Top 12 vị Hoàng đế nhà Trần trong Lịch Sử Việt Nam

  • 9,750 views
Top Share

03-11-2020 Thế Vũ Phạm

Nhà Trần là một triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam. Thời kỳ nhà Trần được coi là đỉnh cao của chế độ phong kiến trong lịch sử Việt Nam cũng như đây là thời kỳ hưng thịnh, rực rỡ, huy hoàng nhất trong lịch sử phong kiến dân tộc ta. Nhà Trần cũng là triều đại hiếm hoi mà sinh ra nhiều nhân tài cho dân tốc đến vậy, có thể kể đến như các danh tướng Trần Hưng Đạo, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật, các vị minh quân như đức vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông... Trong suốt quá trình tồn tại của mình, nhà Trần đã trải qua thời cai trị của 12 vị vua. Vậy họ là những ai? Hãy cùng tìm hiểu nhé?

6

Trần Hiến Tông

Vote
0%
Trần Hiến Tông

Trần Hiến Tông (chữ Hán: 陳憲宗 17 tháng 5, 1319 – 11 tháng 6, 1341) là vị hoàng đế thứ sáu của triều đại nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, trị vì trong 13 năm (1329 - 1341).

Hiến Tông tuy cai trị trên danh nghĩa nhưng việc điều khiển triều chính đều do Thái thượng hoàng Trần Minh Tông xử lý. Trong thời gian này, Thượng hoàng dấy binh đi dẹp loạn Ngưu Hống ở Đà Giang, đánh quân Ai Lao xâm phạm bờ cõi.

Dưới triều Trần Hiến Tông, biên giới phía Bắc và phía Nam tương đối ổn định. Thời gian trị vì của Hiến Tông, nhà Trần không tổ chức khoa thi nào để chọn nhân tài. Vào năm Đinh Sửu (1337) có xuống chiếu cho các quan trong triều cũng như ngoài các lộ, hàng năm xét những thuộc viên do mình quản lý, người nào siêng năng cẩn thận thì giữ lại, còn người nào không làm được thì truất bỏ.

Từ năm 1333 đến năm 1338 chỉ trong vòng 6 năm, đã có nhiều thiên tai lớn xảy ra như lụt lội, bão gió, động đất. Vì vậy Trần Hiến Tông hạ lệnh cho các nơi lập kho lương chứa thóc thuế để kịp thời cấp cho dân đói.

Về văn hóa và một số ngành khoa học như thiên văn, lịch pháp, y học vào thời gian này cũng có những thành tựu đáng kể. Dưới triều Trần Hiến Tông có Hậu nghi đài lang, Thái sử cục lệnh là Đặng Lộ người huyện Sơn Minh (Ứng Hòa, Hà Nội) đã chế ra một dụng cụ xét nghiệm khí tượng gọi là Lung Linh nghi, khi khảo nghiệm không việc gì là không đúng.

Năm Khai Hựu thứ 13 (1341), ngày 11 tháng 6, ông qua đời ở chính tẩm, tạm quàng ở Kiến Xương cung, hưởng thọ 22 tuổi. Miếu hiệu là Hiến Tông (憲宗), thụy hiệu là Thể Nguyên Ngự Cực Duệ Thánh Chí Hiếu Hoàng Đế (體元御極睿聖至孝皇帝). Khoảng 4 năm sau (1344), Hiến Tông mới được an táng vào An lăng (安陵)

7

Trần Dụ Tông

Vote
0%
Trần Dụ Tông

Câu chuyện về vua Trần Dụ Tông

Trần Dụ Tông (chữ Hán: 陳裕宗 22 tháng 11 năm 1336 – 25 tháng 5 năm 1369) là vị hoàng đế thứ 7 của triều đại nhà Trần nước Đại Việt, ở ngôi 28 năm từ năm 1341 đến năm 1369.

Dụ Tông là con thứ 10 của vua Trần Minh Tông và là em của vua Trần Hiến Tông. Năm 1341, vua Trần Hiến Tông mất sớm, Thượng hoàng Minh Tông đón Dụ Tông lập làm vua. Nhà vua mới 5 tuổi nên Thượng hoàng quyết định mọi việc, chính sự khá tốt đẹp. Nhưng sau khi Thượng hoàng qua đời, Dụ Tông đích thân chấp chính. Lúc này, Nhà Nguyên đang đại loạn, Minh Thái Tổ dấy binh đánh với Trần Hữu Lượng, có đem sứ giả sang nhờ triều đình nhà Trần cứu viện nhưng thấy chiến sự hỗn loạn nên không tham gia, tuy nhiên ông vẫn cho quân lính phòng ngự ở biên giới để tránh bạo loạn. Ở phía Nam, Chiêm Thành trở nên không thông hiếu, nhiều lần qua cướp các vùng Thanh Hóa, Hóa Châu, làm hại dân lành, Dụ Tông ra sức sai quân lính bảo vệ biên cương, nhưng vẫn ở thế giằng co.

Tuy hăng hái về chính sự, nhưng Dụ Tông lại thích hưởng lạc nhiều, xây dựng nhiều cung điện, thích đánh bạc, nuôi chim thú lạ khắp nơi, trong cung lại hiện ra khung cảnh hào hoa tráng lệ khác thường. Cơ nghiệp nhà Trần từ đây suy yếu. Vì mải chơi bời nên sức khỏe kém, mất mà không có con nối, đến nỗi truyền ngôi cho Trần Nhật Lễ, con nuôi cố Cung Túc vương Trần Nguyên Dục (anh Dụ Tông). Nhật Lễ định đổi sang họ Dương thì bị con thứ ba của Minh Tông là Trần Phủ lật đổ, giết chết.

8

Trần Nghệ Tông

Vote
0%
Trần Nghệ Tông

Trần Nghệ Tông (chữ Hán: 陳藝宗) (tháng 12 năm 1321 – 15 tháng 12 năm 1394) tên húy là Trần Phủ (陳暊) hoặc Trần Thúc Minh (陳叔明), còn gọi là Nghệ Hoàng (藝皇), là vị hoàng đế thứ 9 của nhà Trần nước Đại Việt. Ông giữ ngôi 2 năm (1370–1372), ở ngôi Thái thượng hoàng hơn 20 năm (1372–1394).

Trần Phủ là con thứ ba của Trần Minh Tông và là anh của Trần Dụ Tông. Năm 1369, Dụ Tông chết, truyền ngôi cho người cháu nuôi là Trần Nhật Lễ. Vua Nhật Lễ ăn chơi sa đọa, lại định đổi sang họ Dương, gây oán hận cho các tôn thất nhà Trần. Năm 1370, Trần Phủ, bấy giờ là Thái sư Cung Định Đại vương, lãnh đạo cuộc đảo chính giết Nhật Lễ. Trần Phủ lên ngôi tức vua Trần Nghệ Tông. Nghệ Tông sửa sang chính sự, muốn khôi phục thời thịnh trị của Trần Minh Tông. Năm 1371, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga dẫn quân đánh Đại Việt, tới tận Thăng Long, đốt phá cung thất. Nhà vua phải trốn ra huyện Đông Ngàn, chờ khi quân Chiêm rút mới về.

Trong sử sách, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông bị phê phán vì không sửa sang quân đội và vì tiếp tay cho người em họ bên ngoại là Thái sư Hồ Quý Ly chuyên quyền, giết hại tôn thất. Năm 1388, người kế vị Duệ Tông là Trần Hiện có ý mưu trừ Quý Ly. Thượng hoàng giết Trần Hiện, rồi lập con nhỏ của mình là Trần Thuận Tông kế vị. Thượng hoàng tiếp tục xử lý triều chính tới khi mất. Thời gian này, Quý Ly tìm cách gây dựng thanh thế, giật dây khiến Trần Nghệ Tông xuống tay trừ đi các đối thủ chính trị của mình, đặc biệt là các tôn thất hoàng tộc họ Trần.

9

Trần Duệ Tông

Vote
0%
Trần Duệ Tông

Trần Duệ Tông (chữ Hán: 陳睿宗 30 tháng 6, 1337 - 4 tháng 3, 1377) là vị hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1372 đến khi bị giết vào năm 1377.

Trần Duệ Tông rất chú trọng đề cao quy định riêng của triều đại. Ông hạ lệnh cho quân dân không được mặc áo kiểu người phương Bắc và không được bắt chước tiếng nói của các nước Chiêm – Lào. Ông còn quy định về mẫu mã các loại thuyền, xe ngựa, kiệu, tán, nghi, trượng và y phục[5], tất cả đều noi theo mũ áo của đời Trần Minh Tông. Tháng 4 năm 1374, đoàn sứ nhà Trần báo tin việc truyền ngôi cho nhà Minh hay.[6]

uệ Tông Hoàng đế có lòng dũng cảm, mong muốn chấn hưng Đại Việt đã bị tàn phá và suy yếu dưới thời Trần Dụ Tông, Dương Nhật Lễ, muốn trấn áp kẻ thù từ thời khai quốc của Đại Việt là Chiêm Thành. Nhưng vì ông quá nóng vội đánh bại kẻ địch mà ông xem là yếu ớt, nhược tiểu nên bị bại trận. Do ông là tấm bình phong lớn nhất cho dòng tộc nhà Trần khi đó, việc ông bị tử trận khiến Thượng hoàng Trần Nghệ Tông khiếp đảm, sau này hễ Chế Bồng Nga bắc tiến là cùng Hồ Quý Ly bỏ kinh thành chạy dài. Trận thua lớn ở Đồ Bàn khiến thế nước Đại Việt suy kém, những người kế vị đều vô tài, nhà Trần ngày càng suy.

 

10

Trần Phế Đế

Vote
100%
Trần Phế Đế

Trần Phế Đế (chữ Hán: 陳廢帝 6 tháng 3, 1361 - 6 tháng 12, 1388) còn gọi là Xương Phù Đế (昌符帝) hay Trần Giản Hoàng (陳簡皇), là vị hoàng đế thứ 10 của Vương triều Trần nước Đại Việt. Ông ở ngôi từ năm 1377 đến khi bị phế vào năm 1388, tổng cộng hơn 10 năm trị vì.

Trần Phế Đế là con thứ của vua Trần Duệ Tông và là cháu gọi Thái thượng hoàng Trần Nghệ Tông bằng bác. Năm 1377, Duệ Tông thân đi đánh Chiêm Thành, bị thua chết. Nghệ Tông lập Phế Đế lên làm vua. Trong suốt thời gian Phế Đế ở ngôi, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông nắm thực quyền cai trị quốc gia. Hai vua phải chống đối với nhiều cuộc xâm lược của Chiêm Thành, bấy giờ rất hùng mạnh dưới tay vua Chế Bồng Nga, và những yêu sách của nhà Minh mới thành lập bên Trung Quốc. Trong triều đình, Trần Nghệ Tông tin yêu người em họ bên ngoại là Lê Quý Ly nên giao cho quyền lực ngày càng lớn. Chính vì lo ngại thế lực của Lê Quý Ly, Phế Đế đã gầy dựng phe cánh chống đối và cuối cùng thất bại, bị Nghệ Tông thắt cổ chết.