Nguyễn Tuân nổi tiếng với hành trình suốt đời đi tìm cái đẹp, từng thời kỳ sáng tác ông đi tìm những “cái đẹp” ấy với những trạng thái và tính chất khác nhau. “Chữ người tử tù" cũng là một tác phẩm của “cái đẹp" khi để cho ánh sáng rực rỡ trong đêm tối. Không chỉ có Huấn Cao, nhân vật viên quản ngục cũng là một trong những tâm điểm chính làm nổi bật lên ý đồ nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Để hiểu thêm về nhân vật viên quản ngục trong “Chữ người tử tù”, hãy cùng Topshare khám phá một số bài phân tích được chọn lọc, tổng hợp dưới đây bạn nhé!
1 Bài văn phân tích nhân vật viên quản ngục - Mẫu số 1
Quả thật không sai khi đánh giá rằng các tác phẩm văn học chỉ được khai sinh ra khi chính nó là kết quả nhào nặn từ những nguyên liệu đời sống, nếu những sáng tác ấy chỉ hoàn toàn là sản phẩm của sự hư cấu mà không mang hơi thở đời sống thì tác phẩm ấy sẽ không thể truyền được cảm xúc đến với bạn đọc. Văn học cũng là chuyện cuộc đời, một hành trình mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà văn. Đối với Nguyễn Tuân, ông luôn khao khát đi tìm cái đẹp thuần khiết dù đó là những nơi bóng tối phủ đầy và chỉ có cái xấu xa ngự trị. Nguyễn Tuân luôn tin rằng dù con người sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì ẩn sâu trong tâm hồn họ vẫn luôn chứa đựng những cái đẹp rất đáng trân trọng. Và Chữ người tử tù sẽ cho ta sẽ thấy rõ được điều đó.
Tuy không phải là nhân vật chính trong tác phẩm của Nguyễn Tuân, nhưng viên quản ngục cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Ở nhân vật viên quản ngục người đọc nhận ra những nét đẹp đáng quý đồng thời làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật chính là ông Huấn Cao. Nói về nhân vật viên quản ngục, trong mở đầu của câu chuyện, nhà văn Nguyễn Tuân viết rằng: “trong hoàn cảnh đề lao người ta sống bằng sự tàn nhẫn, lừa lọc, tính cách dịu dàng, lòng biết trọng giá trị của người biết trọng người ngay của quản ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”.
Có lẽ ai cũng nghĩ rằng việc sống trong chốn lao tù trông coi những kẻ tù tội, cái hoàn cảnh ấy dễ đẩy con người đến với sự lọc lừa, tàn nhẫn. Tuy nhiên trái ngược với bản chất của nơi đây, nhân vật viên quản ngục lại là người có tính cách dịu dàng, biết trọng người ngay và hiểu được giá trị của con người.
Mặc dù trong tư thế đối nghịch khi phải làm việc cho triều đình nhưng viên quản ngục lại vô cùng mến mộ khí phách của ông Huấn Cao khi biết Huấn Cao là một vị anh hùng đại nghĩa, dám đứng lên lãnh đạo nhân dân chống lại triều đình thối nát. Viên quản ngục hiểu rằng với ông Huấn Cao mình chỉ là một kẻ xấu xa, tiểu nhân giữ tù, bởi vậy quản ngục cũng đã lường trước được rằng mình sẽ bị Huấn Cao khinh bạc, coi thường. Thế nhưng y vẫn rất mực cung kính, lễ độ khi đối diện với ông Huấn Cao.
Trong thời gian Huấn Cao bị bắt giam, ngày nào viên quản ngục cũng tự mình đem cơm rượu tới, hành động này của nhân vật không phải vì ông muốn có luôn muốn có được chữ của Huấn Cao mà nó xuất phát từ chính tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục dành cho vị anh hùng Huấn Cao với khát khao to lớn đó là vùng vẫy khắp năm châu bốn bể, ước muốn lật đổ triều đình mục nát để nhân dân có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Câu hỏi của nhân vật viên quản ngục “Xin cho biết ngài cần gì? để tôi cố gắng chu tất” và nhận được câu trả lời khẳng khái, thẳng thắn của Huấn Cao “ta chỉ muốn một điều là nhà ngươi đừng bước chân vào đây nữa” Nhưng người quản ngục không tức giận mà lại bày tỏ thái độ “xin lĩnh ý” lui ra một lần nữa đã tôn lên vẻ đẹp chính trực, bất khuất của Huấn Cao cùng với sự kính trọng đối với cái đẹp của viên quản ngục.
Không chỉ có tấm lòng biệt nhỡn liên tài, nhân vật viên quản ngục còn là người rất yêu cái đẹp. Khi hắn nghe tin trại giam tỉnh Sơn sắp tiếp nhận thêm 6 tội nhân, trong đó có ngài Huấn Cao, một người nổi tiếng là viết chữ nhanh và đẹp, viên quản ngục đã bùng nổ khao khát từ bấy lâu là có được chữ Huấn Cao để treo trong nhà. Và để đạt được sở nguyện đó, ông đã bất chấp mọi nguy hiểm có thể đến, dám biệt đãi Huấn Cao và cả 5 đồng chí của ông để đạt được sở nguyện “cả đời” của mình. Dù trong lòng lo sợ không xin được chữ của Huấn Cao sẽ phải hối hận cả đời nhưng ông vẫn không dám mở miệng để nói lời thỉnh cầu với Huấn cao về ước muốn của mình.
Với tấm lòng chân thành của viên quản ngục cuối cùng đã khiến Huấn Cao cảm động và chấp nhận dành cho chữ y vào lúc nửa đêm, khi trại giam tỉnh Sơn nơi đây chỉ còn vọng lại tiếng mõ trên vọng canh. Trong một buổi tối trong chiếc phòng giam chật hẹp, ẩm ướt đã diễn ra một cảnh tượng độc đáo xưa nay chưa từng có. Người cho chữ là một kẻ tử tù, cổ đeo gông cùm, chân vướng xiềng xích, còn người được nhận chữ là viên quản ngục cai quản nhà giam lại đang có thái độ khúm núm với hành động chất từng đồng kẽm đánh dấu ô.
Sự khúm núm của viên quản ngục không khiến cho nhân người đọc đánh giá nhân cách của y bị hạ thấp mà trái lại càng nâng cao hơn giá trị con người ông, đó là sự kính nể, hạ mình trước cái tài, cái thiên lương. Sau khi nhận chữ, được ngài Huấn Cao khuyên bảo là nên thay đổi chỗ ở để giữ cái thiên lương cho lành vững, lúc ấy viên quản ngục đã vái lạy người tử tù một vái và chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt chảy rỉ vào kẽ miệng làm cho không khí trở nên nghẹn ngào “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Đến đây cuối cùng cái đẹp, cái thiện đã chiến thắng cái xấu, cái ác và ta dễ dàng nhận thấy có những người cho dù phải sống trong môi trường xấu xa nhưng họ vẫn hướng về thiên lương, đó chính là niềm tin sắt đá của tác giả Nguyễn Tuân về giá trị của con người. Thực sự viên quản ngục trong tác phẩm là một thanh âm trong trẻo giữa bản đàn mà nhạc luật đều xô bồ và hỗn loạn.
Mặc dù tác phẩm đã kết thúc nhưng trong tâm trí bạn đọc vẫn còn lưu giữ những nét chữ vuông vắn, đẹp đẽ của Huấn Cao, cùng với thái độ kính trọng của viên quản ngục trong một cái không gian chật hẹp tối tăm. Thông qua nhân vật viên quản ngục nhà văn Nguyễn Tuân một lần nữa khẳng định, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì cái đẹp cũng luôn có sức mạnh cảm hóa con người và để giữ được thiên lương của mình luôn sáng trong, con người cần phải tránh xa cái ác độc, xấu xa.
2 Bài văn phân tích nhân vật viên quản ngục - Mẫu số 2
Viên quản ngục là người làm nghề coi ngục, một công cụ của bộ máy thống trị lúc bấy giờ. Cuộc sống trong nhà tù thường gắn liền với tội ác, gắn liền với sự nhem nhuốc, xấu xa. Vậy tại sao tác giả lại ví viên quản ngục là một thanh âm trong trẻo giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ? Để hiểu được điều đó, trước hết ta phải biết thế nào là “âm thanh trong trẻo”, thế nào là “bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Về nghĩa đen, ta thấy “thanh âm trong trẻo” là thanh âm cao, trong, vút lên trong bản đàn mà người ta dễ nhận biết. “Bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ” là âm sắc phát ra từ tiếng đàn không hòa hợp với nhau để tạo nên vần điệu cho bản nhạc. Về nghĩa bóng thì “âm thanh trong trèo” chỉ cái tâm trong sáng, thiên lương của viên quản ngục. Viên quản ngục biết quý trọng người tài, biết yêu cái đẹp, biết trân trọng và giữ gìn cái đẹp. Còn “bản đàn mà nhạc luật hỗn loạn, xô bồ” ý muốn nói đến nhà tù mà viên quản ngục đang canh giữ. Là nơi thường diễn ra những đòn roi tra tấn, những hành vi chà đạp lên đạo đức xã hội. Tóm lại nơi đây làm cho tâm hồn con người trở nên mục ruỗng đi.
Giữa môi trường xấu xa như vậy nhưng viên quản ngục lại là người có những phẩm chất đáng quý. Trước hết, viên quản ngục là người biết yêu cái đẹp, biết trân trọng và giữ gìn cái đẹp. Viết chữ đẹp và thưởng thức chữ đẹp là thú chơi thanh tao của người xưa. Ngay từ thời còn trẻ, viên quản ngục đã có thú chơi thanh tao đó. “Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Rõ ràng phải là người biết yêu cái đẹp, biết trân trọng cái đẹp, viên quản ngục mới ước muốn có được chữ của ông Huấn Cao để treo trong nhà. Trong những ngày Huấn Cao ở trong nhà ngục do mình trông coi, viên quản ngục luôn nhẫn nhục để xin cho bằng được chữ của Huấn Cao. Khi Huấn Cao trả lời câu hỏi của mình với thái độ khinh bạc: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”, viên quản ngục không nổi trận lôi đình mà lại còn lễ phép lui ra với một câu “Xin lĩnh ý!”. Một điều đáng nói nữa là “Viên quản ngục mong mỏi một ngày gần đây ông Huấn sẽ dịu bớt tính nết, thì y sẽ nhờ ông viết cho… mấy chữ trên chục vuông lụa trắng đã mua sẵn và can lại kia. Thế là y mãn nguyện”. Việc mua sẵn mấy vuông lụa trắng cũng đã đủ chứng minh viên quản ngục rất mong có được chữ của ông Huấn Cao. Viên quản ngục rất lo lắng. “Y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn Cao bị hành hình mà. không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất”. Khi có công văn, ngày mai tinh mơ, ông Huấn Cao và các bạn tù của ông phải giải về kinh chịu án tử hình thì “viên quản ngục tái nhợt người đi”, cho gọi viên thơ lại lên và kể rõ tâm sự của mình cho thầy thơ lại biết. Sự trân trọng cái đẹp còn thể hiện qua thái độ của viên quản ngục khi nhận được chữ của ông Huấn Cao cho. “Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng”. Việc giữ lại những vuông lụa trắng có chữ viết của Huấn Cao chính là ý thức muốn lưu.giữ cái đẹp, bảo vệ cái đẹp.
Không chỉ là người biết yêu cái đẹp, trân trọng cái đẹp và giữ gìn cái đẹp, viên quản ngục còn là người biết quý trọng người tài. Mới nghe tin trong những người tử tù ngày mai đến ở có Huấn Cao, viên quản ngục đã cho người lo chu đáo chỗ ở cho những người tù. Điều đó được thể hiện qua ý nghĩ của viên quản ngục khi chuẩn bị đón tù. Viên quản ngục nghĩ về thầy thơ lại “Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn là không phải kẻ xấu hay là người vô tình. Ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao. Ta muốn cho Ông ta đỡ cơ cực trong những ngày cuối cùng còn lại”. Trong những ngày Huấn Cao ở tù, bao giờ viên quản ngục cũng cho viên thơ lại đem rượu đến và lễ phép dâng rượu với đồ nhắm cho Huấn Cao. Không những vậy, “năm bạn đồng chí” của ông Huấn Cao “cũng đều được biệt đãi như thế cả”. Đặc biệt khi nhận được công văn ngày mai, vào sáng sớm những người tử tù phải giải về kinh thì viên quản ngục “tái nhợt người đi”. Thái độ đó thể hiện sự tiếc thương của viên quản ngục đối với người tài đức như Huấn Cao.
Biết yêu cái đẹp, biết trân trọng giữ gìn cái đẹp, viên quản ngục còn là người có thiên lương trong sáng. Thiên lương chính là bản tính tốt của con người do trời phú cho. Vậy viên quản ngục là người có bản tính tốt. Sống giữa chốn lao tù, đầy rẫy tội ác mà tâm hồn viên quản ngục không hề bị nhuốm bẩn. Ông biết nhận rõ đâu là đúng, đâu là sai, đâu là tốt và đâu là xấu. Quả thực “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Tự mình ông cũng đã biết mình chọn “nhầm nghề”. Vì vậy, khi Huấn Cao có lời khuyên “Ở đây lẫn lộn cả. Ta khuyên thầy quản nên thay đổi chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người (…) Thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi” thì viên quản ngục đã kính cẩn tiếp nhận lời khuyên “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Qua phân tích, ta thấy viên quản ngục đúng là một thanh âm trong trẻo giữa một bản đàn mà nhạc luật đều xô bồ.
Nguyễn Tuân đã rất thành công khi xây dựng được nhân vật viên quản ngục. Lấy cái nền là nhà tù, Nguyễn Tuân muốn gửi đến độc giả một thông điệp quý giá: con người phải luôn vượt lên trên hoàn cảnh sống, vượt lên chính mình. Nguyễn Tuân thành công khi xây dựng nhân vật này còn bởi ông am hiểu thấu đáo về hiện thực cuộc sống, về diễn biến tâm trạng của con người. Qua nhân vật viên quản ngục, người đọc rút ra rằng: muốn yêu cái đẹp, muốn thưởng thức cái đẹp, muốn lưu giữ bảo vệ cái đẹp trước hết phải biết sống đẹp, sống tốt.
3 Bài văn phân tích nhân vật viên quản ngục - Mẫu số 3
Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, bên cạnh nhân vật Huấn Cao, ta còn thấy hiện lên nhân vật quản ngục biết trọng người và biết quý người ngay thẳng, viên quản ngục là một thanh âm trong trẻo chen giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Nhân vật đã được Nguyễn Tuân khắc họa vô cùng đặc sắc, đầy ấn tượng.
Quản ngục là một người đã lớn tuổi, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Khuôn mặt luôn tự lự, nhăn nheo chứng tỏ ông có một đời sống nội tâm sâu sắc, phong phú. Sau khi nhận được phiến trát gửi về, trong sáu tên tử tù có ông Huấn Cao, người mà ông hằng ngưỡng mộ về tài viết chữ đẹp, điều đó làm ông vô cùng băn khoăn, nghĩ ngợi.
Quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông là người “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay” “là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Nhưng tính cách đó, con người đó lại bị đặt trong hoàn cảnh đề lao chỉ có lừa dối, tàn nhẫn. Hoàn cảnh sống và phẩm chất của nhân vật hoàn toàn trái ngược nhau: quản ngục tâm điền tốt và thẳng thắn nhưng lại phải ăn ở đời đời, kiếp kiếp với một lũ cặn bã. Đó chính là bi kịch của cuộc đời ông.
Sống trong hoàn cảnh đó, nhưng quản ngục vẫn giữ được cho mình một tâm hồn và cốt cách cao đẹp. Nhận được phiến trát, biết được trong số tử tù có Huấn Cao điều đó đã làm ông suy nghĩ cả đêm, việc nhận tù sắp tới gây xáo động lớn trong tâm từ của ông: khuôn mặt “tư lự” dần thay thế bằng “mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Có phải chăng trong đêm thanh tĩnh đó, ông đã suy nghĩ, đã cất nhắc để quyết định sẽ có biệt đãi riêng với người tư tù mang tên Huấn Cao này, cũng bởi vậy từ khuôn mặt tư lự, lo lắng chuyển sang sự thanh thản, bình lặng.
Niềm say mê nghệ thuật, lòng trân trọng người tài chính là yếu tố đã khiến ông quyết định biệt đãi với Huấn Cao. Nhưng đi đến quyết định này, chính bản thân quản ngục cũng phải đối mặt với nguy hiểm. Nhưng bằng tình yêu cái đẹp, bằng khí phách của chính mình viên quản ngục vẫn quyết định biệt đãi với Huấn Cao. Biệt đãi Huấn Cao, quản ngục cũng mang trong mình niềm hi vọng sẽ xin được chữ của ông, nhưng đó chỉ là hi vọng mong manh, bởi tính ông Huấn vốn khoảnh, điều này quản ngục hiểu rất rõ.
Ngày cả khi đem tất cả dũng khí vào gặp Huấn Cao, nhận được thái độ coi thường từ Huấn Cao, nhưng quản ngục chỉ lễ phép lui ra và nói: “Xin lĩnh ý” và mọi sự biệt đãi vẫn diễn ra như cũ. Hành động đó, cử chỉ nhún nhường đó là cả tấm lòng của quản ngục dành cho Huấn Cao, cũng chính ông đã tự bộc bạch: “những người chọc trời quấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Sự biệt đã và thái độ nhún nhường đó cho hấy thái độ tâm phục, lòng biết giá người và trọng người ngay của quản ngục với Huấn Cao.
Trong những ngày Huấn Cao dưới sự cải quản của mình, quản ngục còn mang trong mình hi vọng: ông Huấn sẽ dịu bớt tính nết khi ấy ông sẽ xin ông Huấn chữ lên chữ lần lụa vuông vắn, trăng tinh đã được ông chuẩn bị từ lâu. Nếu được Huấn Cao cho chữ thì cả đời này của ông coi như đã thỏa ý, đã mãn nguyện. Điều ông đau lòng nhất là ông Huấn dưới quyền mình nhưng chẳng biết làm cách nào để có thể xin chữ. Ông sợ một mai ông Huấn bị giải đi thì ông sẽ ân hận cả đời.
Ngày nhận được công văn, quản ngục “tái nhợt người đi”, nốt đêm nay thôi, ngày mai ông Huấn Cao đã bị giải đi để hành hình, vậy là sở nguyện xin chữ của ông có lẽ sẽ mãi mãi không thể thực hiện. Nhưng bên cạnh ông còn có một thầy thơ lại cũng mang trong mình tấm lòng biệt nhỡn liên tài, nghe lời tâm sự của quản ngục, thầy thơ lại đã tìm ông Huấn và kể về nỗi lòng sâu kín của quản ngục. Huấn Cao thấu hiểu nỗi lòng viên quản ngục: “Ta cảm cái tầm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.
Chính nhân cách, phẩm chất của viên quản ngục đã làm cho Huấn Cao cảm phục và xúc động. “Cảnh cho chữ diễn ra trong phòng giam tử tù và sự kì ngộ giữa khách anh hùng tài tử với kẻ biệt nhỡn liên tài”. Trong không gian nhà tù tối tăm, ẩm thấp, chật hẹp đã diễn ra cảnh cho chữ chưa từng có. Tấm lụa bạch trắng còn nguyên vẹn lần hồ, những đồng tiền kẽm đánh dấu ô, mùi mực thơm đều đã được viên quản ngục cẩn trọng chuẩn bị với tất cả lòng thành kính. Dưới ánh đuốc tỏa ra đỏ rực, ba chiếc đầu chụm lại chăm chú từng nét chữ người tù đang viết.
Mỗi chữ Huấn Cao viết xong, viên quản ngục đều “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ” thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”. Trên lần lụa trắng, những nét chữ được viết ra, viên quản ngục lắng nghe lời khuyên chân thành của tử tù, lui về quê nhà, bỏ nghề để giữ vững thiên lương trong sạch của mình. Cảm về tài năng, cảm về nhân cách, viên quản ngục vội vái người tù một vái, trong hàng nước mắt nói: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Ông tự nhận mình là kẻ mê muội, bao lâu nay sống trong cảnh đề lao, thiếu chút nữa đã làm hoen ố nhân cách và thiên lương của chính mình. Nhờ có ánh sáng của cái đẹp, của nhân cách Huấn Cao, quản ngục mới được khai sáng, mới có thể sống nốt phần đời còn lại trong sự thanh tĩnh, trong sạch.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc biệt, đặt nhân vật vào tình huống gặp gỡ độc đáo, kết hợp với nghệ thuật cường điệu, phóng đại, tương phản giúp bộc lộ tính cách nhân vật. Nhân vật được khắc họa thiên về chiều sâu tâm lí thể hiện qua các lời độc thoại nội tâm.
Bằng nghệ thuật khắc họa nhân vật đặc sắc, độc đáo, Nguyễn Tuân đã vẽ lên chân dung của một quản ngục thật đẹp đẽ, cao cả về nhân cách. Đồng thời ông cũng cho thấy trong mỗi một con người luôn có một phần con người nghệ sĩ, tâm hồn yêu cái đẹp, trọng cái tài.
4 Bài văn phân tích nhân vật viên quản ngục - Mẫu số 4
Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quản ngục này là một âm thanh trong trẻo chen giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Nguyễn Tuân viết truyện Chữ người tử tù năm 1939 đăng trên tạp chí Tao Đàn, năm 1940, in trong tác phẩm Vang bóng một thời. Đoản thiên tiểu thuyết này có khoảng 2800 chữ, xứng đáng là một tờ hoa, trang hoa đích thực.
Bên cạnh Huấn Cao — tử tù cho chữ, là nhân vật viên quản ngục — người xin chữ đã được Nguyễn Tuân miêu tả một cách đặc sắc, đầy ấn tượng. Ngục quan có một ngoại hình ưa nhìn. Đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Bộ mặt tư lự, nhăn nheo, có một đời sống nội tâm sâu sắc, cả nghĩ. Sau khi nhận được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên Đốc bộ đường về chuyện nhận sáu tên tử tù, trong đó có Huấn Cao, người đứng đầu bọn phản nghịch lại có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đã làm cho ngục quan nghĩ ngợi.
Hình ảnh ngục quan thao thức giữa đêm khuya khi đĩa đầu sở đã vợi lần mực dầu, lúc đầu thì tư lự, càng về khuya thì trên mặt ông chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ. Việc nhận tù sắp tới đã gây ra nhiều xáo động ghê gớm trong tâm tư vị ngục quan này. Ông là một con người từng trải, có tính cách dịu dàng khác hẳn với những kẻ sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc trong chốn đề lao.
Quản ngục không phải là một hung thần với bàn tay vấy máu. Ông cũng là một nhà Nho biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền có nhiều đức độ. Kín đáo và thận trọng trong cử chỉ, ngôn ngữ. Cách dò hỏi viên thư lại về tử tù: "Tôi nghe ngờ ngợ Huấn Cao...". Qua câu nói của viên thơ lại, ông nghĩ: có lẽ lão bát này cũng là một người khá đây (...). Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay vô tình. Ngục quan muốn biệt đãi Huấn Cao, nhưng vẫn sợ viên thơ lại cáo giác nên ông rất cảnh giác, thận trọng: để mai ta dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu.
Làm quản ngục có thể hét ra lửa, bộ hạ tay chân là bọn côn đồ "lũ quay quắt, tàn nhẫn, lừa lọc" nhưng ông lại khác lạ. Tính cách thì dịu dàng, tấm lòng thì nhân hậu, bao dung biết giá người, biết trọng người ngay. Lúc nhận tù, ngục quan thật đáng trọng, với cặp mắt hiện lành, với lòng kiêng nể được giữ kín đáo, lại còn có biệt nhỡn đối với Huấn Cao. Trước thái độ nhâng nháo, hách dịch, tàn nhẫn của bọn lính ngục, ông chỉ nhẹ nhàng mà nghiêm trang nói: "việc quan, ta đã có phép nước. Các chú chớ nhiều lời".
Văn chương lãng mạn tiền chiến thường sử dụng thủ pháp tương phản đối lập để làm nổi bật nghịch lí của hoàn cảnh, bi kịch của số phận. Nguyễn Tuân cũng vậy, qua hình ảnh nhận tù, đã tương phản giữa ngục quan với lũ lính ngục, đối lập cái thuần khiết với cái cặn bã, giữa người có tâm điền tốt với lũ quay quắt. Qua đó làm nổi bật nhân cách tốt đẹp của quản ngục, khác nào "âm thanh trong trẻo chen giữa một bản đàn đều hỗn loạn, xô bồ".
Mọi cái tốt đẹp và cái xấu xa đều được bộc lộ ở hành động. Nửa tháng tử tù Huấn Cao sống trong trại giam đã được thầy quản biệt đãi như một thượng khách. Trước mỗi bữa cơm tù, Huấn Cao được dâng rượu với thức nhắm; đó là món quà mà viên quản ngục biếu tử tù dùng cho ấm bụng. Sự biệt đãi ấy đã thể hiện thái độ tâm phục, lòng biết giá người và trọng người ngay của ngục quan đối với Huấn Cao.
Xưa nay, bậc quân tử lấy chữ lễ trọng giao tiếp, tự biết mình và biết người trong quan hệ. Tiếp cận với tử tù, quản ngục chân thành ngỏ ý: "... Ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất...". Ngục quan liền bị tử tù nặng lời khinh bạc xua đuổi: "Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây". Trước tình huống ấy, người nắm uy quyền trong tay rất bình tĩnh, không nổi trận lôi đình để trả thù, không giở trò tiểu nhân để thị oai. Ngục quan chỉ lễ phép lui ra sau khi nói: "Xin lĩnh ý". Huấn Cao và bạn tù của ông vẫn được tiếp tục biệt đãi, cơm rượu lại có phần hậu hơn trước.
Tại sao ngục quan lại xử sự như thế? Vì xét về vị thế, ông ta chỉ tự coi mình là kẻ tiểu lại giữ tù, còn Huấn Cao là một anh hùng tài tử đầu đội trời, chân đạp đất, chọc trời khuấy nước nổi danh trong thiên hạ về cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp. Vả lại, quản ngục còn hi vọng chờ cho Huấn Cao dịu bớt tính nết để xin chữ. Nếu được Huấn Cao cho chữ thì ông rất mãn nguyện. Nguyễn Tuân đã làm nổi bật bao phẩm chất của quản ngục: bình tĩnh, lễ độ, nhẫn nhục. Quản ngục đã lấy câu châm ngôn của cổ nhân để ứng xử: "Tiểu bất nhẫn bất thành đại sự". Ngục quan không lớn vì quyền uy mà đẹp ở nhân cách, ở tâm thế của một kẻ sĩ biết đọc vở nghĩa sách thánh hiền.
Ngục quan có một tâm hồn trong sáng thanh cao, biết trọng người tài và rất yêu cái đẹp. Mặc dù đã chọn nhầm nghề,nhưng thiết nghĩ trên cõi đời này đã có chúa ngục nào có cái sở nguyện cao quý như ông? Cái ao ước của ông thật thanh cao, sang trọng. Ông ao ước có một ngày nào đó được treo ở nhà riêng câu đối do chính tay Huấn Cao viết. Ông say mê, khao khát vì chữ Huấn Cao đẹp và vuông lắm. Với viên quản ngục, có vinh hạnh nào hơn nếu có được chữ ông Huấn Cao mà trèo, đó là một báu vật trên đời. Vì thế, khi chưa xin được chữ, quản ngục sống trong tâm trạng đầy bi kịch. Nỗi khổ tâm của ông là có Huấn Cao trong tay, dưới quyền mình mà không dám giáp mặt vì ông cảm thấy nhân cách tử tù xa cách ông quá nhiều, ông càng khổ tâm, lo lắng hơn khi biết chỉ vài ngày nữa Huấn Cao sẽ bị hành hình; nếu không xin được chữ thì ông ân hận suốt đời. Có thể nói đó là một bi kịch cao quý được Nguyễn Tuân cảm nhận ở phương diện văn hóa nghệ thuật.
Trước khi ra pháp trường, qua lời viên thơ lại, Huân Cao thấu hiểu nỗi lòng của viên quản ngục, đã nói: "Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Chính nhân cách cao quý của ngục quan đã làm Huấn Cao xúc động và quý trọng. Cảnh cho chữ diễn ra trong phòng giam tử tù là sự kì ngộ giữa khách anh hùng tài tử với kẻ biệt nhỡn liên tài. Trước cái đẹp của thư pháp, ngục quan đã trở thành tri âm, tri kỉ của tử tù. Ngục quan khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu trên ô chữ và lắng nghe lời khuyên chân thành của tử tù nên lui về quê nhà để giữ lấy thiên lương trong sạch, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ngục quan đã vái người tù một vái và nói qua dòng nước mắt: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh". Tất cả đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của ngục quan dưới ánh sáng của thư pháp và thiên lương.
Cảnh cho chữ thật cảm động. Nhân vật quản ngục là một trong những thành công của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật miêu tả và xây dựng nhân vật ở phương diện tài hoa nghệ sĩ rất độc đáo. Yêu cái đẹp với tấm lòng biệt nhỡn liên tài là tính cách, tâm hồn của ngục quan. Ngoại hình, ngôn ngữ, tâm tư tình cảm đến cử chỉ, hành động của ngục quan đã được Nguyễn Tuân miêu tả với tất cả sự chắt lọc của một ngòi bút tài hoa, đã làm thể hiện lên một con người có cốt cách tốt đẹp: "nhất sinh đê thủ bái mai hoa" — không cúi đầu trước cường quyền, chỉ cúi đầu trước hoa mai, trước cái đẹp trong đời.
Có thể nói, nhân vật quản ngục là con người tài hoa, con người thức tỉnh, con người vang bóng trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân.
5 Bài văn phân tích nhân vật viên quản ngục - Mẫu số 5
Nguyễn Tuân viết truyện "Chữ người tử tù" năm 1939 đăng trên tạp chí "Tao Đàn", năm 1940, in trong tác phẩm "Vang bóng một thời". Đoản thiên tiểu thuyết này có khoảng 2800 chữ, xứng đáng là một tờ hoa, trang hoa đích thực. Bên cạnh nhân vật Huấn Cao - tử tù cho chữ, là nhân vật quản ngục - người xin chữ, nhân vật ấy đã được Nguyễn Tuân miêu tả một cách đặc sắc, đầy ấn tượng, góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.
Nhưng vai trò cực kì quan trọng ấy của nhân vật quản ngục không dễ nhận ra, bởi vì nhân vật này dường như được Nguyễn Tuân “giấu” đi, ẩn xuống hàng thứ hai đằng sau nhân vật Huấn Cao. Cảm giác ban đầu khi đọc Chữ người tử tù, người đọc choáng váng, ngập trong ánh sáng tỏa ra từ hình tượng Huấn Cao uy nghi, rực rỡ. Từng dòng chữ, từng trang sách cứ lấp lánh Huấn Cao. Người đọc chẳng thiết nghĩ điều gì khác ngoài nghĩ về Huấn Cao. Nhưng đọc thêm một vài lần nữa, gấp trang sách lại, ngẫm nghĩ kĩ, thấy nhân vật quản ngục từ từ hiện lên, ngày một rõ nét và cuốn hút ta bằng một sức mạnh kì lạ. Ta càng thấm thía, cảm phục ngòi bút tài hoa, thâm thúy của Nguyễn Tuân. Khi được khám phá, phát hiện, nhân vật quản ngục sẽ đem lại cho ta nhiều khoái cảm thẩm mĩ mới mẻ, thú vị.
Tính cách của nhân vật Huấn Cao có phần một chiều, bất biến và đơn giản, ít những bất ngờ. Trái lại, nhân vật viên quản ngục có sự vận động về tính cách. Trước khi là quản ngục, ông ta cũng là người đèn sách, “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”. Là người lương thiện, tử tế, lại có chữ thánh hiền bồi đắp cho “thiên lương” nảy nở tốt đẹp, ông ta yêu đến say mê cái đẹp, “cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”.
Nhưng sự đời run rủi, và “ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”, quản ngục sa vào chỗ tối tăm, phẩm chất từ đó đã hoen ố đi ít nhiều. Giữa chốn tù ngục hầu như chỉ tồn tại hai thứ : cái ác, cái xấu, tàn nhẫn, lừa lọc và những nỗi đau khổ, tuyệt vọng. Tình cờ, viên quản ngục gặp được ông huấn Cao, gặp thần tượng của mình, gặp trong hoàn cảnh cực kì éo le : giữa chốn ngục thất, thần tượng của ông giờ đây lại là một tử tù, còn ông là cai ngục. Một tình huống đầy kịch tính được mở ra : ở bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch nhau ; ở bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Kẻ cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình lại là một nghệ sĩ tài hoa tầm cỡ “thiên hạ đệ nhất thư pháp”, kẻ đại diện cho luật pháp của triều đình lại là người có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài”’ ngưỡng mộ tài thư pháp ấy. Cuộc “kì ngộ” khiến cho lòng yêu cái đẹp trong quản ngục sống dậy mãnh liệt tới mức ông có thể bất chấp cả tính mạng và địa vị, mong sao có được mấy chữ của ông Huấn.
Người đọc hồi hộp theo dõi từ đầu chí cuối tác phẩm, không biết quản ngục có xinh nổi chữ của ông Huấn hay không ? Nhân vật quản ngục bị đặt vào một thử thách khá gay go quyết liệt. Mấy ngày ngắn ngủi ông Huấn Cao tạm bị giam trong ngục tử tù của y, quản ngục luôn sống trong tình trạng vô cùng căng thẳng, hồi hộp. Y thừa biết tính ông Huấn “vốn khoảng, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Làm sao đây, chỉ trong ít ngày để có thể lấp đầy khoảng cách giữa “cai ngục” và “tử tù”, để thành “tri kỉ” của ông Huấn ? “Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất”. Mặt khác, viên quản ngục luôn luôn phải dò xét, đề phòng cả bọn thuộc hạ, ông sợ “tên bát phẩm thơ lại này đem cáo giác với quan trên thì khó mà ở yên”, ông phải “dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu”.
Nhân vật viên quản ngục được xây dựng với bút pháp giàu chất hiện thực, gần với cuộc đời hơn, thật hơn. Và chính ở đây thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đọc truyện, người đọc như thấy hiện ra trước mắt dáng đi, điệu đứng, lời ăn tiếng nói của viên quản ngục này. Lúc ở công đường, dáng điệu của y rõ bệ vệ, quan cách, oai phong, trầm tĩnh, rõ là chu đáo, cần mẫn trong công việc. Tiếp được công văn để lĩnh nhận sáu tên tù án chém, ông ta đọc tên từng người và dừng lại ở cái tên Huấn Cao, rồi hỏi viên thơ lại để xác minh cho rõ. Nhân vật viên quản ngục không chỉ là kẻ biết thi hành phận sự, cần mẫn, tận tụy, mà còn là nhân vật có đời sống nội tâm sâu sắc. Có lúc khuôn mặt tỏ rõ sự nghĩ ngợi đăm chiêu, “ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương”, “người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”.
Trong nhận xét rất tinh tế của người dẫn truyện thì viên quản ngục có “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người”. Ông được coi “là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”, là “cái thuần khiết” bị đày ải “vào giữa một đống cặn bã”, là “người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”. Là quản ngục, nhưng ông ta cũng chính là tù nhân chung thân của cái nhà tù do ông cai quản. Cái danh, cái lợi, trách nhiệm, bổn phận của một ngục quan là những thứ gông cùm, xiềng xích vô hình siết chặt tâm hồn quản ngục suốt đời. “Lũ người quay quắt”, cái “đống cặn bã” bao quanh ông chẳng khác gì nơi buồng tối giam tử tù “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đã có lúc, ngục quan thấm thía thân phận lạc loài, cô đơn giữa chốn tù ngục của chính mình, y than thở một mình : “Có lẽ lão bá này, cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi”. Nếu như bi kịch của ông Huấn là bi kịch của người anh hùng thất thế, thất thế nhưng vẫn kiêu hùng, lẫm liệt ; thì bi kịch của ngục quan là bi kịch lầm đường. kẻ lầm đường lạc lối, may thay, vẫn còn có lương tri, lương năng, còn có “lòng biệt nhỡn liên tài”, còn có khát vọng giải thoát. Y tôn thờ cái đẹp, say mê cái đẹp để hi vọng tự giải thoát. Lúc ngục quan gặp huấn Cao thì “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu”, “bộ mặt tư lự” đã hằn nhiều nếp nhăn của cuộc đời “tù nhân” nhọc nhằn, nhưng khát vọng giải thoát biểu hiện ở khát vọng hướng tới cái đẹp vẫn mãnh liệt vô cùng. Âm ỉ bấy lâu, nay nó bùng cháy lên thành lửa ngọn. Ngục quan tự hạ mình xuống trước tử tù, nhẫn nhục chấp nhận sự “khinh bạc đến điều” của ông Huấn. Y không oán thù, y biết người ta, “y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Về bản chất, đó là sự ngưỡng mộ trước cái đẹp một cách hoàn toàn tự nguyện. Hành động biệt đãi ông Huấn cũng là xuất phát từ lòng say mê đó. Nhưng đến cuối tác phẩm thì không chỉ còn là chuyện say mê, tôn thờ mấy cái chữ đẹp nữa, mà cao hơn thế, đó là sự trân trọng, tôn thờ nhân cách cao quý của một bậc tài danh. Bị cái đẹp và nhân cách cao thượng của ông Huấn thuyết phục, viên quản ngục thực sự cảm động cũng giống như ông Huấn Cao đã cảm động trước “sở thích cao quý” và “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của ngục quan. Đó là điểm gặp gỡ để trở thành tri âm, tri kỉ của hai con người cách nhau quá xa về vị trí xã hội. Sự tri kỉ ấy được đánh dấu bằng dòng lệ và tiếng nói nghẹn ngào : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” và kèm theo một cái vái.
Vận mệnh nghệ thuật của tính cách ông Huấn Cao đã kết thúc cùng với sự kết thúc của thiên truyện ; trong khi đó, vận mệnh vẫn còn tiếp tục ở nhân vật viên quản ngục : người đọc có thể tin rằng sau những lời khuyên bảo ân cần của ông Huấn, viên quản ngục đã luống tuổi ấy sẽ từ bỏ nghề bất nhân về quê ở để giữ thiên lương cho trong sạch, lành vững.
Nhân vật viên quản ngục là một sáng tạo rất mực sinh động của Nguyễn Tuân, để vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật Huấn Cao, lại vừa thể hiện vẻ đẹp của một con người đang được dắt dẫn bởi cái đẹp và cái thiện. Đây là kiểu sáng tạo nhân vật rất mới trong văn học hiện đại Việt Nam, cái cách để cho nhân vật tự tạo tính cách.
- nguyễn tuân
- tác giả nguyễn tuân
- phong cách nguyễn tuân
- tác phẩm của nguyễn tuân
- truyện ngắn nguyễn tuân
- chữ người tử tù
- chữ người tử tù của nguyễn tuân
- nhân vật viên quản ngục
- nhân vật huấn cao
- phân tích nhân vật viên quản ngục
- bố cục chữ người tử tù
- cái ngông của nguyễn tuân
- phân tích nhân vật truyện ngắn
- văn mẫu lớp 7
- ngữ văn 7
- văn mẫu thpt
- ngữ văn 9
- ngữ văn 11
- ngữ văn thpt
- văn hay
- văn mẫu hay
- văn mẫu hay nhất
- bài văn mẫu chi tiết nhất
- đề văn hay
- dàn ý văn mẫu
- văn mẫu thcs