Đào Tấn (1845 - 1907), tên thật là Đào Đăng Tấn là người đã sáng tác ra rất nhiều bài thơ nổi tiếng và được lưu truyền đến tận ngày nay. Trước khi đến với trang thơ của ông, chúng ta hãy cùng điểm qua tiểu sử của vị thi sĩ này. Đào Tấn tự Chỉ Thúc, hiệu Mộng Mai và Tô Giang, biệt hiệu Mai Tăng và Tiểu Linh Phong. Nhờ may mắn lúc nhỏ được thọ giáo cụ Tú Nguyễn Diêu mà Đào Tấn được dạy chữ đi thi, được đào tạo thành nhà soạn tuồng nổi tiếng. Và ông đã đậu Cử nhân khoa Đinh Mão vào năm 23 tuổi (1868). Trong cuộc đời sáng tác, ông đã để lại khoảng 40 kịch bản tuồng và có thơ Hán văn, văn, biểu và văn tế, câu đối... Bây giờ chúng ta hãy cùng điểm lại 10 bài thơ nổi tiếng nhất của Đào Tấn nhé.
6 Hữu sở tư kỳ 2
有所思其二
欲涉不得去,
茫茫足煙霧。
香江多芳草,
何心採衡杜。
Hữu sở tư kỳ 2
Dục thiệp bất đắc khứ,
Mang mang túc yên vụ.
Hương giang đa phương thảo,
Hà tâm thái hành đỗ.
Dịch nghĩa
Muốn đến nhưng không đến được
Bởi khói mù dày đặc
Sông Hương lắm cỏ thơm
Lòng nào lại đi tìm cỏ lạ
Dịch thơ
Muốn đến nhưng khó đi
Khói mù dày đặc cả
Sông Hương lắm cỏ thơm
Lòng nào hái cỏ lạ
7 Hữu sở tư kỳ 3
有所思其三
青鳥高雲間,
錦書何時還。
君心雖匪石,
有恐凋朱顏。
Hữu sở tư kỳ 3
Thanh điểu cao vân gian,
Cẩm thư hà thì hoàn.
Quân tâm tuy phỉ thạch,
Hữu khủng điêu chu nhan.
Dịch nghĩa
Trời cao chim xanh bay
Thư gấm chừng nào gởi về
Lòng tuy không phải là sắt đá
Chỉn e nét son hao gầy
Dịch thơ
Chim xanh tít tầng mây
Mong thư gấm về đây
Lòng tuy không phải đá
Nét son e lợt phai
8 Hữu sở tư kỳ 4
有所思其四
朱顏不可仗,
哪能不惆悵。
何如雙翡翠,
飛去蘭苕上。
Hữu sở tư kỳ 4
Chu nhan bất khả trượng,
Na năng bất trù trướng.
Hà như song phí thuý,
Phi khứ lan điều thượng.
Dịch nghĩa
Nét son mà không còn như xưa
Làm sao chẳng đau buồn
Giá được làm chim phỉ chim thuý
Ta sẽ bay vào vườn hoa lan hoa thiều
Dịch thơ
Nét son không như cũ
Làm sao chẳng đau buồn
Ước làm chim phỉ thuý
Vườn lan thiều bay sang
9 Khốc Phan Đình Nguyên
哭潘廷元
破竹真能復舊京,
十年功績痛垂成。
但悲金幣堅和議,
忍使香盆聚哭聲。
手挽山河心未死,
身騏箕尾氣猶生。
經過當日班師地,
千古令人涕淚橫。
Khốc Phan Đình Nguyên
Phá trúc chân năng phúc cựu kinh,
Thập niên công tích thống thuỳ thành.
Đãn bi kim tệ kiên hoà nghị,
Nhẫn sử hương bồn tụ khốc thanh.
Thủ vãn sơn hà tâm vị tử,
Thân kỳ Cơ, Vĩ khí do sinh.
Kinh qua đương nhật ban sư địa,
Thiên cổ linh nhân thế lệ hoành.
Dịch nghĩa
Thế mạnh chẻ tre, thật có thể khôi phục kinh thành cũ
Công tích mười năm, đau xót thay nghiệp sắp thành
Buồn vì nỗi tiền bạc mà triều đình khăng khăng nghị hoà
Nỡ khiến quanh bình hương phải tụ tiếng khóc
Một tay cứu vớt non sông, tấm lòng son chửa mất
Thân dù cưỡi sao Vĩ sao Cơ, mà khí phách vẫn còn nguyên
Qua nơi thắng trận năm nào
Dù đến nghìn sau vẫn khiến người ta phải sụt sùi rỏ lệ.
Dịch thơ
Thế chẻ tre chờ dựng nước non.
Mười năm công tích nghĩ đau buồn
Thảm thay vàng lụa lo hoà nghị
Nỡ khiến lò hương tụ khóc thương
Cứu nước tay buông lòng chẳng chết
Cỡi sao thân khuất chí còn hun
Qua nơi thắng trận ban sư trước
Mười vạn đời sau lệ vẫn tuôn.
10 Ký hoài Hà Đình công
寄懷荷亭公
歲暮懁人寄遠書,
苛亭風景近何如。
年年記取岩頭月,
十二回園到索居。
Ký hoài Hà Đình công
Tuế mộ hoài nhân ký viễn thư,
Hà Đình phong cảnh cận hà như.
Niên niên ký thủ nham đầu nguyệt,
Thập nhị hồi viên đáo tác cư.
Dịch nghĩa
Năm hết nhớ người bạn xa gởi thư thăm
Phong cảnh nhà hoa sen chẳng biết gần đây ra sao
Hằng năm hãy nhớ đến mảnh trăng đầu ghềnh
Mười hai độ trăng tròn trăng đã soi đến nơi ta ở lẻ loi
Dịch thơ
Nhớ người năm hết thư trao
Nhà sen phong cảnh thế nào hở anh?
Mãi nhìn bóng nguyệt đầu ghềnh
Tròn mười hai độ nơi mình sáng soi
- thơ đào tấn
- nhà thơ đào tấn
- bài thơ của đào tấn
- bài thơ của đào tấn nổi tiếng
- bài thơ nổi tiếng của đào tấn
- bài thơ của đào tấn hay nhất
- bài thơ hay nhất của đào tấn
- trang thơ đào tấn
- trang thơ của đào tấn
- thơ đào tấn hán việt
- thơ hán việt của đào tấn
- thơ hay
- thơ thất ngôn tứ tuyệt
- thơ thất ngôn bát cú
- thơ ngũ ngôn tứ tuyệt
Previous post