Trong trang thơ hôm nay, Topshare sẽ gửi tặng bạn đọc 10 bài thơ của tác giả Đinh Nho Hoàn được yêu thích nhất. Đinh Nho Hoàn (1670 - 1716) hiệu là Mặc Trai thuộc dòng họ nổi tiếng với nhiều người hiển đạt. Tập thơ Mặc Ông sứ tập nổi tiếng là tác phẩm của Đinh Nho Hoàn được dịch sang tiếng Việt năm 2009 bởi nhà NXB Văn học ấn hành. Nội dung của Mặc Ông sứ tập bao gồm những bài vịnh phong cảnh, cảm tác, họa đáp, tiễn tặng bạn bè, ký, răn dạy con cháu... được sáng tác vào thời gian Đinh Nho Hoàn đi sứ Trung Quốc. Tuy những sáng tác của ông để lại không nhiều nhưng các chuyên gia đánh giá rất cao tập thơ của ông với sự ngọt ngào, chứa chan tình cảm đẹp đẽ, lòng yêu nước nồng nàn và niềm tự hào dân tộc sâu sắc. Cùng thưởng thức ngay 10 bài thơ của tác giả Đinh Nho Hoàn được yêu thích nhất tại Topshare nhé.
6 Du Trường Sinh am
Trường Sinh sinh ý dữ xuân hài
Hoa thảo song phương cẩm bán tài
Hàm quả cầm hồi phân diệp ấm
Bộc kinh viện tĩnh hứa phong khai
Cảnh phi tuyền thạch khoan viên oán
Các cận vân tiêu tiện nguyệt lai
Chú bát tăng nhàn cu thụ ỷ
Cà sa lãn chỉnh tảo thương đài
Dịch nghĩa
Tên am Trường Sinh có ý nghĩa với cuộc sống và rất hợp mùa xuân
Hai bên là cỏ và hoa mọc xen nhau như thêu gấm
Chim rừng ngậm quả bay về đậu nấp dưới lá
Gió thổi qua am im vắng giữa sân đang phơi kinh
Cảnh không chỉ toàn suối và đá ít nghe tiếng vượn kêu ai oán
Lầu chuông cao sát mây tiện cho mặt trăng ghé vào
Nhà sư nhàn dựa gốc cây cu long tay cầm bát miệng niệm chú
Cà sa không buồn sửa sang chăm chỉ quét dọn những rêu xanh.
Dịch thơ
Cuộc đời xuân sắc đúng Trường Sinh
Hoa cỏ đan thành một bức tranh
Chim ngậm quả rừng im dưới lá
Gió lùa sân miếu vắng phơi kinh
Lầu chuông cao ngất trăng thanh tỏ
Suối đá lững lờ vượn lặng thinh
Dựa gốc cu long sư niệm chú
Cà sa xộc xệch quét rêu xanh.
7 Dương sóc đồ trung nhân Mộ chính đường thứ vận tiền thi kiêm tặng thượng phẩm phiến nhất bả nhưng phục thứ tiền vận tạ tha
Tự tiếu tao hoài đái Ân Sơn
Phúc tinh kinh huyến Lạc Thàng gian
Bào dân lâm sái trùng tiêu thuý
Phi quốc thần nghiên nhất điểm đan
Y hiến thác tàm không Trịnh trữ
Cào phân mi động bổng Ngô ban
Kim chương ngọc ngữ thuyền đầu tập
Số biến phần hương số biến khan
Dịch nghĩa
Tự cười mình ưu lo muốn deo cả núi Ấn Sơn
Sao Phúc rực sáng kinh ngạc cả vùng Lạc Thành
Chăm dân nhuần tưới mưa ơn cả bầu trời xanh ngút
Ích nước trong chiếc nghiên thần chỉ một vệt son
Tặng áo thẹn không có quyền nước Trịnh
(Nghe tiếng) xé lụa động mi mắt chịu thua Ngô Hạp Lư
Chữ vàng lời ngọc nhận được ở đầu thuyền
Mấy lần đốt hương lại mấy lần mở ra xem.
Dịch thơ
Ấn Sơn lo phải vác trên mình
Lấp lánh Phúc tinh chiếu Lạc Thành
Ích nước nghiên mài đầy mực đỏ
Chăm dân mưa tưới kín trời xanh
Đâu quyền nước Trịnh khi trao áo
Đây thế vua Ngô lúc xé lanh
Đón nhận đầu thuyền lời quý báu
Đốt hương lại mở biết bao lần.
8 Đại Quách khuê phụ tiễn Quách bạn thướng Yên Kinh
Yên Kinh tiễn tiễn sóc xuy hàn
Thử khứ tam thiên thuỷ lộ man
Khả nhẫn khuê tâm tần tẩy trản
Cánh tăng hào khí cưỡng gia xan
Vọng Phu sơn thượng hoa như diện
Kính Thạch ky đầu tiễn tự hoàn
Đồ thạch đối sơn kham niệm thiếp
Lâm viên ngưng lập quyện chi phan
Dịch nghĩa
Đường Yên Kinh gió bắc thổi rét căn cắt
Lần đi này đường thuỷ dằng dặc ba ngàn dặm
Hãy nén lòng khuê uống cạn vài chén tẩy trần
Càng có hào khí ăn thêm mấy bát cơm
Trên núi Vọng Phu hoa nở tươi như mặt người
Đầu tảng Kính Thạch rêu mọc tốt như búi tóc
Nhìn núi ấy đá ấy lòng thiếp kham chẳng đặng
Ra vườn đứng lặng mỏi mệt vin cành cây.
Dịch thơ
Đi Kinh gió rét phải lên đường
Sông nước lênh đênh vạn dặm trường
Hãy nén lòng khuê vài chén rượu
Càng thêm hào khí mấy lưng cơm
Vọng Phu hoa thắm khoe hương sắc
Kính Thạch rêu xanh phủ mặt tường
Lòng thiếp thương chàng kham chẳng đặng
Vin cành đứng lặng xỉu trong vườn.
9 Đáp hữu doanh Chu Đại Tổng trấn quan yến tiếp
Bồng bình phụ bách sấm Ninh thành
Nhất tiếp ôn nhan nhãn bội thanh
Tiêu quốc tháp đài danh tịnh thính
Vũ hầu di trụ [?] đồng thanh
Phần Dương ân nhã cầm đường tĩnh
Dương Thúc phong lưu cầu tử khinh
Kiến Vũ kỳ phùng thù vạn cảm
Nhất sinh cảm ngự thử ân vinh
Dịch nghĩa
Trôi nổi theo đoàn thuyền đang tiến vào thành Nam Ninh
Gặp nhau nét mặt ôn tồn những đôi mắt như xanh thêm bội phần
Tháp và đài của tướng quốc Tiêu Hà đều nổi tiếng
Cột đồng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng một màu xanh
Quách Phần Dương nho nhã phòng đánh đàn yên tĩnh
Dương Thúc (Ngao) phong lưu chiếc áo cừu nhẹ tênh
Có duyên kỳ lạ được gặp ở thành Kiến Vũ thật muôn vàn cảm xúc
Cả đời người đâu dám mong có được ơn vinh này.
Dịch thơ
Đoàn thuyền trôi nổi đến Nam Ninh
Gặp gỡ ôn tồn ánh mắt xanh
Đài tháp Tiêu Hà danh chói lọi
Cột đồng Cát Lượng sắc thiên thanh
Quách Phần nho nhã đàn yên lặng
Dương Thúc phong lưu áo nhẹ tênh
Gặp gỡ duyên may thành Kiến Vũ
Suốt đời đâu dám ước ơn vinh.
10 Đáp Tả Giang Đạo tẩy yến tiếp tùng du Viên Khâu Cực lạc
Lưỡng giang hào thắng độc Ung Ninh
Đức nhuận viên đôn thập lý hinh
Sức dẫn tú lâm khai Ngọ các
Tà loan cổ lạt uấn đan linh
Hải Đường kiều ngoại phiên xuân cước
Kiến Vũ thành trung huyến phúc tinh
Thổ Khoáng đài thanh cầm hạc điểu
Thông mang ky tử hạnh xu đình
Dịch nghĩa
Trong hai đạo thì đạo Ung Ninh chiếm nhiều cảnh đẹp nhất
Ơn đức nhuần thấm mười dặm vườn nương nức hương thơm
Ngọ các ngỏ cổng trên đường núi quanh co
Rượu quý toả hương cay nồng bên dốc núi
Ngoài cầu Hải Đường đầu xuân lướt nhẹ đến
Trong thành Kiến Vũ sáng rực rỡ sao Phúc tinh
Tiếng đàn hạc không còn, lâu đài Triều Thổ và Sư Khoáng thanh vắng
Đang vội việc mà được lĩnh giáo thật điều may cho kẻ hậu sinh này.
Dịch thơ
Tuyệt trần cảnh đẹp đạo Ung Ninh
Mười dặm đức ân thấm đất lành
Ngọ Các cổng toang triền núi dốc
Rượu ngon hương toả khúc đường quanh
Hải Đường ngoài bến tươi xuân sắc
Kiến Vũ trong thành sáng Phúc tinh
Đàn hạc không còn, Triều, Khoáng vắng
Hậu sinh xin lĩnh giáo chân thành.
Previous post