Top 50 bài văn mẫu lớp 6 đa chủ đề đáng xem nhất giúp học sinh thêm yêu môn văn

  • 1,280 views
Top Share

15-06-2022 Vũ Đỗ Hải Hà

Đề văn mẫu lớp 6 hay nhất theo hình thức đa nội dung giúp các em đang theo học khối lớp này vươn tới “chân trời tri thức” văn học bất tận, nâng tầm hiệu quả học văn nhờ vô số nhận định trực quan, sâu sắc. Văn mẫu lớp 6 được coi là đáng xem khi chúng cho học sinh tầm hiểu biết, bổ túc ngôn từ, đưa cả “chất thơ” pha trộn thực tiễn ở mức cân bằng nhằm “dẫn dắt” học sinh lớp 6 thêm quý mến và khơi gợi niềm yêu thích học môn văn trong các em. Văn mẫu lớp 6 bắt đầu có sự phân luồng, bao gồm những chủ điểm như tác phẩm, nhân vật văn học tới sự vật, cảnh tượng thân thuộc cùng con người hằng ngày. Tùy mỗi cá nhân học sinh, văn mẫu lớp 6 sẽ khai sáng, giúp ích, hỗ trợ theo nhiều hướng đi khác nhau. Hiểu được như cầu tìm tòi, học hỏi từ các dạng văn mẫu lớp 6 hay, nên topshare đã tổng hợp bài viết liên quan tới top bài văn mẫu lớp 6 đa chủ đề đáng xem nhất bên dưới. Cùng check để tham khảo nhé!

21

Văn mẫu lớp 6 phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Lượm của Tố Hữu

Vote
0%
Văn mẫu lớp 6 phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Lượm của Tố Hữu

Đất nước Việt Nam chúng ta có được nền độc lập, hòa bình, thống nhất như hiện nay đã phải trải qua sự gian nan, hi sinh, mồ hôi xương máu của biết bao đồng bào từ đàn ông, đàn bà, người già, thanh niên, trong đó có cả những em bé chỉ ở cái tuổi ăn chơi cũng hướng ứng lời Bác Hồ là tuổi nhỏ làm việc nhỏ. Các bạn đã giúp cách mạng của Đảng ta với những việc tưởng chừng như là chỉ có những anh hung với sức mạnh to lớn mới có thể làm được. Em ấn tượng nhất có lẽ là với chú bé Lượm trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Tố Hữu.

Bài thơ Lượm được Tố Hữu sáng tác vào năm 1949 và in trong tập thơ Việt Bắc. Lượm là bài thơ tự sự – trữ tình kể về cuộc đời ngắn ngủi nhưng đầy vẻ vang của cậu bé Lượm, một chú bé liên lạc, hồn nhiên, nhí nhảnh, đáng yêu, yêu đời, tuy còn bé nhưng chú đã dũng cảm dùng mạng sống của mình để bảo vệ cho mảnh đất của quê hương mình. Đọc bài thơ chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng hình ảnh của chú bé Lượm luôn luôn xuất hiện trong cả bài thơ.

Hình ảnh Lượm thật đẹp, Lượm còn bé lắm, bé “loắt choắt” nhưng đã tham gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc, chú đã rất tự hào vì mình là một người kháng chiến, chân chú bước “thoăn thoắt” còn cái đầu thì “nghênh nghênh” đã được thể hiện rất rõ qua năm khổ thơ đầu với cái nhìn trìu mến, thân thương tác giả đã miêu tả một chú bé rất đáng yêu:

Chú bé loắt choắt

Cái xắc xinh xinh

Cái chân thoăn thoắt

Cái đầu nghênh nghênh

Ca nô đội lệch

Mồm huýt sáo vang

Con chim chích

Nhảy trên đường vàng

Có lẽ khi đọc bài thơ này, ấn tượng sâu sắc nhất của mọi người là ở khổ thơ này, nó để lại cho người đọc hình ảnh của chú bé liên lạc nhỏ con, gầy còm nhưng đầy sức sống, yêu đời, nhanh nhẹn hồn nhiên. Với nghệ thuật sử dụng các từ láy như loắt choắt, xinh xinh, nghênh nghênh rất gợi hình, tạo nên cho bài thơ một giai điệu vui tươi, nhí nhảnh, sống động như chính chú bé Lượm vậy, cậu bé yêu đời, tung tăng như con chim chích nhảy trên đường vàng, hình ảnh con chim chính đã thể hiện đầy đủ được sự hồn nhiên trẻ thơ của Lượm mà chắc hẳn là tác giả phải có một tình cảm vô cùng trìu mến, thân thương về cậu mới có thể miêu tả cậu hay đến thế.

Ngoài cái đẹp của sự hồn nhiên, nhí nhảnh thì Lượm còn đem đến cho người đọc một vẻ đẹp khác, đó chính là vẻ đẹp tuyệt vời của người chiến sĩ cách mạng. Đó là khi có lệnh, Lượm đã thể hiện tinh thần của người lính:

Vụt qua mặt trận

Đạn bay vèo vèo

Thư đề: thượng khẩn

Sợ chi hiểm nghèo

Dù cho đạn bay vèo vèo nhưng Lượm vẫn bất chấp lao tới. Bởi thư đề “thượng khẩn” nên Lượm chẳng sợ gì hiểm nguy, là một người liên lạc, Lượm phải thực hiện lệnh của cấp trên, phải nhanh chóng truyền đạt lệnh của cấp trên, bởi vì nếu chậm trễ thì có thể sẽ phải hi sinh các đồng đội của chú. Nên dù là hiểm nguy chú vẫn phải vượt lên cho dù phải hi sinh tính mạng.

Đau xót thay, đạn địch bay vèo vèo mà Lượm không thể thoát được, để rồi Lượm đã ngã xuống. Có lẽ khi đọc đến đây không ai có thể cầm được nước mắt, em cũng vậy, đọc đến đây em nghẹn ngào, thương tiếc thay, một chú bé đáng yêu đến thế cơ mà, dũng cảm như vậy mà đã phải ra đi vĩnh viễn.

Hình ảnh hi sinh của Lượm đau xót biết bao khi mà:

Cháu nằm trên lúa

Tay nắm chặt bông

Lúa thơm mùi sữa

Hồn bay giữa đồng

Cho đến lúc hi sinh, Lượm vẫn mang vẻ đẹp cao cả. Cậu bé nằm giữa đồng, bàn tay vẫn nắm lấy từng bông lúa, như để thể hiện tình yêu quê hương, yêu đất nước vẫn còn mãi. Lượm nằm trên lúa và còn thơm mùi sữa, có lẽ cậu đã ra đi thanh thản.

Từ đầu bài thơ, Lượm đã được phác họa với sự vui tươi, cậu bé thật hãnh diện khi được góp sức của mình vào cuộc cách mạng của đất nước, điều đó đã thể hiện rất rõ khi mà Lượm kể chuyện:

Cháu đi liên lạc

Vui lắm chú à

ở đồn Mang Cá

thích hơn ở nhà.

Vui tươi như vậy đó, đáng yêu như thế mà lại phải:

Hồn bay giữa đồng.

Khi nghe tin Lượm hi sinh tác giả đã phải thốt lên:

Ra thế

Lượm ơi!

Đó là nỗi sửng sốt, bàng hoàng khi mà chú đã ra đi khi đang làm nhiệm vụ thiêng liêng. Nhiệm vụ bảo vệ đất nước.

Lượm đã hi sinh như một chiến sĩ thực thụ, nhà thơ Tố Hữu đã gọi em bằng những lời xưng hô trang trọng là chú đồng chí nhỏ, Lượm xứng đáng được gọi như vậy và phải chăng tác giả gọi như vậy cũng đã thể hiện sự cảm phục của mình đối với một thiếu nhi anh hùng

Lượm chết mà tay vẫn nắm chặt bông lúa, cánh đồng vẫn bao quanh em như đang ôm em trong vòng tay, đón em về với đất mẹ như một thiên thần. Thiên thần ấy đã ra đi mãi mãi, để lại cho mọi người sự thương tiếc, đau xót vô bờ đến nối Tố Hữu đã gọi em lần thứ ba bằng một câu thơ day dứt: Lượm oi, còn không?

Và ở khô thơ cuối tác giả lại cố khắc sâu hình ảnh của Lượm vào tâm khảm của người đọc bằng những câu từ đẹp đẽ:

Chú bé loắt choắt

Cái xắc xinh xinh

Cái chân thoăn thoắt

Cái đầu nghênh nghênh

Ca nô đội lệch

Mồm huýt sáo vang

Như con chim chích

Nhảy trên đường vàng

Hình ảnh của Lượm để lại trong em thật nhiều cảm xúc khâm phục, đau xót, thương tiếc và qua bài thơ đã cho em một cảm nghĩ về nghĩa vụ đối với đất nước trong thời kì hòa bình, để xứng đáng với những gì mà các anh hùng đi trước phải hi sinh, để xứng đáng là cháu ngoan Bác Hồ.

22

Văn mẫu lớp 6 phân tích bài thơ Mưa của Trần Đăng Khoa

Vote
0%
Văn mẫu lớp 6 phân tích bài thơ Mưa của Trần Đăng Khoa

Sinh ra và lớn lên tại một làng quê thuộc huyện Nam Sách, năng khiếu thơ của Trần Đăng Khoa nảy nở rất sớm. Nhiều bài thơ trong tập Góc sân và khoảng trời được tác giả viết khi còn học tiểu học. Bài thơ Mưa được chàng thi sĩ tí hon này viết năm lên 9 tuổi, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ta đang diễn ra vô cùng ác liệt. Từ lúc sắp mưa đến khi mưa rơi, cảnh bầu trời mặt đất từ sấm chớp mây mưa, từ cây cỏ đến những con vật như chó, gà con, lũ kiến,... đều được cảm nhận qua tâm hồn tuổi thơ rất hồn nhiên ngộ nghĩnh.

Bài thơ viết theo cách nói lối đồng dao, có 63 câu thơ rất ngắn, có 10 câu chỉ có 1 chữ, có 37 câu thơ 2 chữ. 6 câu thơ 3 chữ, 9 câu thơ 4 chữ, và chỉ có 1 câu thơ 5 chữ. Qua sự khảo sát ấy, ta thấy cách viết của Khoa rất tự nhiên, hồn nhiên, câu thơ nối tiếp xuất hiện theo cảm nhận và cảm xúc từ sắp mưa đến mưa rồi, và sau cùng là hình ảnh người bố của Khoa đi cày về trong cơn mưa dữ dội, tầm tã.

Mở đầu bài thơ như một tiếng reo của trẻ thơ cất lên: Sắp mưa / sắp mưa. Mẫn cảm nhất là loài mối bay ra để đón mưa. Tài thật, sao mà bé Khoa phân loại được, nhận diện được tuổi tác những con mối: Mối trẻ / Bay cao / Mối già / Bay thấp. Tiếp theo là bầy gà con Rối rít tìm nơi / ẩn nấp. Ông trời, cây mía, kiến, lá khô, cỏ gà, bụi tre, hàng bưởi, chớp, sấm, cây dừa, ngọn mùng tơi... được chú bé nói tới, nhắc tới. Tác giả sử dụng nhân hoá khá hay, tạo nên những liên tưởng thú vị, thể hiện sự tưởng tượng phong phú. Mây đen kéo phủ đầy trời, tưởng như Ông trời / mặc áo giáp đen / Ra trận. Lá mía dài, nhọn sắc.

Gió thổi, lá mía xào xạc bay, khác nào Muôn nghìn cây mía / Múa gươm. Kiến chạy mưa, như vỡ tổ, nhà thơ tưởng như Kiến / Hành quân / Đầy đường. Không khí hùng tráng của lịch sử dân tộc thời chống Mĩ đã phản chiếu vào thơ Khoa. Từ ông trời đến nghìn cây mía, đàn kiến, tất cả đều ra trận, đều múa gươm đều hành quân, tất cả đều tham gia vào cuộc diễu binh hùng vĩ (thơ của Tố Hữu). Cả một không gian rộng lớn chuyển động vì sắp mưa: Lá khô / Gió cuốn Bụi bay / Cuồn cuộn, cỏ gà, bụi tre, hàng bưởi, cây dừa, ngọn mùng tơi - thế giới cây cỏ này được nhân hoá.

Cách nhận xét của chú bé 9 tuổi khá tinh tế, hóm hỉnh, cỏ gà rung tai nghe. Bụi tre tần ngần gỡ tóc. Hàng bưởi trĩu quả trong gió như một người mẹ hiền đang đu đưa bế lũ con đầu tròn trọc lốc. Gió thổi mỗi lúc một mạnh. Cây dừa sải tay bế, ngọn mùng tơi nhảy múa. Một không gian nghệ thuật, một thế giới tạo vật cựa quậy, sống động, chuyển động khi trời sắp mưa. Tất cả đều có linh hồn, có cảm giác, có hành động... được thể hiện qua các hình ảnh nhân hoá rất ngộ nghĩnh, đáng yêu. Sắp mưa, sấm chớp rung chuyển, rạch xé trời đất. Chớp rạch trời ngang trời... Sấm như một tên hề "ghé xuống sân - khanh khách - cười". Đó là cảm nhận vũ trụ của tuổi thơ.

 

Cảnh trời mưa được diễn tả bằng 14 câu thơ. Mưa rơi trong tiếng gió ù ù như xay lúa. Giọt mưa lộp bộp, lộp bộp rơi! Trong màn mưa, đất trời trở nên mù trắng nước. Và mưa chéo mặt sân sủi bọt. Bé Khoa đã dàn dựng một hoạt cảnh mưa có cóc, chó và cây lá thật hóm hỉnh:

Cóc nhảy lồm chồm

Chó sủa

Cây lá hả hê.

Mưa làm mát dịu trời đất mùa hè. Mưa làm cho cây lá xanh tươi, tốt tươi. Cây lá hả hê vui sướng đón cơn mưa nhân hóa thoát sáo và rất gợi cảm. Ở đây mưa là nguồn gốc sự sống, mưa là niềm vui đợi chờ.

Cuối bài thơ mới xuất hiện hình ảnh con người, một hình ảnh rất quen thuộc ở làng quê xưa nay:

Bố em đi cày về

Đội sấm

Đội chớp

Đội cả trời mưa...

Mọi thứ của vũ trụ như sấm chớp, mưa đều đội trên đầu bố em. Chữ đội được điệp lại 3 lần, không chỉ cực tả sự vất vả dãi nắng dầm mưa của bố em, của người dân cày Việt Nam xưa nay mà còn mang hàm nghĩa, người nông dân cày cấy trong bom đạn chiến tranh, vừa sản xuất vừa chiến đấu. Sau vần thơ là lòng biết ơn, kính yêu của Khoa.

Mưa là một bài thơ hay. Thế giới thiên nhiên trong cơn mưa rào ở làng quê được cảm nhận và miêu tả tinh tế. Các câu thơ ngắn 1, 2, 3... chữ đan cài vào nhau, kết hợp với vần chân đã tạo nên nhạc điệu thơ, gợi tả tiếng mưa rơi, nghe rất vui. Phép nhân hóa và nghệ thuật sử dụng các từ láy (rối rít, cuồn cuộn, tần ngần, đu đưa, trọc lốc, khô khốc, khanh khách, ù ù, lộp bộp, chồm chồm, hả hê) đã tạo nên những vần thơ, những hình ảnh hồn nhiên, ngộ nghĩnh, thi vị. Mưa là một bài thơ đặc sắc của tuổi thơ và tâm hồn tuổi thơ.

23

Văn mẫu lớp 6 nêu cảm nhận về cảnh đẹp Cô Tô qua đoạn trích

Vote
0%
Văn mẫu lớp 6 nêu cảm nhận về cảnh đẹp Cô Tô qua đoạn trích

Bài kí Cô Tô của Nguyễn Tuân là một tác phẩm đặc sắc mà ở đó đoạn tả mặt trời mọc trên biển đã gây cho em sự thích thú, ham mê và trí tưởng tượng sâu sắc nhất.

Cảnh mặt trời mọc trên biển là một bức tranh rất đẹp và đầy chất thơ. Đây là đoạn văn miêu tả đẹp nhất của bài kí. Như một “sản phẩm quí”, vẻ đẹp của thiên nhiên như dâng sẵn, đón chờ, nhưng không phải ai cũng có thể cảm nhận được vẻ đẹp ấy một cách đầy đủ và tinh tế. Chính vì thế mà ngắm nhìn bình minh Cô Tô đối với Nguyễn Tuân không phải là một thú vui hưởng thụ, dễ dãi, thụ động mà là cả một cuộc đi tìm cái đẹp một cách công phu, đầy sự khám phá, sáng tạo. Như một nghệ sĩ đi săn lùng cái đẹp, Nguyễn Tuân đã dậy từ canh tư, lúc còn tôi đất, cô đi mãi trên đầu đá sư, ra thấu đầu mủi đảo. Và ngồi đó rình mặt trời lên. Người đọc cảm mến tác giả về lòng yêu quí, tôn thờ “cái đẹp” và cảm phục, thích thú vì công phu tìm kiếm cái đẹp của người nghệ sĩ, hồi hộp cùng tác giả chờ đón cái “đẹp” xuất hiện.

Rạng đông được tác giả miêu tả trong một câu rất súc tích và giàu sức gợi cảm. Chân trời, ngấn bể sạch như một tấm kính lau hết mây, hết bụi- Cảnh rất thực mà đẹp thần tiên, trong trẻo, tinh khiết. Nguyễn Tuân đã khéo léo, tinh tế tạo ra cái “phông”, cái nền cho vầng dương hiện trên mặt biển: Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh và phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Hình ảnh so sánh mà tác giả đã dùng ở đây thật là đặc sắc, vừa rất thực mà cũng rất mơ, rất kì ảo. “Thực” là vì qua làn hơi nước của mặt biển, mắt thường có thể nhìn rõ hình dáng “tròn trĩnh” của vầng thái dương. Mặt trời lúc ấy dịu êm, chưa chói loá, chưa làm nhức mắt, khiến cho người ta có thể ngắm nhìn và có cảm giác vầng mặt trời hiền hoà phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Hình ảnh so sánh “rất mơ” rất kì ảo vì nó là kết quả của óc quan sát, nhận xét tinh tế và kết hợp với trí tưởng tượng phong phú, táo bạo của tác giả. Không dừng ở đó, óc quan sát sắc sảo, tâm hồn tinh tế, kết hợp với trí tưởng tượng phong phú, táo bạo của Nguyễn Tuân đã biện những lời văn miêu tả của ông thành một bức tranh sơn mài tráng lệ. Sự am hiểu của tác giả về hội hoạ tăng thêm hiệu lực cho ngòi bút miêu tả, đoạn văn giàu chất tạo hình và màu sắc khiến nó sáng rực lên, đẹp một vẻ đẹp kì ảo mà lại rất thực. Người đọc chưa hết sững sờ trước hình ảnh so sánh mặt trời tròn trĩnh, phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn, thì lại sững sờ trước một vẻ đẹp kì ảo khác: Quả trứng hồng hào, thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính mâm rộng bâng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Ba tính từ đặt liên tiếp cạnh nhau (hồng hào, thăm thẳm, đường bệ) có tác dụng tả màu sắc, trạng thái, hình dáng mặt trời làm cho nó nổi bật lên trên cái mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng. Màu hồng và màu ánh bạc là hai màu sắc có sức gợi cảm của tranh sơn mài, cũng là hai màu sắc chủ đạo của bức tranh này.

Vẻ đẹp của mặt trời mọc trên biển Cô Tô quả là tặng vật vô giá của thiên nhiên ban cho người lao động suốt đời gắn bó với biển cả. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Câu văn đẹp, một vẻ đẹp cổ điển, mẫu mực. Hình ảnh so sánh vầng mặt trời và bầu trời trên biển Cô Tô như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh… là một hình ảnh hết sức trang trọng, uy nghi, lộng lẫy và giàu chất nhân bản vì nó hướng tới “Con người”, vì “Con người”, kính trọng người lao động. Ta như có cảm giác thiên nhiên vĩ đại đang tự đẹp lên vì “Con người”, đang cung kính dâng lễ phẩm trong buổi lễ mừng thọ tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Và cùng lúc, chúng ta đón nhận mâm lễ phẩm của Nguyễn Tuân, một mâm lễ phẩm sang trọng, ông dâng cho muôn thuở văn chương: những trang viết tài hoa, huy hoàng của ông! Đến đây, người đọc cảm phục Nguyễn Tuân vì tài văn chương mà cũng vô cùng kính trọng cái “tâm” rất đẹp của ông. Cái “Tâm” rất đẹp của Nguyễn Tuân luôn hướng về người dân lao động của đất nước mình.

Bức tranh bình minh trên biển Cô Tô sẽ giảm đi rất nhiều vẻ đẹp nếu như nhà văn không điểm vào đó mấy cánh chim không khi nào thiếu vắng trên biển. Vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể sáng dần lên cái chất bạc nén. Một con Hải âu bay ngang là là nhịp cánh. Đôi nét chấm phá cuối cùng đã hoàn tất bức tranh, làm cho bức tranh sống động, đầy chất thơ. Đây là những cánh chim xưa thường chấp chới, sáng lên trong những áng thơ cổ điển. Trong đoạn văn này, những cánh chim biển nhỏ nhoi có tác dụng rất lớn: nó thổi hồn thơ vào văn xuôi. Phải chăng đó là nét tài hoa của ngòi bút văn chương Nguyễn Tuân.

Em chưa một lần được ngắm cảnh bình minh ở biển. Nhờ đoạn kí của Nguyễn Tuân đã giúp em chiêm ngưỡng, thưởng thức vẻ đẹp lộng lẫy, tráng lệ và kì diệu của mặt trời mọc trên biển Cô Tô. Cảm ơn nhà văn với trí sáng tạo đã khám phá, đã “vẽ” lên trong văn chương vẻ đẹp của Cô Tô, giúp ta thêm yêu vùng đảo xa xôi này. Cảm ơn Nguyễn Tuân đã dạy ta cả cách đến với “Cái đẹp”.

24

Văn mẫu lớp 6 tả hình ảnh cha mẹ khi em làm được việc tốt

Vote
0%
Văn mẫu lớp 6 tả hình ảnh cha mẹ khi em làm được việc tốt

Thế rồi điều mong ước cuối cùng cũng đến: tôi đã làm vui lòng mẹ với điểm mười môn toán. Tuy đây chẳng phải là một việc tốt lớn lao như việc làm của nhiều bạn khác nhưng với tôi, nó đã để lại một dấu ấn khó phai. Hình ảnh mẹ lúc ấy đến tận bây giờ tôi cũng vẫn chưa quên được.

Hôm đó, khi đi học về, tôi chạy ngay đến bên mẹ đưa bài kiểm tra ra khoe. Nhìn điểm mười đỏ chói trên tay tôi, dường như bao vất vả, mệt nhọc trên khuôn mặt mẹ tan biến đi đâu hết. Mẹ ngạc nhiên, vui mừng hỏi lại: “Chánh được điểm mười toán thật cơ à?” Mẹ kéo tôi vào lòng, đưa đôi bàn tay xương xương, gầy gầy vuốt nhẹ mái tóc rễ tre rối bù của tôi. Rồi mẹ đặt đôi tay ấm áp ấy lên hai má tôi khẽ nói: “Con trai của mẹ giỏi lắm! Nhưng con đừng tự thỏa mãn, phải cố gắng thật nhiều hơn nữa con à!”

Buổi trưa mùa đông hôm ấy cũng chỉ có mẹ và tôi, nhưng căn nhà không hề lạnh lẽo mà đầy ắp niềm vui và rộn rã tiếng cười. Mẹ đi lại nhanh nhẹn, vừa dọn dẹp nhà cửa vừa vui vẻ trò chuyện với tôi và đôi lúc còn cất tiếng hát khe khẽ nữa. Chuyện ở lớp, ở trường, thầy cô bè bạn,… chuyện nào tôi kể mẹ cũng chăm chú lắng nghe. Vừa nghe mẹ vừa mỉm cười, gật đầu trìu mến. Gương mặt mẹ rạng rỡ niềm vui, đôi môi nở nụ cười tươi tắn. Hình như bao lo toan, tất bật hằng ngày không còn in dấu trên khuôn mặt mẹ. Ánh mắt mẹ lấp lánh rạng ngời. Mẹ nhìn tôi bao dung, âu yếm. Cái nhìn của mẹ vừa như muốn chia vui vừa như muốn động viên khích lệ tôi phải cố gắng nhiều hơn nữa. Trên cành cây, mấy chú chim lích chích truyền cành, ngó nghiêng ngoài cửa sổ như cũng muốn chia vui cùng với mẹ con tôi. Tôi vô cùng hạnh phúc trước niềm vui của mẹ.

Bữa cơm của hai mẹ con chỉ có rau với trứng, nhưng tôi ăn rất ngon miệng. Có lẽ bởi lòng tôi náo nức một niềm vui: Vui vì đã làm được một việc tốt nho nhỏ khiến mẹ hài lòng. Tôi tự nhủ sẽ cố gắng làm nhiều việc tốt để niềm vui và nụ cười đọng mãi trên gương mặt mẹ.

Giờ đây, tuy đã là một cậu học sinh mười hai tuổi, nhưng tôi vẫn rất thích chạy nhảy, chơi đùa, nghịch ngợm. Nhờ có mẹ, tôi cũng đã phần nào khôn lớn. Tôi biết rằng: hình ảnh mẹ, ánh mắt mẹ trong những lần tôi phạm lỗi cũng như làm được việc tốt sẽ luôn theo tôi, nhắc nhở tôi không mắc sai lầm trong cuộc sống, giúp tôi có thêm nghị lực vững bước trên đường đời.

25

Văn mẫu lớp 6 phát biểu cảm nghĩ về tùy bút Cây tre Việt Nam

Vote
100%
Văn mẫu lớp 6 phát biểu cảm nghĩ về tùy bút Cây tre Việt Nam

Chiến thắng Điện Biên Phủ vang động cả thế giới khiến cho các dân tộc đang tiến hành cuộc cách mạng giải phóng khỏi ách áp bức của chế độ thực dân và những người tiến bộ khắp năm châu đều cảm phục và kính yêu nhân dân Việt Nam. Năm 1956, một số nghệ sĩ điện ảnh Ba Lan dựng một cuốn phim về nước ta lấy tên là Cây tre Việt Nam, coi cây tre tiêu biểu cho những đức tính tốt đẹp của nhân dân Việt Nam, nhất là tinh thần chiến đấu bất khuất, bền bỉ, kiên cường. Nhà văn Thép Mới viết lời thuyết minh cho bộ phim ấy. (Thuyết minh bắt buộc đi kèm hình ảnh trên phim, làm phận sự đưa ra đôi lời ngắn gọn, có ý nghĩa, để giới thiệu và làm tăng khả năng diễn đạt của hình ảnh). Bài văn này giàu chất thơ và giàu nhạc tính; hình ảnh đẹp có sức biểu cảm cao, chắp cánh cho trí tưởng tượng của người đọc bay bổng. Có thể coi đây là một thiên tuỳ bút xuất sắc, kết hợp nhuần nhuyễn, hài hoà giữa nghệ thuật miêu tả với trữ tình và bình luận.

Sau 1954, khí thế của chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn đang còn hừng hực nóng hổi như mới xảy ra hôm qua. Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam mỗi sáng vẫn cử bài Giải phóng Diện Biên làm nhạc hiệu. Nhân dân miền Bắc phấn khởi bắt tay vào khôi phục kinh tế, xây dựng xã hội chủ nghĩa. Các nước bạn giúp đỡ nước ta rất nhiều về cả vật chất lẫn tinh thần. Bộ phim Cây tre Việt Nam được hoàn thành và bài văn này được viết trong hoàn cảnh sôi động ấy.

Phim lấy cây tre làm biểu tượng, lời thuyết minh cũng phải theo ý đó. Các nhà làm phim miêu tả một đôi nét tiêu biểu, coi tre là thứ cây gắn bó, chở che cho một nền văn hoá, là người bạn thân thiết, gần gũi với người nông dân suốt cả một đời từ thuở nằm nôi cho tới lúc nhắm mắt xuôi tay. Tre là người bạn kề vai sát cánh trong cuộc sống lao động hằng ngày, đồng thời cũng là người bạn sonsắt, thuỷ chung trong cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp gian khổ, oanh liệt và chiến thắng lẫy lừng. Người dựng phim cũng như người viết thuyết minh nhằm ca ngợi cuộc sống giản dị, nên thơ, ca ngợi cuộc chiến đấu và chiến thắng vĩ đại của dân tộc Việt Nam với những đức tính tốt đẹp thể hiện nơi cây tre giản dị mà cao quý.

Bài văn chia làm bốn đoạn. Đoạn một là phần mở bài, nêu ý bao quát toàn bài và phác hoạ hình ảnh cây tre với những phẩm chất nổi bật của nó. Đoạn hai và ba là phần thân bài, phát triển và minh hoạ cho ý chính. Đoạn bốn là phần kết bài.

Nội dung ấy được mở rộng và minh hoạ bằng những chi tiết, hình ảnh sắp xếp theo trình tự hợp lí như sau:

Tre (và những cây cùng họ) có mặt khắp nơi trên đất nước ta. Tre có vẻ đẹp giản dị và nhiều phẩm chất đáng quý.

Tre gắn bó lâu đời với con người, đặc biệt là người nông dân trong cuộc sống lao động sản xuất.

 

Tre gắn bó với con người trong sự nghiệp chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước, mà cụ thể nhất là trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Tre vẫn mãi là bạn đồng hành thân thiết của dân tộc ta trên con đường đi tới tương lai.

Câu mở đầu khẳng định: Cây tre là bạn thân của người nông dân, bạn thân của nhân dân Việt Nam. Tre là một loại cây dễ trồng, dễ sống, có vẻ đẹp bình dị và mang nhiều phẩm chất quý báu. để tài về cây tre không mới, nhưng ở bài văn này sự liên tưởng giữa tre với người đã được mở rộng đến tầm dân tộc. Đây là nét độc đáo, có tính sáng tạo. Nhà văn không chỉ nhìn cây tre ở khía cạnh đạo đức mà nhìn toàn diện, bắt đầu từ khía cạnh tình cảm: tre là bạn thân của con người, chứ không bó hẹp trong phạm vi biểu tượng.

Chúng ta hãy tưởng tượng có một màn ảnh đang hiện lên trước mắt. Đất nước Việt Nam xanh mướt bốn mùa đủ loại cây lá khác nhau, nhưng nhiều nhất vẫn là tre nứa. Những cánh rừng tre miền Nam, miền Bắc, miền xuôi, miền ngược... nối tiếp nhau. Tác giả nhấn mạnh: trong muôn loài cây nhuộm xanh đất nước, nổi lên một loài thân thuộc nhất, đó là tre. Thân thuộc, chứ không phải là quen thuộc. Nghĩa là tre đã có quan hệ ruột thịt với người.

Lời thuyết minh đang hào hứng giới thiệu tre Đồng Nai của miền Nam, nứa Việt Bắc - cái nôi cách mạng và kháng chiến, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, nơi vừa mới ghi chiến thắng oanh liệt của dân tộc... bỗng dưng hạ một câu bất ngờ với giọng điệu ân tình, thủ thỉ: luỹ tre thân mật làng tôi. Tại sao lại xuất hiện làng tôi ở đây? làm gì có luỹ tre nào của làng quê tác giả trên màn ảnh? Vậy mà sao ta nghe vẫn thấy tự nhiên, hợp lí, thậm chí êm tai nữa? Ấy là vì nó phù hợp với ý thân thuộc trên kia. Đối với ai tre lại không thân mật?! Cho nên, luỹ tre trên màn ảnh kia, dù là của làng nào đi nữa thì cũng là luỹ tre thân mật làng tôi. Bởi con người Việt Nam chúng ta đi đến đâu mà chẳng có nứa tre làm bạn?

Đất nước vừa trải qua chín năm kháng chiến chống quân xâm lược Pháp cực kỳ gian khổ. Nhưng cũng chính trong những tháng ngày gian khổ ấy, chúng ta đã phát hiện ra rằng: dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khôi phục lại đầy đủ và đậm đà hơn cái truyền thống Nhiễu điều phủ lấy giá gương của tổ tiên tự nghìn xưa và cái truyền thống quý báu bầu bí chung giàn vừa cảm động vừa có ý nghĩa sâu xa. Bất kì ở đâu, trên đường chiến đấu, ta đều có những người mẹ, người chị, người em thân thương và những cây tre quấn quýt, ân tình. Câu văn không hề nói đến những điều đó nhưng trong âm hưởng của nó chứa đựng nội dung như vậy. Nói chuyện tre mà là nói chuyện tâm tình đất nước, tâm tình con người Việt Nam ta đó.

Sau khi giới thiệu chung, bây giờ ống kính lia cận cảnh, miêu tả một số đặc điểm, đồng thời là đức tính của tre, Biện pháp nghệ thuật nổi bật trong bài văn này là phép nhân hoá được tác giả sử dụng rất có hiệu quả để thể hiện những phẩm chất của cây tre. Một mầm măng nhú lên. Lời thuyết minh khái quát: Tre, nứa, trúc, mai, vầu mấy chục loại khác nhau, nhưng cùng một mầm non măng mọc thẳng. Nói về tre nhưng thấp thoáng đã gợi chuyện người. Cái mầm non ấy sau này sẽ trở thành biểu tượng trong phù hiệu của tuổi thơ Việt Nam, đương còn là măng nhưng đã hiên ngang, thẳng tắp.

Tiếp theo là những đức tính đáng quý của tre. Tre không đòi hỏi gì nhiều: Vào đàu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt. Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Kham khổ, thiếu thốn, vậy mà tre vẫn cứng cáp, dẻo dai, vững chắc... Đó là đức tính của tre và phần nào cũng là đức tính của nông dân ta. Đến lời bình luận:Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người... thì đích thực phẩm chất của tre đã là phẩm chất của người. Tre và người đã hoà với nhau làm một.

Bây giờ nói đến vai trò của tre trong nền văn hoá lâu đời của đất nước Việt Nam. Ống kính chiếu vào những vòm tre rợp bóng vươn cao, nghiêng mình ôm ấp những xóm làng, như ôm ấp cuộc đời của cả một dân tộc.

Câu Bóng tre trùm mát rượi đẹp như một câu thơ và cả đoạn văn này lấy chữ trùm làm nốt nhạc chủ đạo:Bóng tre trùm lên âu yếm làng bản, xóm, thôn. Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái đình mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hoá lâu đời... Trên màn ảnh hiện ra nào làng, bản, xóm thôn, nào mái chùa cổ kính, nào mái đình rêu phong... tiêu biểu cho một nền văn hoá lâu đời và bên cạnh đó là cảnh sống của người dân cày với hình ảnh cây tre luôn ở bên cạnh, trở thành người nhà, cùng chung sống, giúp đỡ nhau đời đời, kiếp kiếp... Tre như cánh tay của người nông dân lao động vất vả quanh năm không hề ngơi nghỉ. Hai câu thơ sánh đôi như hai người bạn chí cốt: Cánh đồng ta năm đôi ba vụ, Tre vói người vất vả quanh năm, góp phần khẳng định thêm quan hệ khăng khít đó. Ở trên còn là nói chung chung, đến đây tác giả nêu cụ thể sự gắn bó giữa tre với người từ lúc còn thơ cho tới lúc tuổi già. Tre toả bóng mát chở che cho thuở ban đầu hò hẹn nỉ non. Giang chẻ lạt gói bánh chưng xanh, thắt chặt mối lương duyên cho trai gái thành vợ thành chồng. Tre là nguồn vui duy nhất của trẻ em thôn quê qua những que chuyên đánh chắt. Tre đem lại giây phút khoan khoái cho tuổi già khi thong thả rít điếu thuốc lào từ chiếc điếu cày tre. Như vậy, từ thuở lọt lòng trong chiếc nôi tre, đến khi nhấm mắt xuôi tay, nằm trên giường tre, tre với mình, sống có nhau, chết có nhau, chung thuỷ.

Đoạn văn nhẹ nhàng, êm dịu, đầy chất trữ tình. Có thể coi lời thuyết minh ở đoạn này như thiên trường ca về lịch sử của một nền văn hoá được cô đọng lại trong hình ảnh cây tre và hình ảnh người nông dân Việt Nam trải mấy ngàn năm. Bóng mát của tre ôm trùm, che chở. Tre là cánh tay, là bạn tâm tình, là nguồn vui, là niềm khoan khoái. Tre đong đưa trẻ thơ, tre nâng đỡ thân già. Tre là người nhà, người thân, đời đời, kiếp kiếp.

Nhà văn miêu tả cây tre rất chân thực nhưng cũng hết sức trữ tình, bay bổng. Không chỉ có hình tượng trên màn ảnh và trong lời văn làm nên vẻ đẹp của tre mà còn có nhạc điệu du dương trong từng chữ, từng câu. Tiết tấu trong câu, trong đoạn, trong cả bài văn đều có sự cân đối, bằng trắc xen nhau, kết hợp hài hoà, tạo nên một âm hưởng ngân nga, sâu lắng.

Tre gắn bó không rời với con người trong cuộc sống đời thường và tre càng không rời con người trong sự nghiệp chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước.

Từ nghìn xưa, tre đã lập kỳ tích với người anh hùng làng Gióng đánh đuổi giặc Ân. Trong buổi đầu chống Pháp, tre đương đầu với giặc bằng chiếc gậy tầm vỏng. Tre trở thành đổng đội, đồng chí của người và cùng người lập nên nhiều chiến công vang dội.

Buổi đầu tuy chưa có sắt thép trong tay nhưng quyết tâm đánh giặc của cả dân tộc ta là vô cùng lớn lao. Cho nên tầm vông vạt nhọn đã trở thành vũ khí sắc bén chống quân xâm lược Pháp với đầy đủ vũ khí do đế quốc Mĩ, thực dân Anh giúp sức. Gậy tre, chông tre đã dựng nên Thành đồng Tổ quốcở miền Nam ngay sau buổi đầu kháng chiến.

Từ ngàn xưa, tre đã cùng người nông dân đi vào bao cuộc trường chinh của dân tộc. Tre cùng anh bộ đội - người nông dân mặc áo lính - chiến đấu dũng cảm, kiên cường. Bộ đội khiêng pháo lên trận địa thì tre làm đòn, đạp rào xông vào đồn địch thì tre làm liếp đè lên dây thép gai. Bộ đội leo lên đồn giặc bằng chiếc thang tre, vượt qua bờ hào của giặc bằng chiếc cầu tre. Bộ đội cần được tiếp cơm, tiếp nước thì tre làm đòn gánh kĩu kịt trên vai chị dân công. Bộ đội qua sông thì tre sẵn sàng làm bè nứa, thuyền nan. Đến trận Điện Biên Phủ, bộ đội ta đã có thêm sắt thép nhưng vẫn khiêng pháo lên trận địa bằngchạc nứa, đòn tre... Nhớ lại buổi đầu kháng chiến, bao nhiêu là gian lao, vất vả, cơm thiếu gạo khan, tre lại hiến dâng cả máu thịt của mình: măng dang, măng nứa thay cơm, tro nứa thay muối nuôi anh bộ đội.Bộ đội ta anh hùng, tre cũng xứng đáng là anh hùng.

Suốt chín năm trường kháng chiến chống Pháp, tre đã đứng lên, thật sự chiến đấu như người. Không còn là nghệ thuật nhân hoá thông thường mà đã là một sự hoá thân kì diệu. Tre biến thành người trong cuộc chiến đấu và chiến thắng thần kì: Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người... Yêu anh bộ đội, tre đi vào cuộc trường chinh... Tre phá đồn giặc, tre đi xung kích... Tre đã dự trận Điện Biên Phũ... Tre vui với anh bộ đội. Tre hoà tiếng hát khải hoàn...Đoạn văn hừng hực lửa chiến đấu, cao vút khí thế anh hùng ca, giống như bài sử thi ca ngợi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc.

Tác giả không chỉ ca ngợi cây tre trong chiến đấu ở mặt anh hùng, bất khuất, dũng cảm, kiên trinh... mà còn ca ngợi cây tre ở mặt tình cảm, tâm hồn. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác... là vì tre có tấm lòng thương yêu vô hạn con người, làng xóm, mái tranh, đồng lúa... Tre muốn che chở, giữ gìn tất cả những gì thân thuộc nhất trên đất nước này.

Anh bộ đội cùng tre đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng, vinh quang sáng chói. Giặc tan, non sông thái bình, trong tiếng hát khải hoàn của con người còn có tiếng nói của tre qua tiếng sáo trúc réo rắt vang ngân.

Mừng hoà bình, tre trỗi dậy điệu nhạc của đồng quê mênh mông, bát ngát. Đó là tiếng nhạc véo von của cây sáo trúc. Tiếng sáo cùng chiếc diều vút bay theo gió. Gió càng mạnh, diều càng cao, tiếng sáo lại càng du dương, trầm bổng. Mấy câu cuối bài văn đẹp như một bài thơ trữ tình chứa chan, dạt dào cảm xúc:

Diều bay, diều lá tre bay lưng trời...

Sáo tre, sáo trúc vang lưng trời...

Gió đưa tiếng sáo, gió nâng cánh diều.

Trời cao lồng lộng, đồng ruộng mênh mông, hãy lắng nghe tiếng hát giữa trời cao của trúc, của tre...

Đó là tiếng hát của tương lai. Tương lai thuộc về các em thiếu nhi của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Các em lớn lên như măng mọc thẳng và cũng sẽ mang chất tre cứng cáp, dẻo dai, bất khuất như thế hệ cha anh. Ngày mai, trong cuộc sống sẽ có nhiều sắt thép nhưng tre vẫn còn rủ bóng trên đường các em đi học và tre vẫn mang khúc nhạc tâm tình trong điệu sáo trúc, vẫn tươi vui nơi cổng chào thắng lợi, trên chiếc đu tre bay bổng ngày xuân. Tre sẽ còn mãi với dân tộc Việt Nam, chia bùi sẻ ngọt của những ngày mai tươi hát, còn mãi với chúng ta, vui hạnh phúc, hoà bình.

Kết thúc cuốn phim, kết thúc lời giới thiệu Cây tre Việt Nam là như vậy. Với bề ngoài nhũn nhặn, hiền lành nhưng bên trong chứa chan tình cảm và nhiều đức tính tuyệt vời, cây tre xứng đáng tiêu biểu cho phẩm chất của dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam.

Bài văn nói chuyện cây tre, kì thực là ca ngợi người nông dân Việt Nam đời đời gắn bó với cây tre. Bên ngoài cũng nhũn nhặn, mộc mạc như cây tre, ở đâucũng sống khoẻ, cũng xanh tốt như tre. Khi có giặc ngoại xâm, đi vào cuộc chiến đấu, người nông dân cũng như cây tre, thẳng ngay, can đảm, bất khuất, dù hi sinh vẫn giữ vững tinh thần: Trúc dẫu cháy, tiết ngay vẫn để. Đó là phẩm giá tốt đẹp, cao quý của con người Việt Nam đã có tự thuở xưa mà ông cha ta đã gửi gắm qua hình ảnh của cây tre bình dị, thân thuộc mà biết mấy yêu thương, gắn bó.