Thông báo mới! TOP SHARE

Top 10 bài phân tích Vợ Nhặt của Kim Lân hay nhất chi tiết nhất

  • 1,974 views
  • 2 likes
  • Add Favorite
  • Be a liked
  • Báo lỗi
  • Tài trợ

by Diệu Linh 15-03-2021

Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân-nhà văn của nông dân được cho là một trong những tác phẩm xuất sắc của nề văn học Việt Nam. Bao hàm tác phẩm là bức tranh về nạn đói 1945 cùng theo đó là bức tranh về người lao động nghèo nổi bật trong đó là ba nhân vật là Tràng, Thị và bà cụ Tứ. Và sau đây sẽ là những bài phân tích tác phẩm giúp người đọc nhìn nhận rõ nét nhất về giá trị hiện thực cũng như là nhân đạo của tác phẩm, mọi người cùng tìm hiểu nhé !

6 Bài phân tích số 6
Vote
0%

2

by Diệu Linh 15-03-2021

Văn học chính là lăng kính chủ quan, phản ánh hiện thực một cách khách quan, chính xác nhất. Bởi vậy mà nhà văn Kim Lân đã dùng ngòi bút của mình để phác họa thành công bức tranh cuộc sống, sinh hoạt của người nông dân trong nạn đói năm Ất Dậu qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Nhà văn đã đem vào thiên truyện của mình một điểm sáng mới, đó là niềm tin, niềm hi vọng vào một tương lai tốt đẹp dù hiện tại có khó khăn đến nhường nào.

Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, ngòi bút của ông thật sắc sảo khi tập trung miêu tả những phong tục tập quán và đời sống làng quê với những “thú vui đồng quê hay phong lưu đồng ruộng”. “Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc được in trong tập “Con chó xấu xí” của nhà văn, viết về người nông dân trong tình cảnh thê thảm của nạn đói với bản chất tốt đẹp, lương thiện. Bằng khả năng sáng tạo của mình, nhà văn đã thành công ở nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và hàng loạt các biện pháp nghệ thuật đặc sắc khác khi xây dựng nhân vật của mình.

Ngay từ nhan đề của tác phẩm, nhà văn đã để lại chúng ta những điều tò mò mới mẻ về cuộc sống của những con người bần hàn trong cái đói tưởng chừng như thảm họa. Với Kim Lân, “nhặt” là một hành động thu lượm những thứ rơi vãi ở dưới đất, những vật có giá trị không cao. Thế nhưng ở đây, hành động ấy lại được gắn liền với hình ảnh của người “vợ”. Đó chính là sự trân trọng của tác giả đối với nhân vật của mình bởi người vợ luôn có một vị trí quan trọng trong gia đình. Thế nhưng trong hoàn cảnh này, thân phận của con người lại rẻ rúng hơn bao giờ hết, chỉ cần vài câu nói bông đùa của anh cu Tràng mà người phụ nữ đó đã theo không Tràng về nhà và trở thành người “vợ nhặt”. Tất cả những điều đó đã làm nên một nhan đề độc đáo, gây ấn tượng mạnh, thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói năm 1945, bộc lộ sự cưu mang, khát vọng sống, và niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng.

Chủ đề của tác phẩm không chỉ được thể hiện ở nhan đề mà nó còn được thể hiện thông qua tình huống truyện. Có nhà văn đã từng nói: “Tình huống truyện chính là thứ nước rửa ảnh để thông qua đó nhân vật nổi hình nổi mảng”. Tình huống truyện là nghệ thuật sắp xếp, tổ chức các chi tiết, sự kiện trong tác phẩm, qua đó bộc lộ tính cách, số phận nhân vật góp phần thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã đem đến cho chúng ta một tình huống truyện vừa éo le, lại vừa bi hài. “Vợ nhặt” được bắt đầu ở thời điểm cái đói mà tác giả gọi là hiểm họa tràn đến. Trong không gian thê thảm của nạn đói, tình huống Tràng lấy vợ đã tạo nên khung cảnh vừa bi vừa hài, chỉ mấy câu nói bông đùa mà nào ngờ lấy được vợ thật. Tràng xấu trai lại ngờ nghệch, nay lại có người theo về cho ta thấy nghịch cảnh không biết nên cười hay nên khóc. Tình huống truyện éo le trên đã cho ta thấy tính nhân bản và tình cảm nhân đạo của tác phẩm. Hoàn cảnh đã làm thay đổi con người, tố cáo chế độ thực dân phong kiến đã đẩy con người vào bước đường cùng.

Mở đầu tác phẩm, nhà văn đã phác họa nhân vật anh cu Tràng cũng là nhân vật chính của phẩm được xuất hiện giữa một không gian đầy u ám, tử khí vì “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người chết”. Tràng là một người nông dân có cuộc sống nghèo khổ nhưng lại có tính thương người, luôn khao khát một mái ấm gia đình và luôn có hy vọng vào một tương lai tươi sáng.

Anh cu Tràng là một người nông dân có cuộc sống nghèo khổ được thể hiện ngay ở cái tên gọi mà tác giả đặt cho. Tràng không tội nghiệp đến mức không có một cái tên thế nhưng cái tên Tràng lại gợi lên bao điều lam lũ, khó nhọc bởi đó cũng là tên của một dụng cụ lao động. Tràng không đến mức quá tiều tụy thế nhưng lại được hóa công gọt đẽo rất sơ sài: “Hai con mắt gà gà đắm vào bóng chiều”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, “bộ mặt thô kệch”, “cái đầu trọc nhẵn”, “cái lưng to rộng”. Qua cách miêu tả của Kim Lân, ta thấy Tràng kết tinh được cái phần tự nhiên, hoang dại của con người. Tràng hay “ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch”, “vừa đi vừa nói nhảm”, trở thành “đối tượng bông đùa của những đứa trẻ xóm ngụ cư”, tính tình thì “ngốc nghếch”. Hoàn cảnh sống của Tràng cũng chẳng dư dả gì. Nơi ở là “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, “những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất”. Những chi tiết ấy đã cho thấy cuộc sống thiếu thốn, nghèo khổ của hai mẹ con Tràng.

Ông cha ta đã dạy ta đừng nên “nhìn mặt mà bắt hình dong” thật đúng như vậy. Tuy Tràng có vẻ bề ngoài thô kệch, tính tình ngốc nghếch thế nhưng ẩn sâu trong tâm hồn Tràng vẫn chứa đựng biết bao hạt ngọc của tâm hồn. Tràng là người nhân hậu và giàu tình thương người. Thấy người đàn bà đói, Tràng đã cho ăn “một chặp bốn bát bánh đúc” bởi anh không nhẫn tâm từ chối khi người ta quá đói. Đó là một việc làm thật đáng quý, thể hiện truyền thống “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách” của dân tộc ta. Khi người vợ nhặt quyết theo Tràng, đây không phải là chủ tâm của Tràng tìm vợ mà thực tế, Tràng lấy vợ vì lòng thương người, vì một con người còn đói khát hơn cả mình. Bên cạnh tấm lòng nhân hậu, Tràng còn là người luôn khát khao hạnh phúc gia đình, hạnh phúc lứa đôi. Tràng có ý thức chăm sóc người phụ nữ của mình: “Hôm ấy hắn đưa thị xe bò về rồi mua hai hào dầu để thắp sáng ngôi nhà lạnh lẽo”. Những việc làm đó đã chứng tỏ Tràng rất trân trọng vợ mình. Tràng thật sự sung sướng và hạnh phúc khi có người vợ nhặt.

Đi bên cạnh người vợ “rách như tổ đỉa”, Tràng không thấy xấu hổ mà còn rất “phởn phở”. Vẻ mặt ấy chính là sự xúc động của nhân vật trước tình huống éo le nhặt được vợ. Không gian trên đường rước dâu ảm đạm thê lương nhưng niềm vui của Tràng đã lấn át đi tất cả. Anh muốn làm cho vợ mình được vui, “có lúc muốn thân mật nhưng không dám xuồng xã, muốn bày tỏ tình cảm với vợ nhưng lại lúng ta lúng túng, tay nọ xoa vào tay kia”. Tràng nâng niu, trân trọng hạnh phúc mình có được: “Trong một lúc, Tràng dường như quên hết cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa”. “Tràng cảm nhận thấy cái mới mẻ, mơn man khắp da thịt Tràng”. Đó chính là hiện diện của tình yêu, niềm hạnh phúc mà Tràng đang khao khát.

7 Bài phân tích số 7
Vote
0%

2

by Diệu Linh 15-03-2021

Nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã khiến cho nhân dân ta rơi vào tình cảnh vô cùng thê thảm. Tình cảnh ấy được các nhà văn tái hiện chân thực trong những sáng tác của mình. Nhà văn Kim Lân cũng là một trong số đó. Ông đã khắc họa số phận của những người nông dân qua tác phẩm “Vợ nhặt” bằng một lòng thương cảm sâu sắc.

Vợ nhặt là một trong số truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được ông viết sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và sau đó bị thất lạc bản thảo. Đến năm 1954, Kim Lân đã viết lại tác phẩm này dựa vào một phần truyện cũ và được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Truyện tố cáo tội ác diệt chủng của bọn thực dân, phát xít đồng thời cũng khẳng định niềm khát khao hạnh phúc cùng niềm tin mãnh liệt của nhân dân lao động vào sự sống và tương lai phía trước.

Tác phẩm có một nhan đề thật lạ nhưng cũng hết sức hấp dẫn, gây sự chú ý cho bạn đọc. Theo Kim Lân, “nhặt” có nghĩa là nhặt nhạnh, lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Vợ nhặt là vợ theo không, không cưới xin, lễ nghi đàng hoàng, tử tế. Thông thường, người ta chỉ nhặt cọng rơm, cọng rác chứ không ai nhặt được vợ. Trong hoàn cảnh này, thân phận con người rẻ rúng hơn bao giờ hết. Kim Lân đã xây dựng một tình huống truyện bất ngờ nhưng cũng đầy nghịch cảnh, bi hài. Giữa nạn đói, giữa lúc thân mình còn chưa biết có lo nổi hay không thì anh cu Tràng lại nhặt được vợ. Chỉ bằng vài câu nói đùa, bốn bát bánh đúc mà một anh chàng xấu trai, nghèo khổ lấy được vợ. Và cũng có thể do hoàn cảnh đói khát đến cùng quẫn mà thị chịu theo không Tràng. Đây quả là một sự éo le khi đèo bòng thêm một người giữa nạn đói. Cô dâu đã xuất hiện cùng Tràng vào buổi chiều “xác xơ”, “heo hút” trước ánh mắt ngạc nhiên của biết bao nhiêu người dân xóm ngụ cư. Thậm chí có người còn lo lắng thay cho anh: “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không”?

Nổi bật giữa ranh giới của sự sống và cái chết là hình ảnh anh cu Tràng, bà cụ Tứ và người vợ theo không Tràng. Họ đã cưu mang, đùm bọc nhau cùng vượt qua sự khắc nghiệt của hoàn cảnh. Nhân vật anh cu Tràng xuất hiện giữa một không gian u ám, đầy tử khí vì “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Anh được miêu tả là một người ngốc nghếch nên thường bị đám trẻ con xóm ngụ cư trêu ghẹo. Gia cảnh của Tràng có nhiều sự bất hạnh bởi anh là dân xóm ngụ cư, sống cùng với người mẹ già. Vì cái nghèo đeo đuổi nên dù đã nhiều tuổi nhưng anh chưa lấy được vợ. Oái oăm thay, anh cu Tràng lại có vợ ngay trong nạn đói. Đây là một niềm vui lớn đối với anh khiến mặt anh “có một vẻ gì phớn phở khác thường” và “tủm tỉm cười nụ một mình”, “hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Lấy vợ là việc hệ trọng của đời người, cần có sự chuẩn bị từ trước và hai người đến với nhau bằng tình yêu của hai trái tim đồng điệu. Nhưng anh cu Tràng và người vợ nhặt không có cưới xin đường hoàng, lễ nghi tử tế. Họ gặp nhau rất tình cờ và đến với nhau cũng không phải vì tình yêu đôi lứa. Họ gặp nhau và gắn bó với nhau bởi phận nghèo.

Sự xuất hiện của người vợ nhặt trong cuộc đời anh cu Tràng đã khiến tính nết của anh thay đổi. Từ một con người ngốc nghếch, anh trở thành một người có trách nhiệm, biết chăm lo cho gia đình. Tràng rất ga lăng trong việc sửa soạn cho người vợ nhặt trước khi đưa nàng về làm dâu. Anh đưa thị vào chợ tỉnh rồi “bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về”. Không những thế, anh còn mua hai hào dầu thắp. Tràng đã chuẩn bị cả về vật chất và tinh thần cho cuộc sống mới khá đầy đủ. Khi những ánh mắt của người dân xóm ngụ cư đổ dồn về phía anh và người vợ nhặt thì anh “lấy vậy làm thích ý lắm”. Anh đã không kìm nén được niềm hạnh phúc khi có vợ nên đã bộc lộ nó qua “cái mặt cứ vênh lên tự đắc”.

Mấy ai có đủ dũng cảm để đón nhận hạnh phúc của mình ngay giữa nạn đói giống anh cu Tràng? Anh đã giới thiệu với bà cụ Tứ một cách đầy đủ về cái duyên, cái số của mình với người vợ nhặt: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải kiếp với nhau…Chẳng qua nó cũng là cái số cả”. Sự kiện thị theo không Tràng về khiến anh “ngỡ ngàng như không phải”. Nhưng chính sự kiện hệ trọng ấy lại khiến lòng anh tràn ngập một nguồn vui sướng, phấn chấn. Anh cu Tràng thấy mình “nên người” và “có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Hạnh phúc đến với anh hết sức éo le, bất ngờ nhưng cũng vô cùng thiêng liêng. Tràng đã vượt lên trên hiện thực đói khát để đón lấy thứ hạnh phúc bình dị, trần thế. Anh đã trở nên chín chắn, trưởng thành hơn từ trong suy nghĩ đến hành động để có thể chăm sóc tốt cho gia đình của mình.

Việc Tràng có vợ không chỉ gây bất ngờ cho những người dân xóm ngụ cư mà còn gây bất ngờ cho cả bà cụ Tứ - mẹ của anh. Bà rất ngạc nhiên khi có người đàn bà “đứng ngay đầu giường thằng con mình” và “chào mình bằng u”. Đó cũng là tâm lý chung của các bà mẹ khi rơi vào hoàn cảnh như vậy. Sau khi nghe Tràng giới thiệu người vợ nhặt thì “lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán xót thương cho số kiếp đứa con mình” rồi “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Bà lo lắng không biết “chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Bà hiểu và thương cảm cho thân phận của nàng dâu mới, cũng nhờ vậy mà con bà mới có được vợ. Chỉ cần hai vợ chồng hòa thuận, bảo ban nhau làm ăn bà cũng mừng lòng. Bà xót thương cho tình cảnh của người vợ nhặt. Đó là lòng cưu mang, là sự đùm bọc lẫn nhau của những người cùng cảnh ngộ. Bà cụ Tứ thực sự là một người mẹ có tấm lòng bao dung và vị tha cao cả.

Bà có niềm tin vào tương lai và có nghị lực sống mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện trong những suy nghĩ, lời nói, hành động của bà. Bà đã an ủi các con rằng: “Rồi ra may mà ông giời cho khá”, “ai giàu ba họ, ai khó ba đời” để động viên các con cố gắng làm ăn, lo cho tương lai. Sáng hôm sau, bà cảm thấy “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Trong bữa cơm sáng, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Bà nói với anh cu Tràng khi nào có tiền thì mua lấy đôi gà và khen món chè khoán ngon. Thực chất đây là món cháo cám đắng chát, bà khen ngon như để an ủi chính bản thân mình cũng như để an ủi các con và giấu đi giọt nước mắt tủi hờn. Chính bà là người truyền niềm tin, sức sống mới cho đôi vợ chồng trẻ. Sự lạc quan, niềm tin vào tương lai tươi sáng của bà cụ Tứ đã trở thành ánh sáng, trở thành điểm tựa tâm hồn cho những đứa con.

Bên cạnh anh cu Tràng và bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt. Đây là nhân vật điển hình cho số phận của người phụ nữ trong nạn đói năm 1945. Ngay cả một cái tên riêng người phụ nữ ấy cũng không có được. Nhân vật này được tác giả gọi là “thị”, một đại từ nhân xưng chỉ chung những người phụ nữ khác cũng như ngầm chỉ số phận chung của họ trong nạn đói. Kim Lân đã khắc họa ngoại hình của thị bằng tất cả nỗi xót xa của người trong cuộc. Thị “rách quá”, “cái ngực gầy lép nhô lên”, “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” khiến anh cu Tràng không nhận ra. Thị không có việc làm, ngồi ở cửa nhà kho nhặt hạt rơi hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Vì câu hò: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!” mà thị đã “lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng”. Đây cũng là duyên cớ để hai người gắn kết cuộc đời mình với nhau.

Ở con người thị có chút gì “chao chát chỏng lỏn” khi tìm cách ăn vạ anh cu Tràng. Thị quên cả ý tứ cần có của người phụ nữ để “sà xuống”, “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” rồi “cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Tuy “sưng sỉa” là vậy nhưng ẩn sâu trong người vợ nhặt là vẻ đẹp mang tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Thị chỉ theo anh cu Tràng về nhà khi biết anh chưa có vợ. Trên đường đi về, thị rón rén, e thẹn, thị ngượng nghịu, “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Khi về đến nhà Tràng, thị cũng chỉ “ngồi mớm xuống mép giường” và lễ phép cất tiếng chào bà cụ Tứ. Thị có những sự bỡ ngỡ của nàng dâu mới khi về nhà chồng. Đứng trước “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị có sự thất vọng nhưng cũng chỉ “nén một tiếng thở dài”.

Người vợ nhặt đã có sự thay đổi lớn vào sáng hôm sau. Thị “hiền hậu đúng mực”, thị cùng bà cụ Tứ dọn dẹp lại nhà cửa và sửa soạn bữa cơm đầu tiên đánh dấu cuộc đời làm dâu của mình. Dù món chè khoán có đắng chát thì thị “vẫn điềm nhiên đưa vào miệng” mà không một lời than vãn. Thị chấp nhận cuộc sống nghèo khổ ấy. Niềm tin vào cuộc sống đã khiến thị theo không anh cu Tràng về làm vợ. Nhờ có anh cu Tràng và bà cụ Tứ mà cuộc đời thị được cứu giúp. Qua tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm bộc lộ niềm thương cảm, xót xa đối với cuộc sống con người, đồng thời cũng lên án tội ác diệt chủng của thực dân Pháp khiến hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

8 Bài phân tích số 8
Vote
0%

2

by Diệu Linh 15-03-2021

Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, ”người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm. Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng nhân vật.

Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mồng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.

Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh người nông dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực. Tác giả đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ không phải lấy được. Người đọc nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng và đầy éo léo của con người trong xã hội bây giờ.

Hình ảnh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tầng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh. Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu hiu, ảm đạm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt.

Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Không còn gì thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ dường như bị cái đói, cái nghèo đè nén đếm chìm nghỉm. Bằng ngòi bút tả thực sinh động, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc nhiều chua xót, đắng cay cho những phận nghèo long đong.

Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người đàn bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có lẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt không còn chua ngoa, đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ. Làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai con người đến với nhau, không phải tình yêu nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ cảm thông và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.

Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự chuyển đổi trong tâm tình thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…” Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiện lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.

Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con.

9 Bài phân tích số 9
Vote
0%

2

by Diệu Linh 15-03-2021

Cùng với Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan,... Kim Lân cũng là một trong số những cái tên nổi tiếng của nền văn học hiện thực Việt Nam khi viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng Tám, với ngòi bút sâu sắc và cái nhìn thấu hiểu. Tuy nhiên khác với ngòi bút phê phán và tiếng cười sâu cay của Vũ Trọng Phụng hay Nguyễn Công Hoan, khác với sự lạnh lùng, đau đớn từng câu văn của Nam Cao. Các tác phẩm của Kim Lân không chủ tập trung vào việc phản ánh hiện thực xã hội đương thời hay những nỗi đau thân phận, mà tác giả dựa vào đó để làm nổi bật những giá trị nhân văn, vẻ đẹp tâm hồn nhân vật, bộc lộ sức mạnh, ý nghĩa của những tình cảm cao quý như tình thân, tình yêu, thứ làm thay đổi con người và cuộc sống của họ dẫu trong những hoàn cảnh khốn cùng nhất. Đời sáng tác của Kim Lân ngắn, và ông không để lại nhiều tác phẩm, trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến Vợ nhặt, một tác phẩm tiêu biểu, đặc trưng cho khuynh hướng sáng tác của tác giả.

Truyện ngắn Vợ nhặt diễn ra trong bối cảnh khá đặc biệt - nạn đói cuối năm 1944 - đầu năm 1945, chỉ trong vòng vài tháng khiến hơn hai triệu đồng ta từ Bắc Kỳ đến Quảng Trị chịu chết đói, cái ám ảnh kinh hoàng ấy được Nam Cao viết trong Đôi mắt rằng “có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình”. Trong tác phẩm Kim Lân không dùng những từ ngữ quá nặng nề, gay gắt, không tiếng chửi bới, hay những sự kiện nào kịch tính để mô tả lại viễn cảnh khủng khiếp của nạn đói. Tuy nhiên ông vẫn lột tả được cái tiêu điều, thê thảm của một xóm ngụ cư trong giai đoạn đau thương nhất của lịch sử dân tộc, bằng những câu văn nhẹ nhàng, nhưng rất thấm thía. Đó là cái cảnh những người dân tản cư, dìu dắt, bồng bế nhau la liệt khắp nơi, bộ dạng thê thảm, tàn tạ, người ngợm “xanh xám như bóng ma”, “ngổn ngang khắp lều chợ”, không gian bao trùm bởi sự chết chóc với cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Ớn lạnh, ám ảnh với cảnh “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma”, cùng với “tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi khủng khiếp” như tiếng gọi của tử thần, còn con người thì đang bước dần từng bước chậm rãi đến nghĩa địa, tuyệt vọng và bất lực, những con người ấy dường như đã nhìn thấy trước cái chết của mình, thậm chí “khó ai có thể tin mình sống nổi”. Đó là một khung cảnh đầy bi thương và ám ảnh, được Kim Lân tái hiện lại trong các dòng văn xen kẽ, ông không tập trung làm nổi bật nó, mà chỉ chấm phá trong một vài câu văn khiến người ta có cảm giác cái chết hiện diện khắp nơi và nó dần trở thành lẽ thường trong giai đoạn ấy. Không ai lạ gì cảnh người chết đói, thỉnh thoảng lại có một người ngã xuống, lúc đầu người ta còn có sức để đi chôn, sau nhiều quá chỉ cuốn chiếu lại để đó, cuối cùng là không có cả chiếu để cuốn, thê thảm và ghê sợ vô cùng. Có thể thấy rằng nhà văn Kim Lân không hề né tránh hiện thực, nhưng quan trọng hơn giá trị của tác phẩm không nằm ở chỗ phơi bày giá trị hiện thực mà là ở việc từ trong bóng tối của hiện thực tác giả đã tìm ra ánh sáng của sự sống, ánh sáng của hy vọng, ánh sáng của tình người, của niềm tim toát lên từ những con người trong nạn đói ấy. Những con người đang bám víu lấy cái sự sống mỏng manh, đang nỗ lực sống sót, dù rằng họ cũng như những người dân ngụ cư khác “khó ai có thể tin mình sống nổi” đó là Tràng, thị, và bà cụ Tứ.

Nhân vật Tràng là một nhân vật điển hình đại diện cho những con người trong nạn đói năm 44-45, lai lịch của anh chàng có thể gói gọn trong ba chữ “dân ngụ cư”, và từ ba chữ này đã nói lên rất nhiều điều. Tràng là người mang số phận tha hương cầu thực, không thể sống nổi ở quê hương mình nên đành phải tìm đến nơi khác kiếm kế sinh nhai, điều đó đem đến cho anh nhiều nỗi khổ, sự kỳ thị, phân biệt đối xử của dân bản địa, dẫn đến việc anh không được chia ruộng đất (vốn là tài sản lớn nhất của người nông dân lúc bấy giờ), vô cùng nghèo khổ. Không chỉ vậy, dân ngụ cư cũng không được sống trong không gian làng xóm, mà phải sống riêng biệt ở rìa làng hoặc ngoài đê, đồng thời cũng không được tham gia bất cứ một sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã. Có thể nói là vô cùng đáng thương, thảm hại. Gia đình Tràng nghèo khó, mẹ góa con côi dựa dẫm vào nhau, làm nghề kéo xe bò thuê, công việc bấp bênh không ổn định. Thêm nữa Tràng lại có một ngoại hình xấu xí, với những đường nét thô kệch được tác giả ví như sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa “hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, thân hình to lớn vập vạp” lại thêm cái tật “vừa đi vừa lảm nhảm những điều mà mình nghĩ”, khi cười thì thường ngửa mặt lên trời cười hầy hầy.

Chính vì ngoại hình xấu lạ ấy mà Tràng chỉ có sức hấp dẫn với những đứa trẻ trong xóm, chứ không lọt được vào mắt xanh của bất cứ cô gái trẻ nào, điều đó dẫn tới việc Tràng chẳng thể lấy nổi một cô vợ. Sau những nét về lai lịch, ngoại hình để bộc lộ tính cách nhân vật Tràng Kim Lân đã đặt anh vào một sự kiện mang tính bước ngoặt, cũng chính là tình huống truyện - Tràng “nhặt” được vợ. Đó là khi Tràng đang đẩy xe bò, để cho đỡ mệt anh đã hò mấy câu cho vui miệng, chứ cũng không chủ đích chòng ghẹo ai “Muốn ăn cơm trắng mấy giò, lại đây mà đẩy xe bò cùng anh”. Ai ngờ sau câu nói ấy, thì thị lại ra đẩy xe cùng Tràng thật, rồi còn cười tít mắt với anh, khiến anh vô cùng khoái chí, nhưng tất cả cũng chỉ dừng lại ở đó. Trong lần gặp thứ hai, Tràng và thị vẫn chưa có cái gì gọi là tình yêu mà nó chỉ là sự chia sẻ, cảm thông giữa những người đồng cảnh ngộ, khi thị sưng sỉa, cong cớn vì miếng ăn thì Tràng sẵn sàng giúp đỡ, đãi thị hẳn 4 bát bánh đúc và thị cũng chẳng ngại ngần gì mà ăn một lượt không chuyện trò. Rồi cũng từ dăm ba câu chuyện trò và một câu bông đùa nữa của Tràng “Này có theo tớ về thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” mà thị theo Tràng, trở thành vợ của Tràng thật, không cần mối lái, lễ hỏi, chỉ với 4 bát bánh đúc và một câu đùa, hai con người ấy đã trở thành vợ chồng với nhau. Đó là một tình huống rất bất ngờ, bất ngờ với cả độc giả lẫn nhân vật Tràng, anh đã có vợ bằng một phương thức rất kỳ quái, còn thị thì trở thành một người vợ “nhặt”. Từ sự kiện Tràng “nhặt” vợ, nhân vật này có nhiều diễn biến tâm trạng khác nhau. Trong buổi chiều hôm trước, trước khi dẫn vợ về nhà, Tràng vốn dĩ xưa nay là một người thô kệch, cục mịch thế mà lại trở nên tinh tế, biết chăm sóc người khác lạ kỳ.

Thương vợ tàn tạ, rách nát quá, về nhà chồng mà chẳng có gì ngoài bộ đồ như tổ đỉa và cái nón rách, Tràng đã dẫn thị vào chợ tỉnh mua một cái thúng con đựng vài thứ đồ lặt vặt để cho thị đỡ tủi thân, đồng thời dẫn thị di ăn một bữa no nê thay cho tiệc mừng cưới. Không chỉ vậy Tràng còn mua thêm hai hào dầu (việc làm vốn được gọi là hoang phí trong thời buổi nạn đói hoành hành), để về thắp sáng nhà cửa, đón thị về làm dâu mới. Đó là một cách làm rất cảm động và đủ tinh tế của một người chồng biết lo nghĩ, nhân hậu. Trên đường về Tràng tỏ ra rất sung sướng, phấn khởi cái niềm vui nó trào ra hiện rõ lên khuôn mặt anh “Mặt hắn có một cái vẻ gì đó phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Kim Lân còn dùng một câu văn rất cảm động để diễn tả tâm trạng của anh lúc này “trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Có thể thấy rằng trong thâm tâm Tràng lúc này Tràng sự vui mừng, niềm hạnh phúc đã xóa mờ hết tất cả những gì khó khăn, khốn khổ đang diễn ra và đang chờ đợi phía trước, kể cả cái chết. Khi về đến nhà, đứng trong một không gian hẹp hơn, bỗng Tràng cảm thấy ngượng, rồi thấy sờ sợ, bởi lẽ sự quen biết giữa thị và Tràng chẳng đủ để hai người có thể đối đãi hẳn với nhau như những người thân, chứ đừng nói là một cặp vợ chồng, họ chưa có tình yêu, sợi dây duy nhất nối giữa họ chính là sự đồng cảm, thương xót của Tràng, và thị thì cần miếng ăn. Cuối cùng là khi Tràng giới thiệu với mẹ về nàng dâu mới, chờ đợi sự đồng ý với mẹ, thì anh lại chuyển sang trạng thái nôn nóng, sốt ruột, đi đi lại lại, ra sân ngóng trông mẹ về, rồi đón mẹ một cách rối rít, mừng rỡ. Lúc thưa chuyện, Tràng cũng bộc lộ rõ sự chững chạc, nghiêm túc, thể hiện sự trân trọng trìu mến với u già, và cũng là sự trân trọng hạnh phúc bất ngờ này.

Sau đêm tân hôn, sáng hôm sau thức dậy trong lòng Tràng có nhiều điều thay đổi, hạnh phúc đã khơi dậy trong Tràng ý thức, trách nhiệm bổn phận của người đàn ông trong gia đình. Anh dậy muộn, cảm thấy trong cơ thể hiện diện sự êm ái, lửng lơ như từ một giấc mơ đi ra, cảm thấy ngỡ ngàng trước hạnh phúc mà mình đang nắm giữ, nhận thấy cảnh tượng xung quanh thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ (đống quần áo rách như tổ đỉa thường vắt ở góc nhà, thì giờ được đem ra sân hong khô, hai ang nước dưới gốc ổi bình thường khô cong thì bây giờ đầy ắp nước, đống rác mùn được dọn sạch,...), thứ hai nữa là không khí trong nhà bỗng trở nên ấm áp, vui vẻ lạ kỳ. Việc đó đã thức dậy trong Tràng nhiều cảm xúc “cảnh tượng thật đơn giản bình thường, nhưng đối với hắn thật thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, rồi “một nguồn vui sướng đột ngột tràn ngập trong lòng”. Từ những cảm xúc ấy Tràng đã nhận thức được trách nhiệm của bản thân với cuộc sống, với gia đình “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này” và biến nó thành hành động “hắn chạy xăm xăm ra giữa sân. Hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa căn nhà”, muốn cùng chung tay để nghênh đón một tương lai tốt đẹp hơn. Từ chuyện có vợ, sự chuyển biến trong nhận thức đã dẫn tới kết quả là sự khao khát, ước muốn đổi đời nhen nhóm lên trong tâm hồn Tràng khi anh bắt đầu quan tâm đến chuyện ngoài xã hội (chuyện Thái Nguyên, Bắc Giang nhân dân nổi lên cướp kho thóc của Nhật). Anh nghĩ về lần gặp Việt Minh mà mình đã tránh né, rồi tự nhiên thấy tiếc rẻ, vẩn vơ khó hiểu, điều ấy chứng minh rằng nếu được cho quay lại thời gian khi ấy, có lẽ Tràng đã không ngại ngần mà gia nhập Việt Minh cùng đi phá kho thóc của Nhật, và trong tương lai, nếu gặp lại cảnh ấy có lẽ Tràng cũng sẽ tham gia. Tác phẩm khép lại với hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” lẩn khuất ẩn hiện trong trí óc Tràng, đã mở ra những hy vọng mới, những niềm tin, và giải pháp mới cho Tràng và cả những người dân trong nạn đói năm 44-45.

Nhân vật người vợ nhặt cũng là một nhân vật quan trọng của tác phẩm. Thị là người có lai lịch không rõ ràng, không tên không tuổi, không quê quán họ hàng, thân phận của thị chính là một số không tròn trịa, phản ánh số phận rẻ rúng như rơm như rác của con người trước nạn đói năm 1944-1945. Thị không phải là người phụ nữ có ngoại hình hấp dẫn, Kim Lân đã dùng những nét vẽ rất thảm hại để tái hiện lại dáng vẻ tàn tạ của thị như “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “gầy xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, rồi “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”. Không có một ngoại hình hấp dẫn, nhưng cách nói năng của thị cũng chẳng lấy gì làm hay ho, ngôn ngữ chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn, sưng sỉa chỉ vì một miếng ăn. Cử chỉ, hành động vô duyên, táo bạo đến mức trơ trẽn. Nhưng bấy nhiêu đó có phải là bản chất của thị hay không? Câu trả lời là không, bởi thực tế trong những biểu hiện khi về làm vợ Tràng thị đã bộc lộ nhiều vẻ đẹp đáng quý. Trước hết là vẻ đẹp của khát vọng sống mãnh liệt, như đã phân tích tất cả những cử chỉ, ngôn ngữ hành động của thị đều có vẻ phản cảm và đáng ghét. Thế nhưng nếu ta xoay góc nhìn một chút sang khuynh hướng nhân văn nhân bản, thì có thể thấy rõ ràng rằng thị có những hành động, ngôn ngữ như vậy tất cả chỉ vì khao khát được sống, được có miếng ăn cứu đói, thị không muốn chết, đồng thời cũng bộc lộ khao khát được hạnh phúc, thị cũng muốn có một tấm chồng để dựa dẫm lúc buổi khó khăn, đói kém. Vẻ đẹp thứ hai nữa của thị chính là vẻ đẹp nữ tính được bộc lộ sau khi về làm vợ Tràng. Trên đường về nhà chồng, thị trở nên thẹn thùng, bẽn lẽn như bất kỳ cô dâu mới nào ngày cưới, rón rén, e thẹn, lấy nón che mặt, bởi ngại ngùng trước những ánh mắt săm soi của dân làng. Khi bước về nhà chồng, nhìn thấy căn nhà lụp xụp của Tràng thị đã không giấu nỗi thất vọng qua tiếng thở dài, thế nhưng khác hẳn với cái tính chỏng lỏn, đanh đá được mắt trên chợ tỉnh, thị lại im lặng, quyết tâm cùng với chồng vun vén cho gia đình, chứ không hề buông lời chê trách, thể hiện vẻ đẹp của sự chịu thương chịu khó, hy sinh vốn có của người phụ nữ Việt Nam. Khi gặp gỡ tiếp xúc với mẹ chồng, thị trở nên rất lễ phép, thưa hỏi đàng hoàng, nghiêm túc lắng nghe lời bà cụ Tứ chỉ dạy. Sau đêm tân hôn thì thị trở thành một người phụ nữ đảm đang tháo vát, dậy sớm đem quần áo ra phơi, gánh đầy hai ang nước, quét sân, trang hoàng nhà cửa, … quyết tâm làm một người vợ hiền dâu thảo, xây dựng gia đình cùng với Tràng. Trong ứng xử thị cũng trở nên rất tế nhị, thông minh, khi bà cụ mang nồi “chè khoán” ra với niềm vui mừng, thì bản thân thị cũng rất trông mong vào món chè ngon ngọt, thế nhưng khi ăn một miếng “mắt thị tối lại” - thị thất vọng, tuy nhiên thị cố giấu sự thất vọng ấy đi, điềm nhiên ăn tiếp, không nhìn ai, cũng không nói câu gì để tránh làm bà cụ Tứ tủi thân và làm mất không khí vui vẻ của gia đình. Một vẻ đẹp nữa của thị đó chính là niềm tin vào tương lai tươi sáng, chính thị đã đem đến cho cả gia đình một thông tin mới, mở ra một lối thoát cho Tràng, bà cụ Tứ và đó cũng là lối thoát chung của nhân dân ta dưới nạn đói năm Ất Dậu.

Nhân vật thứ 3 của tác phẩm đó chính là nhân vật bà cụ Tứ. Đây là một người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, cả đời long đong lận đận, mong ước lớn nhất với cuộc đời là lấy vợ cho con mà mãi vẫn chưa được. Thế nhưng giữa cái lúc thóc đau gạo kém, giữa lúc nạn đói người chết như ngả rạ thì anh con trai lại “nhặt” được một người vợ theo không, khiến bà vừa mừng vừa lo. Trước cảnh Tràng lấy vợ, trong buổi chiều hôm trước bà vợ đầu tiên là hết sức ngạc nhiên và bối rối, trước lời chào của thị, bà cụ Tứ chỉ im lặng vì thấy không thể tin nổi là con mình lại có được vợ mà không cần cưới hỏi. Sau sự ngạc nhiên ấy chính là những cảm xúc lẫn lộn sau khi hiểu ra ngọn nguồn cớ sự, khi nghe Tràng giải thích thì bà “cúi đầu nín lặng”. Bà thấy buồn, thấy tủi cho mình và cho con trai, bởi lúc người ta cưới vợ cho con là lúc nhà ăn nên làm ra, có tiền có của, làm được dăm ba mâm đãi làng, đãi xóm, còn nhà mình thì không có gì, lại còn ngay giữa nạn đói sống nay chết mai. Không chỉ buồn mà bà còn lo lắng cho tương lai của Tràng và thị, không biết chúng liệu có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói khát này không. Cuối cùng bà cụ lại thấy mừng vì thấy rằng may mắn thị có gặp phải bước đường đói khát nên mới lấy đến Tràng, chứ không thì Tràng có lẽ phải chịu ế cả đời. Sau tất cả những tâm trạng cảm xúc đan xen, bà cụ Tứ cuối cùng cũng lấy lại tinh thần, bộc lộ tình yêu thương con cái, tấm lòng nhân hậu thông qua cách hành xử với người con dâu. Đó là câu nói “Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lắm” để chính thức nhận thị làm dâu con trong nhà. Đồng thời bà cũng có những lời dặn dò, động viên hướng các con vào một tương lai tươi sáng, giấu trọn nỗi buồn nỗi lo trong lòng để truyền niềm tin, sự hứng khởi cho các con. Sau đêm tân hôn của các con, bà thay đổi hẳn không còn nỗi lo lắng, buồn rầu mà thay vào đó là niềm hy vọng tràn trề, “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”, xăm xắn thu dọn quét tước nhà cửa. Trong bữa cơm đón dâu mới, bà là người nói nhiều nhất, lại nói toàn những chuyện vui, suy tính chuyện làm ăn, nuôi gà,... Sau đó lại cố gắng nối dài niềm vui cho các con bằng cách lật đật chạy đi lấy nồi cháo cám gọi bằng “chè khoán”, cố xua đi bóng tối của cái đói và cái chết. Thế nhưng chúng lại càng trở nên rõ ràng hơn, khi cái vị đắng nghét của cháo cám lan đây khoang miệng, nghẹn bứ trong cổ của cả ba người.

Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân là một truyện ngắn hay và đặc sắc, từ việc phản ánh hiện thực xã hội thông qua nạn đói khủng khiếp năm 1944-1945, tác giả đã bộc lộ những tư tưởng, giá trị nhân đạo sâu sắc. Ca ngợi, đề cao vẻ đẹp, khát vọng sống còn của con người, cùng những niềm tin, hy vọng của họ vào một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đồng thời cũng bộc lộ niềm trân trọng, quý mến những thứ tình cảm giữa con người với con người như tình thân, tình yêu, tình đồng loại,... thứ không bao giờ bị dập tắt bởi sự khắc nghiệt của cuộc đời, thứ đã tiếp thêm cho con người sức mạnh để tiến về phía trước.

10 Bài phân tích số 10
Vote
100%

2

by Diệu Linh 15-03-2021

Kim Lân là một trong số những nhà văn xuất sắc viết về nông thôn và nông dân Việt Nam trong nền văn học hiện đại với những tác phẩm độc đáo tỏng cách xây dựng tình huống truyện, cách xây dựng và miêu tả nhân vật. Và có thể nói, truyện ngắn Vợ nhặt – rút từ tập Con chó xấu xí là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách sáng tác của ông.

Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân hấp dẫn bạn đọc ngay từ nhan đề tác phẩm và cách nhà văn xây dựng tình huống truyện. Chắc hẳn, mỗi người trong chúng ta ai cũng sẽ tò mò khi nghe thấy nhan đề “Vợ nhặt” nhưng chính nhan đề ấy đã gợi lên thật nhiều điều đáng suy ngẫm. Chính nhan đề ấy đã phần nào gợi lên thân phận rẻ rúng, đáng thương của những con người trong nạn đói năm 1945. Đồng thời, nhan đề ấy cũng đã phần nào hé mở tình huống truyện độc đáo của tác phẩm và góp phần to lớn vào việc thể hiện giá trị hiện thực sâu sắc ở thiên truyện. Không chỉ độc đáo ở nhan đề, Vợ nhặt còn xây dựng thành công một tình huống truyện mới lạ, độc đáo và giàu ý nghĩa. Kim Lân đã thật sự thành công khi xây dựng tình huống truyện – Tràng – một người dân xóm ngụ cư, với ngoại hình xấu xí lại “nhặt được vợ” ngay trong chính nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đó là một tình huống truyện mới lạ, bất ngờ nhưng cũng đầy éo le gây nên sự ngạc nhiên cho biết bao người nhưng cũng chính tình huống ấy đã góp phần không nhỏ vào việc thể hiện giá trị hiện thực của tác phẩm – sự rẻ rúng, bèo bọt của thân phận con người ngay trong nạn đói.

Không chỉ thành công trong việc lựa chọn nhan đề và tạo dựng tình huống, Vợ nhặt của Kim Lân còn hấp dẫn bạn đọc trong cách xây dựng nhân vật và chắc hẳn, những ai đã đọc tác phẩm này sẽ không thể nào quên nổi nhân vật Tràng. Không đi sâu miêu tả ngoại hình của nhân vật nhưng Kim Lân đã có những nét vẽ đủ để chúng ta nhận thấy Tràng là một chàng trai ngụ cư xấu xí với“dáng người thô kệch, cái cười khềnh khệch”, “lưng Tràng như con gấu”, “quai hàm bạnh ra”. Có lẽ ở Tràng hội tụ đầy đủ những yếu tố để ế vợ, ấy vậy mà ai ngờ đâu chính trong cái nạn đói khủng khiếp năm 1945 Tràng lại được một người phụ nữ theo không về nhà làm vợ. Và cũng chính sự kiến ấy đã làm cho những dòng cảm xúc của Tràng có sự thay đổi theo thời gian. Tràng và thị quen nhau thật tình cờ, chỉ vài ba câu hò vui ấy vậy mà thị theo Tràng về nhà thật “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ đằng ấy có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Thị theo về nhà, trong lòng Tràng chắc hẳn có niềm hạnh phúc đang len lỏi nhưng rồi cũng có lúc Tràng lo sợ, hắn “chợn nghĩ” nhưng rồi Tràng lại “tặc lưỡi: chậc kệ”. Cái tặc lưỡi ấy của Tràng không phải là cái tặc lưỡi của kẻ bất lực, muốn buống xuôi tất cả mà Tràng chậc lưỡi bởi với Tràng trong giờ phút này đây mọi niềm vui và khát vọng hạnh phúc đã lấn át và lớn hơn tất cả. Và để rồi, trên đường đưa vợ về nhà, niềm hạnh phúc, vui sướng ấy của Tràng như càng nhân lên gấp bội và phát lộ rõ rệt ra dáng vẻ bên ngoài của hắn ““vẻ mặt có cái gì đó phớn phở”, “hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười nụ một mình”, “mắt sáng lên lấp lánh”, “cái mặt vênh lên tự đặc với mình”. Nếu như, trên đường đưa vợ về nhà trong Tràng ánh lên niềm hạnh phúc khôn nguôi, Tràng như đang đắm chìm trong men say của hạnh phúc thì lúc về tới nhà Tràng lại ngượng nghịu, “đứng tây ngây ra giữa nhà” rồi có cái gì đó lo lắng, có lẽ Tràng sợ mẹ mình sẽ không đồng ý “nàng dâu mới”. Nhưng rồi, lời giới thiệu của Tràng với mẹ mình về sự xuất hiện của thị “kìa nhà tôi nó chào u” – một lời giới thiệu chan chứa bao nghĩa tình. Đặc biệt, tâm trạng của Tràng đã thực sự thay đổi trong buổi sáng ngày hôm sau. Tràng thấy “êm ái lửng lơ như người trong cõi mơ đi ra”, “cảm động, thấy yêu thương, gắn bó và thấy mình phải có trách nhiệm với cái gia đình này” sau một đêm đắm mình trong tình yêu, hạnh phúc. Và có lẽ chính sức mạnh của tình yêu, của hạnh phúc đã khiến Tràng thay đổi và thêm yêu, thêm tin tưởng vào hạnh phúc gia đình và một tương lai tươi sáng hơn.

Cùng với nhân vật Tràng, tác giả Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật thị. Nếu như khi xây dựng nhân vật Tràng, tác giả Kim Lân tập trung đi sâu khám phá thế giới tâm trạng thì khi khắc họa nhân vật thị nhà văn lại làm bật nổi nhân vật qua việc miêu tả ngoại hình và tâm trạng để từ đó làm bật nổi tính cách, tâm trạng của thị. Chắc hẳn, những ai đã từng một lần đọc Vợ nhặt sẽ không thể nào có thể quên được những chi tiết nhà văn Kim Lân miêu tả ngoại hình của thị “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, “áo quần rách như tổ đỉa”, “cái nóm cà tàng che nửa khuôn mặt”, “cái ngực gầy tẹp lép nhô lên”. Ngoại hình ấy của thị có lẽ là minh chứng rõ ràng nhất cho cái đói đang hoành hành. Và có lẽ cũng chính nạn đói khủng khiếp ấy đã khiến thị có những hành động “chao chát”, “chỏng lỏn” nhưng xét đến cùng đấy là chứng tích của cái đói. Đó là cái hành động thị đon đả “ăn thật nhá…”, “sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc”, “ăn xong cầm dọc đũa quệt ngang miệng “Hà! Ngon!”. Thế nhưng, khác với dáng vẻ bên ngoài ấy, người đọc sẽ dễ dàng cảm nhận được sự tinh tế, ý tứ, e dè của thị trong lúc theo Tràng về nhà làm vợ. Trên đường theo Tràng về nhà, thị có cái gì đó ngượng nghịu đến nỗi “chân nọ bước díu cả chân kia”. Thêm vào đó, khi về đến nhà, thị “nén tiếng thở dài, nhếch mép cười nhạt nhẽo”, “ngồi mớm ở mép giường”,… Những hành động ấy của thị đã làm toát lên sự e dè, ý tứ ở người phụ nữ có vẻ ngoài chao chát, chỏng lỏn tưởng chừng như có cái gì đấy vô duyên. Đặc biệt, nét đẹp tâm hồn, sự ý tứ của thị được thể hiện rõ nét trong buổi sáng hôm sau, thị “dậy sớm quét dọn nhà cửa, sân vườn, phơi quần áo, “trong bữa sáng: nói nhỏ nhẹ, đúng mực, lễ phép”,… Như vậy, thị chính là sự hiện thân cho cái đói, cái nghèo khổ trong những ngày khủng khiếp của nạn đói những năm 1945. Nếu như cái đói làm cho người phụ nữ mất đi những nét đặc trưng của họ thì chính tình yêu, hạnh phúc đã đem đến cho họ sức sống mới, để được sống với con người thật của mình.

Thêm vào đó, trong tác phẩm, nhà văn Kim Lân còn xây dựng thành công nhân vật bà cụ Tứ – điển hình cho người mẹ, người phụ nữ Việt Nam. Những chi tiết nhà văn Kim Lân miêu tả ngoại hình của bà cụ Tứ đã gợi nên sự cơ cực, lam lũ nơi người phụ nữ này. Đó là “dáng người lọng khọng”, “vừa đi vừa húng hắng ho vừa lẩm bẩm tính toán”. Nhưng ở người mẹ ấy chúng ta cũng cảm nhận thấy bao phẩm chất, bao nét đẹp tâm hồn qua những dòng xúc cảm của bà. Lúc vừa về đến nhà, thấy sự xuất hiện của thị trong nhà của mình, bà có cái gì đấy ngạc nhiên, “tỏ ý không hiểu”. Nhưng rồi, bà vỡ lẽ, bà nhận ra bao điều Bà lão cúi đầu nín lặng, “bà hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương” và rồi lòng người mẹ ấy cảm thấy thương con và thương cho chính mình, bà khóc – giọt nước mắt của sự tủi thân, của sự tự trách. Nhưng lòng thương con, lòng thương người đã khiến bài mở rộng vòng tay đón nhận nàng dâu mới. Và có lẽ chính sự xuất hiện của thị đã đem đến cho bà một niềm vui, niềm hạnh phúc khôn nguôi vào buổi sáng hôm sau. Sáng hôm sau, bà dậy sớm cùng nàng dâu mới chăm bẵm vườn tược, chăm lo cho ngôi nhà của mình, “gương mặt bủm beo, u ám ngày thường rạng rỡ hẳn lên”, trong bữa ăn sáng cả gia đình cùng nhau nói toàn những chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Như vậy, bà cụ Tứ là đại diện điển hình cho người phụ nữ Việt Nam dù cơ cực, lam lũ, nghèo khổ nhưng vẫn luôn tràn đầy tình yêu thương và tinh thần lạc quan.

Tóm lại, truyện ngắn Vợ nhặt với việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật trần thuật linh hoạt và cách xây dựng, miêu tả nhân vật đã vẽ nên bức tranh hiện thực về cuộc sống và số phận của người lao động trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đồng thời, tác phẩm cũng thể hiện rõ nét tấm lòng nhân đạo của nhà văn Kim Lân – bài ca ngợi ca tình người và khẳng định những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người.

Và trên đây là TOP 10 BÀI VĂN PHÂN TÍCH VỢ NHẶT CỦA KIM LÂN HAY NHẤT CHI TIẾT NHẤT. Tác phẩm thẫm đẫm giá trị nhân văn: thể hiện sự cảm thương sâu sắc với số phận con người trong đói khổ, lên án tố cáo tội ác thực dân phát xít, từ đó sự trân trọng của tác giả đối với phẩm chất tốt đẹp của con người. Nếu các bạn đã từng đọc hay có xem qua thì cho mình ý kiến nhé

Tears in Heaven