộng.
Một nét đẹp ở cô Hiền mà khiến chúng ta phải khâm phục và trân trọng đó là “lòng tự trọng“ rất cao cả của cô. Lòng tự trọng không cho phép con người ta sống ích kỉ và hèn nhát. Chính vì có lòng tự trọng cao nên cô Hiền bằng lòng cho đứa con trai lớn của mình là Dũng đi chiến đấu mặc dầu lòng cô đau đớn lắm vì cô "không muốn nó sống bám vào sự hy sinh của bạn bè”. Tiếp đến, cô Hiền cho đứa em Dũng tiếp bước anh mình “bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”. Lòng tự trọng ấy cũng chính là lòng yêu nước, ý thức cộng đồng thâm trầm, sâu sắc mà không cần ồn ào của cô Hiền.
Cô Hiền là một người sống chuẩn mực có bản lĩnh, tự tin ở chính mình. Cô Hiền có cách sống và vẻ bề ngoài có vẻ tư sản nhưng không hề bị đi học tập cải tạo vì cô chẳng hề bóc lột ai, cô chỉ sống bằng cái nghề làm hoa giấy. Cô Hiền là một con người mang đậm chất Hà Nội. Chất Hà Nội của cô Hiền được thể hiện qua cách sống lịch lãm, sang trọng của cô. Điều này được thể hiện rất rõ ngay trong phòng khách của cô. Phòng khách của cô như lưu giữ cái hồn Hà Nội: cổ kính, quý phái và tinh tế mà “suốt mấy chục năm không hề thay đồi". Chất Hà Nội của cô Hiền được thể hiện qua thái độ ung dung, tự tại trước những biến động của thời cuộc: cô không hề lo sợ trước sự thắng lợi của cách mạng và cũng không tỏ ra mừng vui quá mức. Câu trả lời của cô trước câu hỏi hơi nghiệt của đứa cháu:
- “Tại sao cô không phải học tập cải tạo. Cô giấu cũng tài nhỉ?”
- “Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được. ”
Hoặc:
- “Nước độc lập vui quá cô nhỉ”
- "Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ?" đã thể hiện khá rõ chất ung dung tự tại của cô Hiền.
Hơn thế nữa, chất Hà Nội ở cô Hiền còn được thể hiện qua sự khôn ngoan, sâu sắc của trí tuệ như việc cô nói về lẽ tuần hoàn: “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được’’, hoặc việc cô bộc lộ niềm tin vào tương lai vào cái đẹp của Hà Nội vẫn tồn tại vĩnh viễn, dẫu mỗi thời điểm cái đẹp có khác nhau: "Mỗi thế hệ điều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi”.
Nhìn chung lại, ta thấy cô Hiền là một người phụ nữ không những có nhan sắc mà còn có một vẻ đẹp tâm hồn rất lớn. Cô Hiền là một người phụ nữ mẫu mực rất yêu chồng và thương con, có lòng lự trọng cao, có nhiều quan điểm rất tiến bộ như trong việc sinh con, giáo dục con, sống chuẩn mực, lịch lãm, điền đạm, luôn giữ phong cách của một người Hà Nội và rất yêu Hà Nội, tin tưởng vẻ đẹp của Hà Nội không bao giờ mất đi. Hay nói một cách khác cô Hiền là một người tiêu biểu cho vẻ đẹp của người Hà Nội.
32
Văn mẫu lớp 12 phân tích tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn

Vào những năm đầu của thế kỷ XX, dưới ách thống trị tù túng, ngột ngạt của triều đại Mãn Thanh, cùng với sự can thiệp thô bạo của đế quốc, đất nước Trung Hoa rơi vào cảnh khủng hoảng, suy thoái hết sức trầm trọng. Bầu trời chính trị u ám, rối ren đã gieo rắc nỗi bất an, lo sợ vào tâm trí mỗi người dân Trung Quốc khi ấy, khiến họ chìm sâu vào u mê, ngu muội “ngủ quên trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”. Thuốc của nhà văn Lỗ Tấn là một bức tranh hiện thực đầy bi kịch về số phận những người cách mạng, vạch trần “căn bệnh tinh thần” của quần chúng, nhân dân.
Lỗ Tấn là nhà văn cách mạng lỗi lạc của Trung Quốc những năm thế kỷ XX. Quê hương ông ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Thuở nhỏ chứng kiến người cha lâm bệnh, vì không có thuốc mà chết, ông ôm ước mơ trở thành thầy thuốc. Khi đang theo đuổi con đường lương y, ông đột ngột rẽ hướng để làm một nhà văn bởi ông cho rằng “chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần”. Trong các tác phẩm của mình ông không ngại thẳng thắn phanh phui những thói hư, tật xấu của quần chúng, để tìm ra “phương thuốc chạy chữa”, để tự mình vươn lên, để làm nên một dân tộc tự lực, tự cường. Trong toàn bộ những sáng tác của mình, Lỗ Tấn tập trung khai phá những căn bệnh tinh thần khiến cho nhân dân mê muội, tự thỏa mãn và dần tha hóa, ngòi bút sắc sảo cùng với thái độ tự phê phán nghiêm khắc của mình nhà văn đã tạo nên những tác phẩm rất sâu sắc và thấm đậm tính nhân văn. Thuốc được viết năm 1919 đúng vào phong trào chống đế quốc phong kiến, đòi tự do dân chủ của học sinh, sinh viên Bắc Kinh bùng nổ. Nói về căn bệnh “đớn hèn” của quần chúng và những người cách mạng thì lại xa rời nhân dân. Tác phẩm như hồi chuông cảnh báo: “Người Trung Quốc cần suy nghĩ nghiêm túc về một phương thuốc để cứu lấy dân tộc”.
Mở đầu tác phẩm, Lỗ Tấn đã gây ấn tượng trong lòng người đọc bằng một nhan đề hết sức ngắn gọn và súc tích: “Thuốc”. Không bằng những từ hoa mỹ hay cầu kỳ nhưng nhan đề đã đã nói lên được giá trị cốt lõi của tác phẩm với nhiều tầng nghĩa khác nhau. “Thuốc” ở đây có thể hiểu theo nghĩa thực trần trụi của nó – một chiếc bánh bao tẩm máu người chết chém. Máu người có thể chữa bệnh ho lao? Sao lại có một lối suy nghĩ vừa quái dị, lạc hậu, mê tín và cực kỳ phản khoa học đến thế! Nhà văn liên tưởng đến cái chết của cha, cũng do một ông thầy lang đã bốc để chữa bệnh phù thủng, là rễ cây mía đã kinh sương ba năm và một đôi dế đủ con đực, con cái dẫn đến cái chết của ông cụ. Cách chữa bệnh bằng những bài thuốc mê tín của người dân, đã phần nào khắc hoạ được cho người đọc thấy một xã hội Trung Quốc u mê, dốt nát lúc bấy giờ.
Nhan đề tác phẩm không chỉ dừng lại ở nghĩa tường minh mà còn mang nghĩa hàm ẩn sâu sắc tác giả khéo léo gửi gắm vào đó. “Thuốc” dùng để chữa căn bệnh tinh thần: Căn bệnh gia trưởng, căn bệnh mê muội, lạc hậu về mặt khoa học của người dân Trung Quốc. Bố mẹ thằng Thuyên vì thiếu hiểu biết và gia trưởng đã tự mình áp đặt cho đứa con một phương thuốc thật kinh dị là “chiếc bánh bao tẩm máu người”. Khi cái chết đang trực chờ, họ lại đặt sự sống con mình vào ngõ cụt, có lẽ Thuyên đã sống sót nếu như được chữa trị đúng cách bởi vì lao là một căn bệnh hoàn toàn có thể chữa khỏi. Đáng buồn thay không chỉ vợ chồng lão Hoa mà tất cả mọi người trong quán trà đều tin vào điều phi lý ấy. Bánh bao tẩm máu người chẳng phải thần dược như những kẻ ngu muội kia đang đặt hy vọng, mà nó chính là phương thuốc “độc” giết chết đi một mạng người, thế nhưng họ đặt hết niềm tin vào những điều viễn vọng, nhưng sẽ điều không bao giờ xảy ra ấy.
Đất nước Trung Hoa đang nguy khó hơn bao giờ hết, ngay từ trong chính quần chúng nhân dân, họ đang mắc phải một căn bệnh tưởng chừng như nguy kịch không thể cứu chữa “u mê, lạc hậu về chính trị”. Người dân nô nức đi xem một chiến sĩ cách mạng bị xử tử, họ cho rằng đó là kẻ điên, là giặc và sẵn sàng mua máu anh về làm thuốc. Người anh hùng dám dấn thân vào sự nghiệp bảo vệ đất nước, anh sẵn sàng hy sinh để cho người dân được hưởng tự do, độc lập. Ấy vậy mà khi anh nằm xuống, những con người ngu muội kia lại chẳng hề xót thương, trân trọng. Lỗ Tấn đã chỉ ra căn bệnh của nhân dân và cái sai của người làm cách mạng, họ xa rời nhân dân, không lấy nhân dân làm gốc, chính bởi lẽ đó đã làm cho đất nước ngày càng chìm sâu vào bế tắc, người dân thì u mê trong lối suy nghĩ tầm thường, lạc hậu. Có thể nói nhan đề “Thuốc” đã gói trọn hết hiện thực xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ, là chủ đề tư tưởng bao trùm cả tác phẩm, nó nói lên nỗi trăn trở, xót xa của tác giả trước tình cảnh đất nước lâm nguy: Người dân không gắn bó với cách mạng, còn người cách mạng thì “bôn ba trong chốn quạnh hiu”.
Tác giả dẫn dắt người đọc đến với câu chuyện vào “một đêm mùa thu” khi trời đã nhá nhem sáng, ngoài đường lúc này thật vắng lặng, ảm đạm không một bóng người “ngoài những giống đi ăn đêm, còn thì ngủ cả”. Lão Hoa dậy từ sớm, rời khỏi nhà từ lúc mặt trời còn chưa mọc đến pháp trường với hy vọng tìm được thứ thần dược cứu đứa con từ cõi chết trở về. Lão bước đều đều trên con đường tối om lạnh lẽo, lòng sảng khoái lạ lùng, lão thấy mình như trẻ lại và “ai cho phép thần thông cải tử hoàn sinh”. Chẳng phải tự nhiên mà lão Hoa lại vui mừng đến thế, bởi lão nghĩ tới thằng Thuyên ở nhà sắp được cứu sống, đứa con trai duy nhất “mười đời độc đinh” đang mắc căn bệnh lao. Tới pháp trường, khi được tận mắt thấy trông thấy thứ “thần dược” ấy lão thật sự sợ hãi không dám đưa tay ra cầm lấy “chiếc bánh bao nhuốm máu, đỏ tươi” đang nhỏ từng giọt, từng giọt ấy.
33
Văn mẫu lớp 12 phân tích truyện ngắn Số phận con người của Sô-lô-khốp

Sô-lô-khốp được biết đến là một nhà văn Xô viết lỗi lạc, ông được nhận giải thưởng Nobel về văn học vào năm 1965. Ông đã có nhiều tác phẩm hay và nổi tiếng để lại bao gồm truyện, tiểu thuyết và đặc biệt hơn nữa là tác phẩm xuất sắc viết về “số phận con người”. Và thông qua tác phẩm này chúng ta thấy được những số phận bất hạnh của con người sau chiến tranh.
Nhân vật chính trong truyện được biết đến là nhân vật Xô-cô-lốp. Và anh ta được xây dựng lên là một người rơi vào bi kịch sau khi chiến tranh kết thúc. Trong khi trước đó anh phải đi lính và sau khi hòa bình thì anh mất hết tất cả từ người thân, nhà cửa và cả bạn bè nữa. Đối với Xô-cô-lốp thì có thể nói thì anh chiến đấu vì gia đình, vì quê hương đất nước nhưng khi hòa bình đã được lập lại thì mọi thứ đã bỏ anh mà đi thì không còn gì nữa cả. Anh dường như đã phải sống trong một cuộc sống đau khổ, kể cả khi chiến đấu, anh bị thương rất nhiều. Có cả vợ và hai người con của anh cũng bị bom của phát xít cướp đi tính mạng của mình. Và lúc này Xô-cô-lốp chỉ còn biết hy vọng và trông chờ vào người anh trai nhưng rồi cuối cùng anh ấy cũng đã chết trận.
Như vậy, thông qua đây chúng ta như đã có thể thấy được rằng số phận anh rất bất hạnh, khi chiến đấu đã chịu những giày vò thật tủi cực về thể xác lẫn tinh thần. Sau đó khi trở giờ về thì lại phải nếm trải niềm đau khổ về tinh thần tụt độ bởi người thân yêu duy nhất của mình cũng không còn nữa. Từ đó chúng ta có thể thấy được những hậu quả mà chiến tranh đã để lại là quá lớn lao, quá đắng cay và thật đáng thương cho Xô-cô-lốp.
Sau chiến tranh, anh cứ ngỡ được sống trong hạnh phúc, nhưng không, Xô-cô-lốp phải sống trong bế tắc và tuyệt vọng. Không hề có một mái nhà che nắng che mưa mà anh phải sống nhờ nhà một người bạn. Và để rồi cho tới khi anh tình cờ gặp được cậu bé có tên Va-ni-a. Nhà văn đã miêu tả thật ám ảnh về ngoại hình của cậu bé bằng những lời văn hết sức chân thật. Hiện lên đó là một cậu bé tầm 5 tới 6 tuổi ăn mặc rách rưới, cả cha và mẹ của cậu bé đều đã chết trong chiến tranh, ít ra Sô-lô-khốp còn có thể lao động được còn cậu bé thì lại không có ai, ai cho ăn gì thì cậu bé ăn nấy và bạ đâu ngủ đấy. Duyên phận dường như đã đưa đẩy cho họ gặp nhau như để bù đắp cho nhau những thiếu sót của cuộc đời đầy giông bão này vậy.
Xô-cô-lốp đã nhận nuôi bé Va-ni-a, anh còn chăm sóc tận tình chu đáo, anh còn mua quần áo cho cậu bé, là một chiếc áo bành tô rất đẹp. Có thể nói rằng chính lòng nhân ái đó đã đem hai trái tim đó như đã xích lại với nhau như để sưởi ấm cho nhau vậy.
Anh luôn luôn cố gắng làm mọi việc để nuôi bé Va-ni-a, nhưng trớ trêu thay cuộc sống không giống như những gì mình nghĩ, anh vượt qua mọi nỗi đau, xe anh quệt nhẹ vào người ta và cuối cùng bị mất bằng lái và không được lái xe. Nghề mưu sinh của anh cũng đã không còn cho nên anh phải đi khắp nơi, đã thế sức khỏe anh lại yếu đi trông thấy, anh đau đến mức khóc nhưng anh lại không để cho bé Va-ni-a biết được điều này. Thông qua điều này chúng ta dường như nhận thấy tác giả có một tấm lòng nhân đạo cao cả.
Đến đoạn cuối của tác phẩm đầy tình thương yêu và biết bao sự nghiệt ngã này thì nhà văn đã thể hiện sự thương xót của mình đối với nhân vật. Đó chính là “Với nỗi buồn thấm thía, tôi nhìn theo hai bố con…”. Đoạn văn như đã thể hiện được sự khâm phục, tính cách của những con người luôn luôn kiên cường đứng vững vàng trước những khó khăn của cuộc sống. Có thể nói trong hoàn cảnh có nghèo khó thế nào thì họ vẫn luôn trao nhau những tình yêu thương đầy sự nhân ái, họ luôn luôn đùm bọc nhau cho nhau những yêu thương để vượt qua cuộc đời khó khăn và để sống.
Như vậy, chỉ với qua tác phẩm thôi mà chúng ta như có thể thấy được số phận đau khổ của con người qua chiến tranh là như thế nào. Con người đó, họ không những phải chịu những nỗi đau thể xác trên chiến trường mà còn phải chịu nhiều nỗi đau về tinh thần. Xô-cô-lốp cùng bé Va-ni-a là hai nhân vật chính là hiện thân của những số phận bất hạnh đó. Qua đó tác giả Sô-lô-khốp như đã muốn kêu gọi mọi người hãy có trách nhiệm đối với những con người như vậy hơn, để cuộc sống thực sự có ý nghĩa.
34
Văn mẫu lớp 12 phân tích truyện ngắn Ông già và biển cả của Hê-minh-uê

Những câu chuyện viết về công cuộc chinh phục thiên nhiên của con người đã trở thành một trong những đề tài được đánh giá cao, đó là tâm huyết cho sự tìm tòi, vận dụng trí sáng tạo, tính viễn tưởng trong cách nhìn mới về con người tự do. Hê-minh-êu một nhà văn gốc Mỹ tầm cỡ của thế kỉ 20, cũng mở rộng tâm hồn, là nhà văn của cái mới, ông lựa chọn đề tài này để khai thác nhiều hơn, ở người không chỉ nổi bật về khả năng của mình trong cách viết truyện, ông còn bảo vệ được quan điểm của mình về nguyên lí “tảng băng trôi” mang đầy triết lí nhân sinh được thể hiện tất cả qua tác phẩm tiểu thuyết nổi tiếng “Ông già và biển cả”.
Đoạn trích nằm trong phần gần cuối của tác phẩm Ông già và biển cả, kể lại về quá trình ông lão hiên ngang giữa biển khơi, công cuộc đánh vật chinh phục con cá khổng lồ đã thành công mĩ mãn. Có thể chia đoạn trích này làm hai phần rõ rệt: Phần một từ đầu đến nước bắn tung tóe lên cả ông lão và con thuyền kể về quá trình chinh phục con cá kiếm khổng lồ và vẻ đẹp tuyệt vời của con vật. Phần hai: đoạn còn lại, kể về ông lão Xan-ti-a-gô đưa con cá trở về sau nhiều ngày trời vật vã trên biển.
Mở đầu một cuộc đi săn, bao giờ cũng là sự thăm dò cẩn thận. Trước bối cảnh thiên nhiên rộng lớn, ông già đánh cá mang trong mình nhiều kinh nghiệm về công việc đi biển, vững chèo con thuyền ra giữa biển khơi, để tìm nguồn cá, nhưng ông khá thất vọng vì chưa được con nào. Bất chợt lọt vào trong tầm mắt ông lúc này là hình ảnh một con cá kiếm, ông như người bắt được vàng, trong thâm tâm luôn muốn bắt được con cá này, như chính ước mơ ấp ủ bao đêm của ông làm được một cái gi to lớn. Đến với phần đầu ta như bước vào một khung cảnh đầy hùng vĩ giữa mây nước, sau khi đã nhắm được mục tiêu ông lão không vội vàng mà chậm rãi chăm chú quan sát đối phương. Sự quan sát cặn kẽ đến mức như ông lão hiểu được từng vòng lượn của con cá kiếm dưới mặt nước kia, vòng lượn gần đến lượn xa ông đều cảm nhận được. Vòng tròn lớn, sợi dây câu con cá ấy nặng trĩu và xiết tay ông làm ông nhiều lúc muốn buông xuôi. Ở từng vòng lượn cứ bình tĩnh và chậm rãi, cứ giữ sức, rồi lại vùng vẫy ra xa, đầy hung hăng, thể hiện được sự mãnh liệt trước vấn đề sinh mệnh theo bản năng sinh tồn. Nó luôn nỗ lực không rời bỏ để thoát khỏi sự bắt ép của ông lão, không chịu đầu hàng ông. Sự hùng vĩ, to lớn, vẻ đẹp của con cá còn được ông miêu tả tỉ mỉ “đây là con cá khổng lồ, đuôi xanh thẫm, thân hình xòe rộng, một con cá khổng lồ mà cả đời ông mơ ước”,” cái đuôi lớn hơn cả cái lưỡi hái lớn”, cả những vạch dọc người của nó. Sự mạnh mẽ của con vật ấy sống giữa tự nhiên, đầy tính oai phong. Con cá ở đây là biểu hiện chân thực đầy sống động của thiên nhiên hùng vĩ trước cái nhìn của ông - một con người nhỏ bé.
Nhưng liệu ông có để mặc cho con cá ấy thắng mình, hay ông cũng bạo gan, dùng sự kiên trì, dùng trí thông minh để thu phục con cá, dùng sức lực của một người đi biển lâu năm kìm hãm, đấu vật sức lực của con cá. Ông đứng trên bờ, đăm đăm quan sát thì câu chuyện đã không có kịch tính, tình huống đáng nói. Một hình ảnh đẹp được tác giả tập trung khai thác, một con người mạnh mẽ ở trên chiếc thuyền kia, một con cá to lớn ở dưới mặt nước, được nối liên hệ với nhau bằng chiếc móc câu. Cuộc chinh phục tự nhiên cũng được bắt đầu ngay sau mối liên hệ ấy, sau khi con cá mắc câu nó kéo phăng con thuyền đi ra xa đại dương ba ngày hai đêm. Ông đã có những lúc độc thoại với con cá kiếm “đừng nhảy cá”, “cá ơi dẫu sao mày cũng sẽ chết. Mày muốn tao cùng chết nữa à”, “mày đừng giết tao cá à”. Khi nó mệt thì mới lượn vòng dưỡng sức, với ngụ ý luôn không ngơi nghỉ ý nghĩ tìm cách thoát khỏi vòng bủa vây của ông lão. Sức dẻo dai của con cá cũng đồng nghĩa với con người trên thuyền, phải chăng con người sắp thua con vật to lớn kia, vì đã có lúc nó làm ông “quá mệt mỏi, “hoa mắt”, chóng mặt, choáng váng, xây xẩm mặt mày”. Ông cũng phải dùng kế, để làm gần với con cá, vì cả hai lúc này đều đã thấm mệt. “ông lão cứ thu dây, giữ yên sợi dây rồi lại buông.
Ông cũng nuôi trong mình suy nghĩ thông minh, không hề có ý định bỏ cuộc, chỉ là đợi cho con cá thấm mệt rồi mới bắt đầu hành động quyết liệt hơn. Luôn dùng những suy nghĩ, lối nói độc thoại nội tâm để tự căn dặn bản thân không cho phép mình được bỏ cuộc. Khi thời cơ cảm tưởng đã đến lúc, ông đi áp sát con cá, nghĩ rằng chỉ còn cách áp dụng hết sức của mình có được để đâm nó mới mong chiến thắng nó, dồn hết sức, mọi đau đớn, lòng kiêu hãnh của mình vào cú đánh đòn quyết định, nhấc ngọn lao phóng xuống sườn con cá”, con cá chủ quan, khi nhìn nhận cái nguy hiểm gần kề thì đã muộn, mũi dao đã phập vào mình, ”mang cái mệt trong lòng, nó tung mình lên cao trên mặt nước phô bày hết tầm vóc khổng lồ, sức mạnh và vẻ đẹp của nó”. Cuối cùng ông đã chinh phục được nó trước khi nó tìm cách thoát thân được, nhưng cũng không nguôi tiếc nuối khi phải giết nó. Ta có thể thấy được tâm lý, tầm vóc trong suy nghĩ lớn lao của con người, sánh vai với cả vũ trụ, với đại dương, ý chí nỗ lực của cả hai đều được tác giả công nhận, nhưng in đậm lên trên sẽ vẫn dễ hiểu đó là hình ảnh ông lão người lao động bình dị, mà có nghị lực phi thường, ca ngợi về ông cũng chính là sự ca ngợi về chính thế hệ con người trước thiên nhiên bất tận.
35
Văn mẫu lớp 12 nêu cảm nhận về tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt

Những năm tám mươi của thế kỉ XX, kịch của Lưu Quang Vũ đã làm chấn động sân khấu kịch Việt Nam thời đổi mới.
"Hồn Trương Ba, da hàng thịt" là vở kịch đặc sắc nhất của ông, được sáng tác từ năm 1981, nhưng ba năm sau (1984) mới được ra mắt khán giả. Vở kịch được sáng tạo từ một truyện cổ tích cùng tên, qua đó, tác giả nêu lên một vấn đề xã hội mang tính triết lí sâu sắc: mối quan hệ giữa thể xác và con người ta không thể sống sống nhờ, sống gửi vào cuộc sống của người khác.
Phần trích đoạn kịch là cuộc đối thoại giữa linh hồn và xác, giữa hồn Trương Ba và những người thân trong gia đình, giữa hồn Trương Ba và Đế Thích; cuối cùng là cái "chết" của hồn Trương Ba.
Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt là một cuộc đối thoại sinh động, đầy ý nghĩa triết lí. Lớp kịch này có 25 lượt . Xác hàng thịt thì một điều "ông", hai điều "ông", nhưng hồn Trương Ba thì chỉ có "mày", "ta". Thế nhưng xác hàng thịt đã lấn lướt hồn Trương Ba, sỉ nhục hồn Trương Ba đủ điều: Xác hàng thịt cho biết dù có "âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của ông đấy"; sao ông không nhớ "Khi ông đứng cạnh vợ tay chân run hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại..." hoặc "Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì? Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao?"
Nghĩa là hồn Trương Ba đã bị sa sút, tha hóa. Khi hồn Trương Ba tự hào cho rằng mình có một đời sống riêng: "nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn" thì xác hàng thịt châm biếm: "Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!".
Xác hàng thịt tỏ ra coi thường hồn Trương Ba, tự kiêu tự đại khẳng định vị thế, vai trò quan trọng của mình. Nào là "tôi đã cho ông sức mạnh" hoặc "Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn". Nào là "Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới... Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi..."
Xác hàng thịt thì thầm: "Tôi rất biết cách chiều chuộng linh hồn"; "Tôi biết cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt"..., "chúng ta tuy hai mà một!".
Cuộc đối thoại giữa xác hàng thịt và hồn Trương Ba là cuộc đấu tranh giữa thể xác và linh hồn cùng tồn tại trong một con người. Thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với nhau, cả hai gắn bó với nhau để cùng sống, cùng tồn tại. Thể xác có tính độc lập tương đối của nó, có tiếng nói của nó, có khả năng tác động vào linh hồn, vì nó là nơi trú ngụ của linh hồn. Khi thể xác tiêu tan thì linh hồn cũng mất. Khi linh hồn "bay đi" thì thể xác cũng trở về cát bụi. Nhờ có linh hồn đấu tranh, chi phối với những ham muốn, những dục vọng tầm thường của thể xác mà nhân cách được hoàn thiện, tâm hồn được trong sáng.
Câu nói của xác hàng thịt: "Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn" đã cho thấy mối quan hệ hữu cơ giữa thể xác và linh hồn, làm cho ý nghĩa ẩn dụ của đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt thêm cụ thể, sâu sắc.
Từ khi sống nhờ xác hàng thịt, hồn Trương Ba bị tha hóa nhiều: tát con trai tóe máu mồm máu mũi (bằng bàn tay, bằng sức mạnh và sự tàn bạo của xác hằng thịt). Hồn Trương Ba khác hẳn ngày xưa, làm vườn thì thô vụng: đã làm "gãy tiệt cái chồi non" của cây cam, đã "giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm", đã "làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng mất cá cái diều đẹp" của cu Tị.
Từ ngày mang xác hàng thịt, hồn Trương Ba sống trong bi kịch, trải qua nhiều dằn vặt, đau khổ: vợ muốn bỏ đi để "ông được thảnh thơi ... với cô vợ người hàng thịt"; cái Gái, đứa cháu nội thì khinh bỉ, xua đuổi: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!". Chị con dâu, người thông cảm và thương hồn Trương Ba hơn cả, giờ đây trước cảnh "tan hoang" của gia đình thì vô cùng lo sợ, đau đớn "thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả như lệch lạc, nhòa mờ dần đến cũng không nhận ra thầy nữa...".
Trước lời than khóc của người con dâu, hồn Trương Ba tê tái, "mặt lạnh ngắt như tảng đá Ngồi một mình, như sực tỉnh, như bàng hoàng: "Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta...".
Không thể sống gửi nằm nhờ mãi được, không thể bị lệ thuộc vào thể xác hàng thịt và tự đánh mất mình, hồn Trương Ba an ủi, thức tỉnh, động viên mình: "Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày mà tự đánh mất mình"... "Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!".
Sự do dự bị đẩy lùi, bị xua tan. Sự tỉnh ngộ của hồn Trương Ba tuy muộn mằn nhưng thật có nhiều ý nghĩa. Con đường tự giải thoát, linh hồn đã nhìn thấy ánh sáng.
Cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa linh hồn Trương Ba và Đế Thích đã đẩy xung đột kịch lên cao trào, đỉnh điểm. Phải tìm gặp ngay Đế Thích, Hồn Trương Ba "đứng dậy, lập cập nhưng quả quyết, đến bên cột nhà, lấy một nén hương châm lửa, thắp lên". Gặp lại người bạn chơi cờ ở cõi trời, hồn Trương Ba thổ lộ bao nỗi niềm day dứt: "Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!... Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn".
Mặc dù đã được Đế Thích cho biết cái lẽ trời, cái lẽ đời là từ Ngọc Hoàng đến người trần mắt thịt có ai được là "mình toàn vẹn", mà "phải khuôn ép mình"... Vả lại, ông đã bị Nam Tào "gạch tên khỏi sổ", thân thể của ông "đã tan rữa trong bùn rồi. Nhưng hồn Trương Ba phân trần, nài nỉ, nói lên thân phận hèn kém, sống gửi nằm nhờ của mình: "Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ hàng thịt. Ông chỉ nghĩa đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!". Hồn Trương Ba không muốn được sống trong thân xác anh hàng thịt nữa, cũng không muốn được "nhập vào cụ Tị" bởi lẽ bao điều phiền toái, trớ trêu sẽ diễn ra, sâu xa hơn nữa sẽ "bơ vơ lạc lõng", "đáng ghét như kẻ tham lam". Thật vô lí, cực kì vô lí, bởi lẽ "một kẻ lí ra phải chết từ lâu mà vẫn cứ sống, cứ trẻ khỏe, cứ ngang nhiên hưởng thụ mọi thứ lộc trời!". Xưa nay, như ta đã biết, những kẻ úy tử tham sinh, những kẻ tham quyền cố vị đều bị đồng loại coi khinh và chê cười!
- top
- văn mẫu
- văn mẫu lớp 12
- văn mẫu lớp 12 đáng xem
- văn mẫu lớp 12 hay nhất
- topshare
- văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- bài văn mẫu
- bài văn mẫu lớp 12
- bài văn mẫu lớp 12 đáng xem
- bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- top văn mẫu
- top văn mẫu lớp 12
- top văn mẫu lớp 12 đáng xem
- top văn mẫu lớp 12 hay nhất
- top văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- top bài văn mẫu
- top bài văn mẫu lớp 12
- top bài văn mẫu lớp 12 đáng xem
- top bài văn mẫu lớp 12 đáng xem nhất
- nghị luận
Phù hợp với bạn
29-05-2025 Thông Còi
29-05-2025 Thanh Thu
11-01-2024 Chanh
22-01-2024 Chanh