Top 50 bài văn mẫu lớp 6 đa chủ đề đáng xem nhất giúp học sinh thêm yêu môn văn
- 1,282 views
Đề văn mẫu lớp 6 hay nhất theo hình thức đa nội dung giúp các em đang theo học khối lớp này vươn tới “chân trời tri thức” văn học bất tận, nâng tầm hiệu quả học văn nhờ vô số nhận định trực quan, sâu sắc. Văn mẫu lớp 6 được coi là đáng xem khi chúng cho học sinh tầm hiểu biết, bổ túc ngôn từ, đưa cả “chất thơ” pha trộn thực tiễn ở mức cân bằng nhằm “dẫn dắt” học sinh lớp 6 thêm quý mến và khơi gợi niềm yêu thích học môn văn trong các em. Văn mẫu lớp 6 bắt đầu có sự phân luồng, bao gồm những chủ điểm như tác phẩm, nhân vật văn học tới sự vật, cảnh tượng thân thuộc cùng con người hằng ngày. Tùy mỗi cá nhân học sinh, văn mẫu lớp 6 sẽ khai sáng, giúp ích, hỗ trợ theo nhiều hướng đi khác nhau. Hiểu được như cầu tìm tòi, học hỏi từ các dạng văn mẫu lớp 6 hay, nên topshare đã tổng hợp bài viết liên quan tới top bài văn mẫu lớp 6 đa chủ đề đáng xem nhất bên dưới. Cùng check để tham khảo nhé!
26
Văn mẫu lớp 6 tả cảnh hoàng hôn quê em

Nghỉ hè, em cùng bố mẹ về quê thăm ông bà nội. Ngồi trong xe ô tô, mở cửa số ra đón cơn gió thoảng qua làm em khoan khoái cả người. Khi gần về đến quê thì cũng là lúc hoàng hôn buông xuống, em đưa mắt ngắm phong cảnh quê hương trong buổi hoàng hôn.
Cảnh hoàng hôn nơi đây đẹp tuyệt vời. Nếu em là một nhà thơ chắc chắn sẽ làm một bài thơ ca ngợi bức tranh thiên nhiên hữu tình này. Ở phía Tây, mặt trời rực đỏ đang từ từ lặn khuất dưới hàng dừa xanh, ánh rẽ quạt chiếu hắt lên bầu trời, chiếu xiên ngang mặt đất… Ở nơi xa, từ phía chân trời, từng đàn chim gọi bầy đang bay về tổ. Những cánh cò trắng muốt điểm một hàng dài trên bầu trời xanh trong ráng chiều nhạt dần như cuốn hút em.
Phía xa xa, nơi cánh đồng bạt ngàn, các bác nông dân đã vác cuốc thu dọn dụng cụ chuẩn bị về nhà. Từng tốp người xuất hiện trên đường làng nói nói, cười cười vui vẻ. Tiếng gọi nhau, tiếng máy cày, máy xới nổ ì ạch trên đường trở về. Chắc là máy của bác Tám - người nông dân lao động giỏi, giàu nổi tiếng vùng này đã từng được giới thiệu điển hình trên tivi.
Ánh nắng đã nhuộm vàng hàng cau hai bên đường, hương cau thoang thoảng càng quyến rũ lòng người. Em lại dõi mắt nhìn theo đôi chim vừa về tổ. Chúng kêu ríu rít. Các con chim non đang chíp chíp như gọi mẹ. Hai vợ chồng chim đang mớm mồi cho chúng. Nhìn cảnh ấy, em chợt mỉm cười một mình. Chỉ một chút nữa thôi mình cũng sẽ được như những con chim non kia. Ông bà sẽ ra đón cả nhà.
Bây giờ thì mặt trời đã lặn khuất sau hàng tre. Ánh sáng còn le lói phía tây, chân trời đùn lên những đám mây nhiều hình, nhiều vẻ, bóng tối lan dần trên bầu trời. Cảnh vật mờ dần, đôi chỗ sương trắng đã chập chờn. Người đi đường vắng hẳn, chỉ còn lác đác vài người trên cánh đồng.
Trong thôn, cây cối, nhà cửa đã nhòa đi trong ánh sáng mờ mờ. Khói bếp nhà ai đang lan tỏa trong bóng chiều như sương mờ bao phu. Bầu trời tối hẳn. Ánh sao đã nhấp nháy trên bầu trời. Màn tối đã bao phủ cánh đồng. Những ánh đèn đã bật sáng trong các gian nhà ở đầu thôn cuối xóm. Ông bà em đã đứng đợi cả nhà ở cửa lúc nào.
Thật là một buổi hoàng hôn đáng nhớ. Em chợt thấm thía điều mà mọi người thường ca ngợi “không có nơi đâu đẹp bằng quê hương mình”.
27
Văn mẫu lớp 6 kể về cuộc đi thăm di tích lịch sử của em

Vào một sáng cuối xuân, đầu hạ, khi bầu trời còn đẫm sương đêm, đoàn xe tham quan của trường em đã bắt đầu chuyển bánh. Những chiếc xe đầy ắp tiếng cười lướt nhẹ qua cây cầu bắc ngang sông Đáy hiền hòa,"trong vắt, rồi tiếp tục bon bon trên quốc lộ 1. Xa xa, sau làn sương mờ, dãy Non Nước hiện lên đẹp như một bức tranh phong cảnh. Chúng em đều cảm thấy hồi hộp vì tuy nghe tiếng đã lâu nhưng chưa ai được đặt chân tới mảnh đất quê hương cờ lau dẹp loạn này bao giờ. Tiếng cười nói trong xe tạm lắng xuống, nhường chỗ cho những ánh mắt háo hức, chờ đợi.
Hoa Lư đây rồi! Kinh đô đầu tiên của nước Đại Việt chính là đây. Toàn bộ khu di tích nằm trong một vùng đất trũng lòng chảo, xung quanh bao bọc bởi những ngọn núi trùng điệp. Thiên nhiên đã khéo sắp đặt cho nơi này một cảnh quan hùng vĩ, vừa có sông nước vừa có núi non. Phong cảnh hữu tình biết mấy!
Đến Hoa Lư hôm nay, em không còn được nhìn thấy những cung điện nguy nga, những thành cao hào sâu… nhưng mỗi tấc đất, mỗi ngọn núi nơi đây đều ghi đậm dấu ấn vẻ vang của một thời kỳ lịch sử oai hùng. Kia là núi Cột Cờ cao hơn 200 mét như một chân đế khổng lồ để vua Đinh dựng cờ khởi nghĩa. Đây là ngôi Sao Khê chảy qua hang Luồn, là nơi thuỷ quân ta luyện tập. Chúng em còn đi thăm hang Muối, hàng Tiền với những nhũ đá lóng lánh. Nghe nói đây là kho dự trữ, nguồn cung cấp quân lương cho Đinh Bộ Lĩnh ngày xưa.
Giữa khu di tích Hoa Lư có đền thờ Đinh Tiên Hoàng. Ngôi đền sừng sững, mái cong vút, lợp ngói hình vảy cá, rêu xanh đã phủ dày dấu thời gian. Cột đền làm bằng những cây gỗ to, một vòng tay ôm không hết. Ngoài sân rồng còn lưu lại dấu tích bệ đặt ngai ngự của vua. Đó là một phiến đá to, bằng phẳng. Các nghệ nhân tài hoa thuở trước đã khéo léo khắc chạm lên mặt đá hình rồng bay rất đẹp. Xung quanh là hình con nghê, hình chim phượng cao quý và dũng mãnh tượng trưng cho quyền uy của nhà vua. Chúng em ngắm chiếc sập đá lòng thầm khâm phục những bàn tay tài hoa của ông cha thuở trước.
Sâu trong chính cung là tượng Đinh Tiên Hoàng đang ngự trên ngai. Nhà vua mặc áo thêu rồng, đội mũ bình thiên, bàn tay xòe rộng đặt nhẹ trên gối, vẻ cương nghị đọng lại ở đôi môi mím chặt, đôi mắt mở to nhìn thẳng. Thắp một nén hương tưởng niệm, chúng em kính cẩn dâng lên vị vua đã có công xây dựng Hoa Lư thành kinh đô của nước Đại Việt.
Tạm biệt đền Đinh Tiên Hoàng, chúng em đến thăm đền thờ vua Lê, ở phía bên trái khu di tích. Vua Lê vận long bào, đội mũ miện vàng, đeo kiếm ngang lưng trông rất oai nghiêm. Trong, khu vực đền thờ còn có bức tượng một người phụ nữ phúc hậu đoan trang. Đó là thái hậu Dương Vân Nga, bậc liệt nữ có một không hai trong lịch sử nước nhà. Bà đã ghé vai gánh vác sự nghiệp cả hai triều Đinh - Lê. Những vị được tôn thờ ở đây đều là những con người kiệt xuất, mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Không có thời gian để leo núi, chúng em đứng trong thung lũng, ngẩng đầu nhìn bốn phía để cảm nhận rõ thêm vị thế hiểm trở của cố đô..Có bạn đã giở sổ tay, đưa nhanh vài nét kí họa. Nhiều tiếng bàn bạc sôi nổi về phong trào cờ lau dẹp loạn thuở nào.
Trời đã xế chiều. Chúng em lưu luyến ra về và nuối tiếc vì chưa bẻ được mấy bông lau làm cờ cho xe mình thêm khí thế. Tạm biệt Hoa Lư, chúng em hiểu thêm về lịch sử dân tộc và cảnh đẹp đất nước. Chuyến đi tham quan này đã trở thành đề tài cho những cuộc trò chuyện sôi nổi ở lớp em suốt những ngày sau đó.
28
Văn mẫu lớp 6 phát biểu cảm nghĩ về bài Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử

Hơn một thế kỉ qua, cầu Long Biên đã chứng kiến bao sự kiện lịch sử hào hùng, bi tráng của Hà Nội. Hiện nay, tuy đã rút về vị trí khiêm nhường nhưng cầu Long Biên vẫn mãi mãi là một chứng nhân lịch sử không chỉ của riêng Hà Nội mà là của chung cả nước.
Cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử là một bài báo mang nhiều yếu tố hồi kí, ghi lại những sự kiện mắt thấy tai nghe cùng với những cảm nghĩ của tác giả. Lối viết giàu cảm xúc bắt nguồn từ sự hiểu biết phong phú cùng với những kỉ niệm về cây cầu Long Biên nổi tiếng cùng với phép nhân hóa đã tạo nên sức hấp dẫn của bài văn.
Thúy Lan, một phóng viên của báo Hà Nội mới đã viết bài bút kí này nhằm giới thiệu với nhân dân cả nước và bè bạn năm châu một danh thắng đặc biệt của Thủ đô Hà Nội – cầu Long Biên. Một chiếc cầu đã gắn liền với lịch sử hào hùng, oanh liệt của dân tộc Việt Nam.
Sau khi giới thiệu tóm tắt về hoàn cảnh ra đời của cầu Long Biên, tác giả hồi tưởng về những kỉ niệm có liên quan đến nó. Từ thuở học trò, cầu Long Biên đã đi vào bài thơ mà thầy giáo bắt học thuộc lòng. Nhớ lúc dạo chơi trên cầu, ngắm dòng nước sông Hồng cuồn cuộn phù sa, ngắm cảnh mênh mông, bát ngát của ruộng lúa, bãi ngô dưới chân cầu. Nhớ lại hình ảnh dũng mãnh của trung đoàn Thủ đô năm xưa bí mật rời Thủ đô ra đi kháng chiến. Hình ảnh hào hùng ấy đã được nhà thơ Chính Hữu và nhạc sĩ tài hoa Lương Ngọc Trác ghi lại rất thành công trong ca khúc Ngày về.
Tác giả vừa đau xót vừa tự hào khi ngước mắt lên bầu trời trong xanh, nhớ lại cảnh máy bay giặc Mĩ ném bom tàn phá cây cầu hòng cắt đứt mặt mạch máu giao thông quan trọng của Thủ đô Hà Nội và quân dân ta đã đánh trả quyết liệt, kịp thời hàn gắn lại vết thương của cầu… Trong kí ức lại hiện lên những ngày bão lụt, nước sông Hồng dâng cao cuồn cuộn sóng đỏ; chiếc cầu vẫn vững chãi tồn tại như thách thức với thiên tai.
Cuộc chiến tranh chống xâm lược Mĩ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã kết thúc thắng lợi. Mưa bom bão đạn đã qua, dân tộc Việt Nam bắt tay vào công cuộc xây dựng lại non sông. Cây cầu Long Biên vẫn sừng sững soi bóng trên dòng sông Hồng. Giờ đây, cầu Long Biên là nhịp cầu hữu nghị, đón bè bạn năm châu đến với Việt Nam.
Mở đầu bài văn, tác giả giới thiệu lai lịch của cầu Long Biên: Cầu Long Biên bắc qua sông Hồng, Hà Nội, được khởi công xây dựng vào năm 1898 và hoàn thành sau bốn năm, do kiến trúc sư nổi tiếng người Pháp Ép-phen thiết kế. Một thế kỉ qua, cầu Long Biên đã chứng kiến bao sự kiện lịch sử hào hùng, bi tráng…
Trong đoạn văn này, sự vật được trình bày một cách khách quan. Tác giả chủ yếu dùng phương thức thuyết minh để nói lên những hiểu biết có căn cứ khoa học chứ không đơn thuần là những cảm nghĩ về cầu Long Biên.
Giờ đây, bắc ngang sông Hồng đã có thêm cầu Thăng Long, cầu Chương Dương hiện đại hơn. Cầu Long Biên trong thời bình đã rút về vị trí khiêm nhường, nhưng nó đã trở thành chứng nhân lịch sử. Cầu Long Biên như một nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng của Thủ đô Hà Nội.
Đối với người Hà Nội nói riêng và đối với nhân dân Việt Nam nói chung, cầu Long Biên là chứng nhân lịch sử, chứng kiến những giai đoạn đau thương và oanh liệt của dân tộc chống ngoại xâm.
Ở đoạn tiếp theo, những đặc điểm của cây cầu Long Biên đã được tác giả trình bày trong mối tương quan với những vấn đề lịch sử – xã hội khác, như cầu khi mới khánh thành mang tên Toàn quyền Pháp ở Đông Dương lúc bấy giờ là Đu-me… cầu là kết quả của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, cầu được coi là một thành tựu quan trọng trong thời văn minh cầu sắt… Cầu được hoàn thành là do công sức lao động và mạng sống của hàng nghìn người Việt Nam trong quá trình xây dựng.
Chiếc cầu từng chứng kiến cảnh ăn ở khổ cực của dân phu Việt Nam, cảnh đối xử tàn nhẫn của các ông chủ người Pháp… Trong các chi tiết tường thuật và miêu tả đều biểu hiện tình cảm và sự đánh giá đúng đắn của tác giả về cầu Long Biên.
Mục đích của thực dân Pháp là xây dựng cơ sở hạ tầng cho tốt đế tiến hành triệt để việc khai thác thuộc địa. Nhưng khi dựng xong cầu Long Biên, với cách nghĩ và cách cảm của người dân Việt Nam, chiếc cầu được coi là của Việt Nam vì nó được làm trên đất Việt Nam, bằng mồ hôi và máu của hàng nghìn người dân Việt Nam. Cầu Long Biên đã trở thành niềm tự hào của người dân Thủ đô:
Hà Nội có cầu Long Biên
Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng.
Tàu xe đi lại thong dong
Người người tấp nập gánh gồng ngược xuôi…
Tình cảm của tác giả đối với cầu Long Biên bộc lộ trong bài và thật rõ ràng, tha thiết:
Những năm tháng hòa bình trước đây, cầu Long Biên từng được đưa vào sách giáo khoa. Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh chiếc cầu được vẽ trang trọng giữa trang sách với bài thơ đã được bao thế hệ học thuộc tặng. Dù chưa đến lớp nhưng nghe các anh các chị đọc, những câu thơ ấy đã nằm sâu trong trí óc tôi…
Cây cầu Long Biên đã cùng vui buồn, sống chết với nhân dân Thủ đô và nhân dân cả nước trong những tháng năm mưa bom bão đạn. Giờ đây, được thanh thản ngắm trời thu xanh biếc, tác giả vẫn bồi hồi, đau xót khi nhớ lại cảnh cầu Long Biên bao lần bị quân thù bắn phá, tưởng chừng như không thể nào đứng vững.
Và cứ mỗi lần ngẩng lên nhìn bầu trời Hà Nội trong xanh, lòng tôi lại nhớ những năm tháng chống đế quốc Mĩ oanh liệt và oai hùng. Chiếc cầu thân thương ngày ấy trở thành mục tiêu ném bom dữ dội nhất của không lực Hoa Kì. Trong đợt đánh phá miền Bắc lần thứ nhất, cầu bị đánh mười lần, hỏng bảy nhịp và bốn trụ lớn. Đợt thứ hai, cầu bị bắn phá bốn lần với 1000m bị hỏng và hai trụ lớn bị cắt đứt. Những ngày ấy từ phía Cầu Đất nhìn lên, tôi thấy chiếc cầu rách nát giữa trời. Những nhịp cầu tả tơi như ứa máu nhưng cả cây cầu vẫn sừng sững giữa mênh mông trời nước. Chúng ta hàn. Bom Mĩ lại cắt đứt. Lần cuối cùng vào năm 1972, chiếc cầu bị không quân Mĩ ném bom la-de. Tôi chạy lên cầu ngay khi tiếng bom vừa dứt. Những cảnh vệ đầu cầu đã ngăn không cho tôi lên. Nước mắt ứa ra, tôi tưởng như mình đứt từng khúc ruột.
Vào thời gian ấy, thiên tai đồng hành với địch họa:
Rồi những ngày nước lên cao, gần mấp mé thân cầu. Đứng trên cầu, nhìn dòng sông Hồng đỏ rực nước cuồn cuộn chảy với sức mạnh không gì ngăn nổi, nhấn chìm bao màu xanh thân thương, bao làng mạc trù phú đôi bờ, tôi cảm nhận thấy chiếc cầu như chiếc vòng đung đưa nhưng vẫn dẻo dai, vững chắc.
Dường như có một phép lạ nào đó, cây cầu Long Biên vẫn tồn tại lẫm liệt đường hoàng. Ngày ngày, vẫn đưa đón dòng người ngược xuôi muôn ngả.
Cầu Long Biên được nhân hóa, mang hồn người và được coi là chứng nhân lịch sử. Phép nhân hóa đó đã đem lại sự sống cho sự vật vô tri vô giác. Cầu Long Biên đã trở thành người cùng thời với bao thế hệ, ngày ngày chứng kiến và xúc động trước những thăng trầm, đổi thay to lớn của Thủ đô, của đất nước và dân tộc.
Giọng điệu trữ tình được nâng cao, mở rộng ở phần cuối của bài văn: Bây giờ cầu Long Biên đã rút về vị trí khiêm nhường. Ngang sông Hồng đã có cầu Thăng Long, cầu Chương Dương sừng sững. Rồi sẽ còn có những chiếc cầu khác hiện đại hơn nữa vượt sông Hồng. Nhưng tôi vẫn thường đưa những đoàn khách du lịch nước ngoài đến thăm cầu Long Biên. Họ trầm ngâm nện từng bước chân xuống mặt cầu. Họ đứng ỏ nhiều góc độ, ghi lại hình ảnh chiếc cầu lịch sử. Còn tôi, cố gắng truyền tình yêu cây cầu của mình vào trái tim họ, đặng bắc một nhịp cầu vô hình nơi du khách để du khách ngày càng xích lại gần với đất nước Việt Nam.
Lịch sử và hình ảnh quen thuộc, thân thương của cầu Long Biên không chỉ làm cho bao thế hệ người Việt Nam xúc động mà còn làm cho khách du lịch nước ngoài trầm ngâm suy nghĩ. Giữa ta và họ ít nhiều vẫn còn khoảng cách nhưng chính cầu Long Biên như một nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng đã góp phần rút ngắn khoảng cách ấy. Từ một chiếc cầu bằng sắt nối đôi bờ sông Hồng, tác giả đã gợi cho ta nghĩ đến một “nhịp cầu vô hình” nối những trái tim nhân loại.
29
Văn mẫu lớp 6 phân tích bức tranh thiên nhiên làng quê trong bài Lao Xao

Bức tranh thiên nhiên làng quê hiện lên trong đoạn trích Lao Xao của Duy Khán thật sinh động, gần gũi với mỗi chúng ta. Đọc văn bản ta như được hòa vào thế giới của các loài chim, của các bài đồng dao thấm đẫm chất dân gian,… và càng thêm yêu hơn phong cảnh làng quê Việt Nam.
Đoạn trích bắt đầu bằng không gian chớm hè, cái náo nhiệt, sôi động của mùa hạ đã tràn ngập khắp nơi: cây cối um tùm, tươi tốt, “cả làng thơm” , đó là mùi hương của “cây hoa lan nở hoa trắng xoá. Hoa giẻ từng chùm mảnh dẻ. Hoa móng rồng… thơm như mùi mít chín….”. Những mùi vị vô cùng thân thuộc, gần gũi, dung dị, tự nhiên mà biết bao trìu mến với mỗi người. Nhưng đâu chỉ có hương thơm, bức tranh còn trở nên sinh động hơn khi có sự góp mặt của những con ong, cái bướm. Nào ong vàng, ong vò vẽ, ong mật đang đánh nhau, tranh giành nhau để hút mật, những chú bướm hiền lành lặng lẽ rủ nhau bỏ đi. Từng hình ảnh đẹp đẽ, êm đềm của một vùng quê thanh bình hiện lên khiến người đọc chẳng thể nào quên được.
Ống kính máy quay di chuyển đến những đứa bé ngây thơ, hồn nhiên, chúng tụ đang tập ở góc sân, bàn tán, nói chuyện râm ran với nhau. Và cũng chính lúc ấy thế giới của các loài chim đa dang, phong phú hiện ra.
Các loài chim được chia ra làm từng lớp từ chim hiền cho đến chim dữ, với tài năng quan sát và sự am hiểu thế giới loài chim Duy Khán còn chỉ ra những đặc điểm riêng biệt của chúng. Bắt đầu là những chú bồ các với tiếng kêu váng trời, và loài chim này cũng thật đáng yêu khi vừa bay vừa kêu cứ như có ai đang đuổi đánh. Qua lời chị Điệp nào chim ri, sáo sậu, sáo đen,…cũng lần lượt xuất hiện. Chúng đều là họ hàng của nhau và có cùng chung đặc điểm ấy là “hiền”, khi sáo sậu, sáo đen hót báo hiệu năm ấy được mùa; mỗi khi tu hú kêu là thông báo quả đã chín đỏ cây, quả không sai chút nào.
Len lỏi trong những âm vang vui tươi là tiếng kêu của những con bìm bịp. Để lí giải về tiếng kêu của loài chim này, Duy Khán đã kể lại ngắn gọn truyện Sự tích còn bìm bịp. Với sự đan xen hài hòa giữa truyện dân gian và mạch kể khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn, sinh động hơn. Mỗi khi bìm bịp kêu là những loài chim ác, chim xấu xuất hiện. Cách tác giả chuyển từ miêu tả các loài chim hiền qua các loài chim dữ cũng thật tinh tế, thông qua tiếng bìm bịp kêu là sự xuất hiện của con diều hâu hung ác. Con diều hâu được tác giả mô tả các chi tiết về ngoại hình, đặc điểm: bay cao tít, mũi khoằm và đánh hơi rất tinh. Thêm vào đó là hình ảnh của những con quạ đen, quạ khoang chuyên đi ăn trộm trứng,… Tiếp đến là loài chim cắt, cánh nhọn như dao chọc tiết lợn, chúng được ví như loài quỷ đen vụt đến vụt đi. Nhưng chúng cũng phải kiếp sợ trước sự đoàn kết của loài chèo bẻo. Những hình ảnh so sánh thật sinh động, hấp dẫn, giúp người đọc hình dung được dáng vẻ bề ngoài, đặc điểm của các loài chim này.
Bức tranh các loài chim hiện lên thật phong phú, đa dạng về âm thanh và màu sắc. Tác giả đã rất tài hoa trong việc sử dụng các thành ngữ, đồng dao, truyện cổ tích đan xen vào tác phẩm khiến câu chuyện trở nên lí thú và hấp dẫn hơn. Ngoài ra, Duy Khán cũng khéo léo kết hợp giữa miêu tả, kể chuyện và nhận xét, bình luận qua đó chứng tỏ vốn hiểu biết phong phú và tình cảm yêu mến của tác giả dành cho các loài chim – người bạn thân thiết nhất của tuổi thơ. Cùng với tài năng quan sát tỉ mỉ, ngôn từ giản dị, dân dã, tất cả các yếu tố đó đã hòa quyện vào nhau tạo nên sức hút cho tác phẩm.
Qua bức tranh nhiên thiên ở vùng quê, ta đã nhận thấy rõ tài năng quát sát tinh tường, sự am hiểu về thế giới các loài chim của Duy Khán. Đồng thời cũng thấy được tình yêu thiên nhiên, quê hương tha thiết, sâu nặng của tác giả.
30
Văn mẫu lớp 6 nêu cảm nhận về tình yêu quê hương đất nước trong Bức thư của thủ lĩnh da đỏ

Quê hương đất nước - chao ôi, những tiếng đó xiết bao thân thương trìu mến đối với mỗi con người. Bởi lẽ quê hương đất nước là nơi ta cất tiếng khóc chào đời đầu tiên, nơi chôn nhau cắt rốn của ta, nơi ta lớn lên và trưởng thành, nơi cũng sẽ âu yếm đón nhận ta khi ta giã từ cuộc sống để trở lại lòng Đất Mẹ.
Hơn nữa, quê hương đất nước lại là nơi tổ tiên ta đã khai phá và lập nghiệp, nơi có mẹ ta, cha ta, có những gì thân thiết nhất với ta.
Đối với người da đỏ cũng vậy. Đã hàng ngàn năm nay, tổ tiên họ sinh cơ lập nghiệp bên những dòng sông hiền hoà, trong những cánh rừng giàu có và tươi đẹp, hay trên những đồng cỏ ngát hương hoa. Họ sống hoà đồng với thiên nhiên, vui vầy cùng thiên nhiên. Thế rồi người da trắng xuất hiện. Bọn thực dân da trắng đã săn đuổi những người da đỏ, chiếm đất đai của họ, xua đuối họ vào tận rừng sâu. Đất Mẹ thiêng liêng trở thành nơi cho bọn da trắng vắt kiệt màu mỡ đề kiếm lờí, bầu không khí trong lành bị vấy bẩn bởi khói của các nhà máy, nhừng dòng sông trong xanh hiền hoà bị vẩn đục bởi chất độc thải đổ ra từ các nhà máy, những cánh rừng thơ mộng bị chật phá, muông thú hiền lành dễ thương bị tàn sát không tiếc tay. Họ đau xót vô cùng nhưng không làm gì được bởi họ đã bị tước đoạt cái quyền quyết định về số phận của mảnh đất thân yêu. Nay, chỉ còn một phần nhỏ trong bao la đất đai của tổ tiên cũng đang có nguy cơ bị mất nốt bởi ý định ngông cuồng của bọn thực dân da trắng: mua đất của người da đỏ.
Người da đỏ phải lên tiếng. Bức thư trả lời ý muốn mua đất của tổng thống Mĩ Phreng- Klin pi- ơ-xơ của thu lĩnh da đỏ Xi-át-tơn là tiếng nói hùng hồn và đanh chép về tình yêu quê hương đất nước thiết tha sâu nặng của người da đỏ. Mỗi dòng thư đều thấm đẫm những tình cảm thân thương trìu mến dành cho quê hương đất nước.
Quê hương đất nước đối với người da đỏ thật thiêng liêng. Mỗi tấc đất của tổ tiên và vạn vật trên mảnh đất ấy đều hằn sâu trong kí ức họ:
Đối với đồng bào tôi, mỗi tấc đất là thiêng liêng, mỗi lá thông óng ánh, mỗi bờ cát, mỗi hạt sương long lanh trong những cánh rừng rậm rạp, mỗi bãi đất hoang và tiếng thì thầm của côn trùng là những điều thiêng liêng trong kí ức và kinh nghiệm của đồng bào tôi. Những dòng nhựa chảy trong cây cối củng mang trong đó kí ức của người da đỏ.
Người da đỏ hiếu rất rõ vì sao đất đai của tổ tiên lại thiêng liêng đến thế, bởi nó chính là cuộc sống của họ, là một phần trong máu thịt của họ:
Bởi lẽ mảnh đất này là bà mẹ của người da đỏ. Chúng tôi là một phần của mẹ và mẹ cũng là một phần của chúng tôi. Những bông hoa ngát hương là những người chị, người em của chúng tôi. Những mỏm đá, những vũng nước trên đồng cỏ, hơi ẩm của chú ngựa con và của con người; tất cả đều cùng chung một gia đình.
Hơn nữa, mảnh đất này còn là xương máu của tổ tiên, làm sao họ có quyền lãng quên?
Dòng nước óng ánh, êm ả trôi dưới những dòng sông, con suối đâu chỉ là những giọt nước, mà còn là máu của tổ tiên chúng tôi.
Có lẽ bao nhiêu tình cảm yêu thương trìu mến nhất người da đỏ đều dành cho mảnh đất thiêng liêng của cha ông họ. Nếu không thì sao thủ lĩnh Xi-át-tơn lại khẳng định: Mảnh đất này là bà mẹ của người da đỏ. Sự khẳng định ấy thể hiện sự gắn bó máu thịt với quê hương đất nước.
Yêu quê hương đất nước, người da đỏ gắn bó và yêu mến cả những vật bình dị, tầm thường nhất: từ những giọt sương, những bông hoa ngát hương, một con suối, dòng sông, đến tiếng lá cây lay động, tiếng vỗ cánh của côn trùng, những âm thanh êm ái của cơn gió thoảng qua, rồi cả bầu không khí trong lành xung quanh họ. Tình yêu đất nước gắn liền với tình yêu thiên nhiên.
Càng yêu mến quê hương đất nước bao nhiêu, người da đỏ càng xót xa bấy nhiêu khi thấy quê hương đất nước bị giày xéo, tàn phá. Nhìn cảnh mỗi tấc đất của tổ tiên bị giàng giật, huỷ hoại, lòng họ đau như cắt. Nỗi đau ấy biến thành lòng căm hận quân cướp nước. Dường như bao nhiêu căm hận đều trào ra ngòi bút kết án bọn thực dân da trắng của thủ lĩnh Xi-át-tơn:
Mảnh đất này đâu phải là những người anh em của họ (họ = những người da trắng), mảnh dắt này là kẻ thù của họ và khi đã chinh phục được, thì họ sẽ lấn tới... Họ cư xử với mẹ đất và anh em bầu trời như những vật mua được, tước đoạt được, rồi bán dần di như những con cừu và những hạt kim cương sáng ngời. Lòng thèm khát của họ sẽ ngấu nghiến đất đai, rồi để lại đằng sau những bãi hoang mạc.
Và đây nữa, cách đối xử tàn bạo của người da trắng đối với muông thú - những người bạn thân thiết mà người da đỏ yêu mến:
Tôi đã chứng kiến cá ngàn con trâu rừng bị chết dần chết mòn trên những cánh đồng trơ trọi ui bị người da trắng bán mỗi khi có đoàn tàu chạy qua.
Thủ lĩnh Xi-át-tơn thực sự phẫn nộ trước tội ác của bọn thực dân da trắng, ông chất vấn chúng:
Tôi là kẻ hoang dã, tôi không hiểu nổi tại sao một con ngựa sắt nhả khói lại quan trọng hơn nhiều con trâu rừng...
Và ông cảnh cáo chúng:
Con người là gì, nếu cuộc sống thiếu những con thứ? Và nếu chúng ra đi, thì con người cũng sẽ chết dần chết mòn vì nỗi buồn cô đơn về tinh thần, bởi lẽ điều gì sẽ xảy ra đối với con thú thì cũng chính xảy ra đối với con người. Mọi vật trên đời đều có sự ràng buộc.
Bức thư của thủ lĩnh da đỏ kết thúc bằng lời khẳng định: Ngài phải dạy con cháu rằng đất dưới chân chúng là những nắm tro tàn của cha ông chúng tôi... Ngài phải bảo chúng rằng đất đai giàu có được là do nhiều mạng sống của chủng tộc chúng tôi bồi đắp nên... Đất là Mẹ. Những lời nói đó như sự khẳng định tình yêu vĩnh cửu mà họ dành cho quê hương đất nước.
- top
- văn mẫu
- văn mẫu hay
- văn mẫu lớp 6
- văn lớp 6
- văn mẫu lớp 6 đáng xem
- văn mẫu lớp 6 hay nhất
- topshare
- văn mẫu lớp 6 đa chủ đề
- văn mẫu lớp 6 đa chủ đề đáng xem
- văn mẫu lớp 6 đa chủ đề đáng xem nhất
- top văn mẫu
- top văn mẫu hay
- top văn mẫu lớp 6
- top văn lớp 6
- top văn mẫu lớp 6 đáng xem
- top văn mẫu lớp 6 đáng xem nhất
- top văn mẫu lớp 6 hay nhất
- top văn mẫu lớp 6 đa chủ đề
- top văn mẫu lớp 6 đa chủ đề đáng xem
- top văn mẫu lớp 6 đa chủ đề đáng xem nhất
Phù hợp với bạn
23-07-2025 Roxana.Trần
14-07-2025 Thanh Thu
07-07-2025 Chè
07-07-2025 Chè
07-07-2025 Chè