Thu hứng là bài thơ nổi tiếng của Đỗ Phủ, lấy cảm hứng từ những cảm xúc hiện thực với những tâm trạng và cái tôi lớn đau đáu nỗi lo cho vận mệnh chung của quê hương, đất nước. Bài thơ tràn ngập không khí và cảnh vật của mùa thu từ những màn sương thu, sắc thu trong rừng, sông tới khí thu trong gió và cả những thanh âm mùa thu. Có lẽ, cả mùa thu đã được tái hiện trong những ngôn từ thấm đượm vào lòng người. Để hiểu hơn về tác phẩm, hãy cùng Topshare khám phá một số bài phân tích hay được chọn lọc, tham khảo dưới đây bạn nhé!
6 Bài văn phân tích bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ - Mẫu số 6
Thơ Đường vốn nghiêm ngặt về niêm, luật, bố cục. Song những quy luật khắt khe ấy không hề trói buộc các bậc thánh thi như Đỗ Phủ. Dưới ngòi bút thi nhân, bài thơ vừa tuân thủ niêm luật chặt chẽ lại vừa bay bổng tự do, tạo nên vẻ đẹp đa dạng giống như vẻ đẹp của viên ngọc được soi rọi từ nhiều phía khác nhau. Bài Thu hứng không nằm ngoài đặc điểm trên
Xét theo nội dung miêu tả chung, bài Thu hứng lại có bố cục hai phần rõ rệt: bốn câu đầu tả cảnh, cảnh núi sông của vùng Quỳ Châu, thượng nguồn Trường Giang, nơi Đỗ Phủ lưu lạc tới vì chạy giặc An Lộc Sơn. Bốn câu dưới là tả tính, tình của kẻ lữ thứ tha hương. Cảnh ấy và tình này tạo nên sự thống nhất của bài thơ.
Bốn câu đầu bài thơ tả cảnh mùa thu. Trước tiên đây là cảnh mùa thu của một nơi xác định. Người ta biết đây là tả cảnh vùng Quỳ Châu thuộc thượng nguồn sông Trường Giang không chỉ ở địa danh Vu Sơn, Vu Giáp, được nhắc tới ở câu thứ hai mà chính là ở cảnh vật đặc trưng do vùng này được miêu tả trong bài thơ. Đó là cảnh rừng phong phủ sương móc trắng, là cảnh kẽm Vu vách núi dựng đứng khi trời mù mịt, là núi Vu cao vút hiểm trở.
Cả một bức tranh phong cảnh hùng vĩ mà âm u hiện ra qua ngòi bút Đỗ Phủ. Bức tranh này có lớp lang chặt chẽ, hiện dần theo bước chân người. Thoạt đầu là cảnh rừng phong trắng sương mù. Vượt qua cánh rừng này, Vu Sơn, Vu Giáp hiện ra qua một nét phác họa chung ở câu thơ thứ hai. Câu thứ ba, thứ tư đặc tả hai cảnh tiêu biểu nhất của núi Vu, kẽm Vu. Như vậy, bức tranh có toàn cảnh và cận cảnh, có bao quát và chi tiết, chứng tỏ một ngòi bút miêu tả điêu luyện, linh hoạt.
Cái thần của bức tranh chính là cảm xúc tác giả gửi trong từng nét vẽ lan tỏa vào lòng người đọc. Câu thơ thứ nhất bảy chữ, có hai chi tiết miêu tả, chi tiết nào cũng gợi nỗi buồn, từ cái lạnh lẽo của màu trắng xóa sương móc bao phủ khắp nơi, từ cái tang thương của rừng phong tiêu điều. Còn cái hiu hắt của hơi thu ở câu thứ hai càng làm tôn lên nỗi buồn bàng bạc thấm đượm trong câu trên.
Hai câu thơ, ba miêu tả chi tiết: nỗi buồn ngày càng rộng, càng sâu khiến cho cảnh vật hùng vĩ mà buồn bã, bí hiểm mà u hoài. Tới hai câu ba bốn, cảnh vật vừa có sự nhất quán với hai câu trên, vừa có sự phát triển. Trong khi đặc tả núi Vu, kẽm Vu, mỗi nơi tác giả tả một chi tiết nhưng cảnh vật sống động hẳn lên. Sóng thì ba lãng kiêm thiên dũng (vọt lên tận lưng trời), vừa vẽ lên chiều cao thăm thẳm của kẽm Vu, vừa tạo sự chuyển động dữ dội, mạnh mẽ.
Cảnh đám mây “sa sầm giáp mặt đất” không chỉ tả được cái độ cao của cửa ải trên núi Vu còn vẽ được sự giận dữ của mây, núi. Sông và trời, mây và núi không còn trong trạng thái tỉnh tại, u hoài như cảnh vật hai câu thơ trên mà đang chuyển động với một nội lực lớn lao, tạo nên vẻ đẹp hoành tráng cho bức tranh. Cả hai cảnh đó bổ sung cho nhau, tạo nên sự thống nhất đa dạng của cảm xúc toát ra từ bức tranh: trầm uất và bi tráng. Đó cũng là phong cách thơ Đỗ Phủ ở giai đoạn cuối đời.
Đứng trước cảnh sắc ấy, một người giàu tình cảm như Đỗ Phủ làm sao không nhớ quê được? Chính từ sự vận động nội tại đó, bốn câu thơ sau xuất hiện thật tự nhiên, hợp lẽ. Bốn câu thơ sau tả tình nhưng không xa rời cảnh, tình và cảnh quấn quýt với nhau. Hai câu thơ 5, 6 biểu hiện sinh động lòng nhớ quê với nhiều thủ pháp sinh động, Trong bảy chữ của câu 5, tình và cảnh như thống nhất: hoa cúc nở mà trông như cành hoa bằng nước mắt hư ảo, chập chờn, hiện tại và quá khứ như nối liền: “giọt lệ ngày trước” bỗng rơi cùng giọt lệ hôm nay.
Cái trục nối liền ấy tạo ra sự đồng nhất ấy là hai chữ lưỡng khai với nhiều nghĩa hàm ẩn, làm cho hình ảnh cúc và lệ trở nên đa nghĩa, Hình ảnh con thuyền trong câu 6 cũng được tạo nên cùng một cảnh như hình ảnh ở câu 5. Chữ cố cũng tạo nên nghĩa hàm ẩn: vừa là buộc con thuyền lẻ loi nơi nhà thơ đang sống ở lại nơi đây, vừa có nghĩa là thắt lại, gói lại nỗi lòng thương nhớ quê.
Những cảm xúc dồn dập được tả trong câu 5, 6 tưởng như sẽ được tả trực tiếp và nâng cao hơn ở hai câu kết. Nhưng đến đây bài thơ bỗng từ tả tình chuyển sang tả cảnh sinh hoạt đời thường. Cảnh mọi người rộn rịp may áo rét, giặt giũ áo cũ. Tưởng như hai cảnh này không ăn nhập với tình kia, tưởng như ý bài thơ bị lạc. Song không phải như vậy. Đây là một thủ pháp dồn nén tình cảm vào bên trong hình ảnh để cho lời thơ, ý thơ thêm sâu sắc, có sức rung động mạnh hơn ở người đọc.
Âm thanh đập áo vốn là một âm thanh có sức gợi cảm lớn trong thơ cổ Trung Quốc, gợi nhớ tới người thân đi xa, diễn tả một nỗi lòng nhớ thương, chờ đợi. Bạch Cư Dị đã tả nỗi lòng của người thiếu phụ, đêm tháng tám, tháng chín nghề tiếng chày đập lụa mà “sáng ra e bạc cả đầu”. Cho nên sự xuất hiện tiếng chày trong bóng chiều tà tạo nên một dư âm vang vọng cho cả bài thơ.
Nỗi nhớ quê tha thiết của Đỗ Phủ trong một mùa thu tập loạn được bộc lộ trong bài thơ này đâu phải chỉ là tâm trạng của một người. Nó là nỗi lòng của trăm họ đang lầm than vì cảnh chiến tranh, giặc giã liên miên sau loạn An Lộc Sơn đời Đường đang xa lìa quê hương, phiêu bạt nơi góc biển chân trời.
7 Bài văn phân tích bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ - Mẫu số 7
Nhắc đến Trung Quốc, không ai là không biết đến nhà thơ nổi tiếng Đỗ Phủ (712-770). Ông có hàng ngàn bài thơ phong phú, sâu sắc, chủ yếu viết về sự ảnh hưởng của thời đại lên đời sống người dân và chính bản thân mình. Ông có nhiều tác phẩm kiệt tác, trong số đó có bài thơ “cảm xúc mùa thu” bài thơ thứ nhất trong chùm thơ “thu hứng” năm 766, khi ông cùng gia đình đi chạy nạn ở Quỳ Châu. “Cảm xúc mùa thu” vừa là bức tranh thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng u sầu trĩu nặng của nhà thơ trong lúc đất nước đang rối ren, loạn lạc.
Bài thơ chia làm hai phần, bốn câu thơ đầu tác giả tả cảnh mùa thu ảm đạm, hắt hiu. Bốn câu thơ sau là tả tình, chính là cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước cảnh mùa thu, nỗi nhớ quê và nỗi niềm dân nước.
Hai câu thơ đầu được nhìn trong tầm bao quát rộng và xa:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Tác giả đã đặt điểm nhìn của mình từ rừng núi xuống dòng sông, bao quát theo chiều rộng. Nhắc đến phong người ta liên tưởng đến mùa thu vì mỗi đợt thu về rừng phong lại đỏ úa thể hiện sự li biệt, buồn thương. Vậy mà sương móc trắng xóa, dày đặc làm xơ xác cả rừng phong càng hiện vẻ tiêu điều, lạnh giá. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rõ nét trong mắt của nhà thơ. Câu thơ thứ hai càng làm nổi lên sự lạnh lẽo “Vu sơn, Vu giáp” chính là hẻm Vu hiểm trở, hùng vĩ vách dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt xuống lòng sông. Vào mùa thu không khí lạnh lẽo ảm đạm trong cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ càng hiu hắt, ảm đạm. Qua hai câu đầu về cảnh núi rừng mùa thu, sự tiêu điều, hiu hắt, bi thương lan tỏa khắp không gian khác hoàn toàn cảnh thu trong thơ ca truyền thống. Chính sự đau buồn ấy, Đỗ Phủ viết lên những lời thơ sâu sắc:
Giang gian ba làng kiêm thiên dũng,
Tại thượng phong vân tiếp địa âm.
Trong hai câu thơ này có hình ảnh đối lập vô cùng thú vị, sóng vọt lên tận lưng trời, rồi mây sa sầm xuống mặt đất, từ thấp lên cao rồi từ cao xuống thấp, sự vận động trái chiều và triệt để. Cảnh thu chuyển động dữ dội tạo nên bức tranh thu vừa hùng vĩ vừa bi tráng. Sự chuyển động chao đảo của cảnh vật, cũng là sự chao đảo xã hội lúc bấy giờ. Lời thơ là nỗi lòng thương nhớ tuyệt vọng trước thời thế lúc bấy giờ của nhà thơ. Bốn câu thơ tả cảnh cụ thể đặt cạnh nhau làm toát lên bức tranh thu rộng lớn vừa tiêu điều hiu hắt, vừa dữ dội, hùng vĩ. Chính cảnh vật ấy vừa gợi nỗi buồn tê tái, vừa ngầm thể hiện nỗi lo âu của nhà thơ về sự không yên bình nơi biên ải.
Cảnh thu ở phần thứ nhất đã khơi gợi cái tình trong lòng nhà thơ. Bốn câu thơ sau nói lên nỗi nhớ quê nhà và nỗi niềm dân nước.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cố chu nhất hệ cố viên tâm.
Cúc là loài hoa của mùa thu, biểu tượng niềm vui và vẻ đẹp vậy mà nhìn nó lại nhỏ lệ, gợi một nỗi buồn sâu lắng của nhà thơ, nhìn hoa cúc nhớ về những mùa thu ở quê hương mà lòng u sầu, nghẹn ngào. Chữ ” lệ” trong bài thơ rất khó phân biệt lệ của người hay của hoa, tuy nhiên có lẽ nên hiểu: mỗi lần nhìn hoa cúc nở, nhà thơ lại chạnh lòng nhớ về quê hương. Những giọt nước mắt cũng cứ thế tuôn rơi không ngăn lại được, hình ảnh hoa cúc nở rồi lại nở vừa gợi sự trở đi trở lại của nỗi nhớ quê, vừa gợi ra những dòng lệ chứa chan ân tình của nhà thơ. “Cố chu” con thuyền cô độc, khi nhìn thấy con thuyền nỗi lòng tác giả càng dâng trào, càng nhớ quê da diết. Hình ảnh con thuyền trôi nổi, lưu lạc, là phương tiện duy nhất nhà thơ gửi gắm ước nguyện về quê, “hệ cố viên tâm” rất đặc biệt như buộc chặt nỗi lòng con người với quê nhà như con thuyền trôi về quê hương. Bằng nghệ thuật ẩn dụ tinh xảo hai câu thơ biểu hiện nỗi nhớ quê một cách sinh động và tha thiết, sâu lắng của nhà thơ.
Hai câu cuối âm thanh sinh động được lột tả:
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ chân.
Cảnh nhộn nhịp may áo rét, cảnh mọi người giặt áo cũ âm thanh tiếng chày đập vải nhộn nhịp trên sông để chuẩn bị cho mùa đông tới, vẽ lên cuộc sống sinh hoạt vui tươi và nhộn nhịp, vang động, lại càng xoáy sâu vào lòng người nỗi nhớ quê nhà tê tái, khuôn nguôi, nhớ đến cuộc sống bình yên nơi quê nhà càng mong nhớ quê da diết hơn. Trời tối rồi, nhà thơ không nhìn thấy gì nữa mà chỉ nghe tiếng chày đập vải và chạnh lòng nhớ những người lính nơi quan ải.
Bằng việc sử dụng không gian dài, rộng, vừa cao, sâu, thấp lên cao và từ cao xuống thấp và những phép ẩn dụ đặc sắc, đối xứng chặt chẽ. Cách hay trong bút pháp tả cảnh ngụ tình, ngôn ngữ cảm xúc, dùng quá khứ nói hiện tại. Bài thơ đã miêu tả bức tranh thiên nhiên hùng vĩ mà hiu hắt, sôi động mà nhạt nhòa trong sương khói mùa thu, đồng thời hiện diện một tâm trạng buồn, xót xa với nỗi nhớ quê hương của nhà thơ.
Bài thơ ” Cảm xúc mùa thu” là bài thơ rất hay và ý nghĩa. Bài thơ là nỗi lòng nhớ quê của tác giả khi phải xa quê trong lúc loạn lạc. Bài thơ như nhắc nhở chúng ta yêu quê hương mình và trân trọng nơi chúng ta đã sinh ra.
8 Bài văn phân tích bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ - Mẫu số 8
Cuộc đời Đỗ Phủ trải qua nhiều giai đoạn khác nhau: những năm ngao du vô tư thoải mái thời trai trẻ, những năm gia đình sa sút phải ăn chực nằm chờ sau những lần thi hỏng ở thủ đô Trường An, những năm bị ném vào dòng nước xoáy của thời đại trong chiến loạn An – Sử (755 – 763), những năm sống trôi dạt cuối đời ở các tỉnh thuộc vùng tây nam của đất nước.
Khi chiến loạn vừa kết thúc, Đỗ Phủ đã có ý định xuôi sông Trường Giang về đổng để tìm đường về quê ở phía bắc.
Năm 765, Đỗ Phủ rời Thành Đô – thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, đưa gia đình phiêu bạt qua một số nơi rồi về tạm trú ngụ ở Quỳ Châu. Chùm thơ Cảm xúc mùa thu nổi tiếng gồm tám bài được sáng tác tại đây năm 766, chỉ bốn năm trước khi nhà thơ qua đời.
Chùm thơ là một chỉnh thể trong đó Cảm xúc mùa thu số 1, bài được chọn giảng, là “cương lĩnh sáng tác” của cả chùm thơ. Nhà phê bình nổi tiếng Kim Thánh Thán đã nhận xét về tính chất chặt chẽ của bố cục chùm thơ và vị trí cao của bài Cảm xúc mùa thu số 1 như sau: “Bảo là liền thì mỗi bài đứt, bảo là đứt thì mỗi bài liền. Đổi vị trí một bài không được, thêm bớt một bài không được…
Tất cả thơ này lấy bài thứ nhất làm đề cương, bởi vì bài ấy nói đến cái cảnh tiên sinh đường sống lúc bấy giờ. Đó chính là mùa thu tại Tây các (gác phía tây) phủ Quỳ, nhân thu mà khởi hứng. Câu đầu bảy thiên sâu nhất nhất đều do đó mà ra như áo chìm có cổ, như bông hoa có cuống, như hiệu lệnh của mười vạn binh phát xuất tự nơi trung quân”.
Quả chỉ có thể thấy được một cách thật đầy đủ ý nghĩa và vẻ đẹp của bài Cảm xúc mùa thu số 1 khi đặt nó trong cả chùm thơ; tuy nhiên, vì đó là bài có tính chất “đề cương”, “cương lĩnh”, mặt khác, cũng bảy bài còn lại, nếu “bảo là đút thi mỗi bài liền”, tức mỗi bài đều có tính tương đối độc lập nên ta vẫn có thể và thực tế đã có nhiều người phân tích nó như một chỉnh thể.
Cũng như với nhiều bài thơ Đường nổi tiếng khác, chỉ có thể lí giải được đúng bài Cảm xúc mùa thu số 1 nếu chia tác phẩm thành hai phần: nửa trên, về cơ bản tả cảnh tho ở Quỳ Châu và nửa dưới, về cơ bản ĩả tình — cảm xúc của nhà thơ trước cảnh thu ở Quỳ Châu.
Ở cặp câu thứ nhất (tức “liên thứ nhất”, “liên đầu”, ta quen gọi là hai câu đề), bản dịch thơ đã tái hiện được cảnh thu buồn bã song trong nguyên bản, không khí còn thảm đạm hơn nhiều. Ớ câu thứ nhất, sương móc không phải “sa lác đác” mà hẳn là dày đặc mới có thể làm tiêu điều, thương tổn (điêu thương) được cả rừng phong ; rừng phong không phải là danh từ làm trạng ngữ chỉ nơi chốn mà là đối tượng bị sương móc vùi dập một cách tàn nhẫn.
Ở câu thứ hai của bản dịch, chữ “loà” cùng với từ “hiu hắt” chỉ phần nào lột được thần thái của hai chữ tiêu sâm (tối tăm, ảm đạm) trong nguyên bản; chữ “ngàn non” thay thế cho hai danh từ riêng khiến cho bản dịch dễ hiểu song lại làm mờ nhạt bản sắc của phong cảnh vùng Quỳ Châu. Hãy đọc đoạn sau đây trong thiên Sông ngòi ở cuốn Thuỷ kinh chú của Lịch Đạo Nguyên thời Lục triều: “Suốt cả vùng Tam Giác (Vu Giáp, Cù Đường Giáp, Tây Lăng Giáp) dài bảy trăm dặm, núi liên tiếp đôi bờ, tuyệt không có một chỗ trống.
Vách đá điệp trùng che khuất cả bầu trời, chẳng thấy cả ánh nắng mặt trời lẫn ánh sáng trắng… Mỗi khi trời vừa tạnh, trong sáng sớm sương mù, nơi rừng lạnh khe vắng thường có vườn ở trên cao hú dài, tiếng thê thảm dị thường, hàng trống truyền âm thanh bi ai mãi chẳng dứt. Cho nên những người đánh cá có câu ca rằng: “Ba đồng Tam Giáp Vu Giáp trường – Viên minh tam thanh lệ triêm thường” (Ba kẽm ở phía đông đất Ba Thục thì kẽm Vu là dài nhất, Vượn kêu ba tiếng đã làm cho lệ rơi đầm áo xiêm)”.
Bình thường, cả lúc trời tạnh, cảnh Vu Giáp đã tối tăm ảm đạm ; chiều thu, hẳn càng tối tăm ảm đạm ; qua lăng kính nhà thơ, lại tối tăm ảm đạm bội phần ! Nếu ở câu thứ nhất còn có chút ánh sáng, còn có sự tương phản màu sắc trắng – đỏ giữa sương móc chiều thu và cánh rừng phong bạt ngàn thì đến đây, tất cả dường như chìm trong âm u… Hai câu thơ tiếp theo (tức “liên thứ hai”, “liên cằm”, ta quen gọi là hai câu thực), mới đọc qua, tưởng như mở ra một viễn cảnh thoáng đãng hơn:
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Quả ở đây, ngoài không khí âm u còn có cảnh sắc hùng vĩ. Hùng vĩ vốn là một trong những nét tiêu biểu của cảnh sông núi Quỳ Chầu, mặt khác, cũng phản ánh một nét trong tâm hồn cao quý của Đỗ Phủ: dẫu đau buồn tột độ, nhà thơ vẫn còn ủ ấp tráng chí. Tuy vẫn được vẽ bởi ngòi bút chấm phá quen thuộc của thơ Đường song thiên nhiên ở đây tuyệt không phải là những đường tiết tủn mủn, yếu ớt mà là rộng mở, rắn rỏi, tạo nên một bức tranh toàn cảnh hoành tráng.
Tuy nhiên, đọc kĩ, sẽ thấy ngay ở đây, nét bi thảm vẫn lấn át mặt hoành tráng. Hãy tưởng tượng xem, phần không gian dành lại cho con người đã bị dồn ép tới mức nào, ngột ngạt và bất an đến dường nào giữa những làn sóng vọt tận lưng trời và những làn mây sa sầm giáp mặt đất ! Các chữ “rợn” và “đùn” ở bản dịch đã truyền đạt thành công không khí hãi hùng của khung cảnh song vẫn khó thể hiện được trọn vẹn ý nghĩa của nguyên tác, làm cho người đọc cảm nhận như sóng và mây vận động cùng chiều trong khi chúng vận động ngược chiều (“đùn” chỉ là bị đẩy từ trong ra hay từ dưới tên).
Cũng như ở nửa trên bài Lên cao, trọng điểm ở bốn câu đầu bài cảm xúc mùa thu số 1 là tả cảnh song trong cảnh đã thoáng lộ tình, tình buồn (qua hình ảnh sương móc trắng xóa, rừng phòng úa tàn, khí thu mù mịt) nhưng xao động, dữ dội (qua hình ảnh đất trời chao đảo, sóng tung toé, mây vần vụ).
Hai câu thứ năm và thứ sáu (tức “liên thứ ba”, “liên cổ”, ta thường quen gọi là hai câu luận) được xem là tiêu biểu cho tinh thần của Cảm xúc mùa thu số 1 và ba chữ “cố viên tâm” (ở câu 6) lại được coi là “mắt rồng”, tức nơi tập trung linh hồn của cả chùm thơ Cảm xúc mùa thu.
“Cố viên tâm” (nỗi lòng quê cũ) trước hết là chỉ “nỗi nhớ Lạc Dương (Hà Nam)”, quê quán của Đỗ Phủ, cũng ỉà một trong những thành phố phồn hoa nhất ở thời Đường. Đặt trong văn cảnh, nó còn chỉ “nỗi nhớ Trường An, kinh đô nhà Đường” và rộng hơn nữa, còn là một biểu hiện của tình yêu quê hương đất nước.
Trong bảy bài Cảm xúc mùa thu tiếp theo, nhà thơ chỉ nói đến nỗi nhớ Trường An, Trường An những ngày còn thái bình thịnh trị, lúc Đỗ Phủ còn là quan chức của triều đình cũng như Trường An đương thời, nơi đang “thay đổi luôn luôn như một cuộc cờ”, nơi đang diễn ra những cuộc tranh chấp giành giật quyền bính giữa các thế lực phong kiến quân phiệt có sự can thiệp của các thế lực ngoại tộc.
Hai câu thơ này cũng được xem là danh cú (câu thơ, câu văn nổi tiếng) xét về mặt tiêu biểu cho thi pháp thơ Đường. Ở đây, tác giả đã đồng nhất nhiều sự vật và hiện tượng: tình và cảnh (nhìn hoa cúc nở mà trông như xoè ra những cánh hoa bằng nước mắt), hiện tại và quá khứ (giọt lệ hiện tại cũng là giọt lệ của quá khứ gần – hai năm qua, kể từ ngày rời Thành Đô – và quá khứ xa), sự vật và con người (dây buộc thuyền cũng là dây thắt lòng người lại).
Đáng nói hơn là những sự đồng nhất có vẻ phi lí ấy lại có một cội nguồn hiện thực sâu xa. Trong chiến loạn An – Sử, không chỉ con người bị huỷ diệt (trong tám năm, dân số Trung Quốc chỉ còn một phần ba) mà thiên nhiên cũng bị tàn phá. Hình ảnh “hoa nhỏ lệ” không phải chỉ xuất hiện một lần trong thơ Đỗ Phủ. Chữ tha nhật (trong nguyên tác) được một số người hiểu là chỉ ngày sau, những ngày sắp tới song hầu hết đều cho là chỉ ngày trước, những ngày đã qua.
Trước cảnh thu buồn, hồi ức về những nỗi đau trong quá khứ đã tập kết về thời điểm hiện tại và đọng lại trên những nhành hoa. Bởi vậy, câu thơ dịch “Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ” của Nguyễn Công Trứ là rất đạt. Lệ của nhà thơ rơi trong hai năm qua chỉ là sự lặp lại, chồng lên những dòng lệ cũ. Trước chiến loạn An – Sử, nhà thơ nghèo khổ đã từng rơi lệ khi đứa con trai “yêu nhất đời” bị chết đói giữa mùa gặt hái!
Chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một ẩn dụ đích đáng không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất mà nhà thơ gửi gắm vào đó ước vọng về quê, là địa chỉ trú ngụ đích thực, là chiếc “nhà nổi” của Đỗ Phủ trên con đường chuyển dịch về phía đông để kiếm cơ hội hồi hương.
Ở liên thứ tư (tức “liên đuôi”, ta quen gọi là hai câu kết), tác giả đã kết thúc bài thơ một cách bất ngờ. Nhà thơ không bộc lộ trực tiếp cảm xúc chủ quan như thường lệ mà lại quay về tả những cảnh thực ngoài đời: không khí tấp nập của mọi người nô nức may áo rét (câu 7) và giặt giũ áo cũ (câu 8) để chuẩn bị cho mùa đông đang tới gần. Trong thơ cổ Trung Hoa, tiếng chày đập vải, nhất là về chiều và đêm, là một loại âm thanh đặc biệt có sức gợi cảm rất lớn, chúng không làm cho những người khách xa xứ vui lây mà chỉ càng thêm não lòng.
Cũng giống như ở cuối bài Lên cao (Đẳng cao), cuối bài Cảm xúc mùa thu số 1, tác giả đã dùng phương thức tả pha kể để biểu cảm nên đằng sau những câu thơ tưởng như lạnh lùng bình thản là cả một nỗi lòng đau thương quằn quại. Biểu hiện cảm xúc trước cảnh thu là một đề tài muôn thuở của thơ ca. Cảm xúc mùa thu số 1 là một tác phẩm độc đáo, tiêu biểu cho thành tựu nghệ thuật của Đỗ Phủ ở giai đoạn cuối đời.
Qua đây, ta không chỉ thấy hình ảnh cụ thể của một chiều thu ở Quỳ Châu mà còn thấy cả tình cảnh, nỗi lòng của một con người cụ thể sống trong hoàn cảnh ấy. Chiến tranh phong kiến liên miên và sự tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến ở giai đoạn cuối Thịnh Đường đã đẩy con người ấy, vốn là một ông quan của triều đình, về tận góc trời xa thẳm và con người ấy, ngày đêm chỉ còn ôm ấp một hi vọng mong manh là được trở về quê cũ.
Hẳn ước mơ của Đỗ Phủ cũng là ước mơ của bao người dân nghèo khổ lưu vong ở thời Đường. Bởi vậy, bài thơ tuy không miêu tả trực tiếp tình hình xã hội, vẫn chan chứa tình đời và có giá trị hiện thực sâu sắc.
9 Bài văn phân tích bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ - Mẫu số 9
Mùa thu là đề tài được rất nhiều thi sĩ chọn để viết lên tác phẩm của mình. Tiêu biểu có thi sĩ người Trung Quốc Đỗ Phủ cũng làm về đề tài này với bài “Thu hứng”. Đỗ Phủ (712-770) tên thật là Tử Mĩ, hiệu là Thiếu Lăng, người tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học và làm thơ lâu đời. Đỗ Phủ đã từng là một người thi năm lần bảy lượt đều trượt. Cuộc đời ông dường như sống trong nghèo khổ và bệnh tật. Ấy vậy mà ngọn lửa văn chương trong ông luôn bùng cháy, không bao giờ tắt. Ông sáng tác thơ và để lại muôn ngàn bài thơ hay vào kho tàng thơ ca Trung Quốc, với những bài mang nội dung phong phú, sâu sắc,.. nói về lịch sử và lòng yêu nước của ông đối với quê hương đất nước, không chỉ có vậy các bài thơ của ông còn thể hiện chan chứa tình thương người. Ông đã được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.
Ngoài những bài thơ được coi là “thi sử”, Đỗ Phủ còn có những bài thơ trữ tình thể hiện cảm xúc chân thành của mình đối với thiên nhiên. Như đã nói ở trên đó là tác phẩm “Thu hứng”, là một bài thơ rất hay thể hiện cảm xúc mùa thu trong ông. Đây cũng là tác phẩm đầu tiên trong chùm thơ tám bài được tác giả viết vào năm 766, khi đang sống phiêu bạt ở Quý Châu. Tứ Xuyên là vùng có cảnh đẹp, núi non hùng vĩ, hiểm trở, cách xa quê hương của nhà thơ mấy ngàn dặm. Tác phẩm “Thu hứng” được sáng tác trong hoàn cảnh: sau mười một năm kể từ khi bùng nổ loạn An Lộc Sơn, tuy loạn đã dẹp xong nhưng đất nước kiệt quệ vì chiến tranh và nhà thơ vẫn phải lưu lạc ở nơi xứ người chưa được trở về quê hương vì lẽ đó đã khơi gợi cảm xúc bi thương cho nhà thơ để nhà thơ viết lên bài “Thu hứng” cảm xúc chủ đạo của bài này vì thế mà cũng bi sầu. Thu hứng vừa là bức tranh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là bức thư nói lên tâm trạng của nhà thơ. Nhà thơ lo cho hiện trạng của đất nước đang lâm vào cảnh hỗn loạn, thương nhớ quê hương xa xôi và tự thương cho thân phận bất hạnh của mình ở xứ người.
Phiên âm:
“Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba làng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Dịch thơ:
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
Ở bài thơ này chúng ta có thể thấy ngay tác giả viết chia rõ ràng ra hai ý: ý thứ nhất thể hiện ở bốn câu thơ đầu nói về bức tranh về thiên nhiên mùa thu ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang. Ý thứ hai là bốn câu sau thể hiện cảm hứng của thi nhân trước cảnh thu về trên đất khách.
Ở 2 câu thơ đầu tiên tác giả đã thể hiện được cái thần của một chiều thu ở Quý Châu chỉ bằng vài nét chấm phá:
“Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu Sơn, Vu giáp khí tiêu sâm”
(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khi thu lòa.)
Như ở câu thơ đã thể hiện rõ ràng tác giả đang đứng ở vị trí tương đối cao, ông ngắm nhìn được toàn cảnh, vì thế mà tầm nhìn của ông xa rộng. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ thể hiện ngay trong câu thơ đầu tiên miêu tả cảnh rừng phong: “Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm” trong thơ Trung Quốc thì hình ảnh rừng phong gắn liền với hình ảnh mùa thu, vì mỗi độ thu về thì rừng phong lại chuyển sang màu đỏ úa, làm cho ta thấy hiện ra trước mắt là sự ly biệt. Sương móc sa dày đặc làm mờ ảo, xơ xác, tiêu điều cả rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ Đỗ Phủ. Tiếp đến câu thơ thứ hai: “Vu Sơn, Vu giáp khí tiêu sâm”, Vu Sơn, Vu giáp là giúp người đọc liên tưởng đến đất Ba Thục xưa kia. Toàn cảnh bao chùm sự hiu hắt. Trong phần dịch vì chưa sát ở từ “lòa” và “hiu hắt” làm chỉ lột tả được một phần ý nghĩa của cụm từ “khí tiêu sâm” (tối tăm, ảm đạm). Vu Sơn là vùng núi nổi tiếng hiểm trở, hùng vĩ, được nhắc đến nhiều trong chuyện cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Vách núi dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt được tới xuống dòng sông. Mà vào mùa thu thì ánh nắng mặt trời yếu ớt làm cho nơi đây càng ảm đạm, lạnh lẽo, qua ngòi bút miêu tả của tác giả thì lại càng thêm tối tăm, ảm đạm. Vẫn tiếp tục tâm trạng như vậy quan sát cảnh thiên nhiên nơi đây, Đỗ Phủ tiếp tục viết lên những câu thơ tả thực đầy ám ảnh như có ma lực cuốn hút lòng người:
“Giang gian ba lăng khiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm”
(Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa)
Tiếp theo tác giả tả cảnh thu dưới thấp: cảnh giữa lòng sông, dữ dội vọt đến tận lưng trời. Nhìn vào bản dịch ta thấy được cảnh hùng vĩ, choáng ngợp của thiên nhiên nơi đây và thể hiện cảm giác choáng ngợp của con người nhỏ bé trước cảnh sắc nơi đây. Hình ảnh: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa” tả cảnh sắc thực ở nơi đây mây trắng sà xuống thấp tưởng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cảnh sắc phía xa xa.
Nếu như cảnh sắc ở hai câu thơ trên là ảm đạm tăm tối thì ở hai câu sau lại hoành tráng, dữ dội. Hai cặp câu bổ sung cho nhau tạo nên một cảnh sắc tuyệt đẹp nơi đây nơi Vu Sơn vừa ẩm thấp vừa hùng vĩ.
Ở bốn câu thơ tiếp, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh sắc mùa thu nơi đây, không phải là quê hương của nhà thơ. Câu năm và sáu tác giả sử dụng nghệ thuật đối hết sức chuẩn vừa là cảnh mùa thu mà cũng là tình thu, giống như là hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, thì hình ảnh hoa cúc cũng đi liền với cảnh mùa thu:
“Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô thu nhất hệ cố viên tâm”.
(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)
Câu thơ còn thể hiện rằng mỗi khi nhìn thấy hoa cúc nhà thơ lại rơi lệ, đọc câu thơ giúp người đọc thấu cảm được nỗi sầu bi của nhà thơ, sự cô đơn của nhà thơ qua nhiều năm phiêu bạt, xa quê hương chôn rau cắt rốn của mình. Hoa cúc là yếu tố làm gợi nhớ, thì hình ảnh con thuyền làm cho tác giả lại càng nhớ nhà. Con thuyền cũng là phương tiện duy nhất để tác giả trở về quê hương trong tâm tưởng.
Hai câu kết đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông trong bóng hoàng hôn. Âm thanh duy nhất này làm cho bức tranh sinh hoạt trở nên sống động hơn, nhưng không đủ để xua đi cái buồn đang trong tâm trạng của nhà thơ:
“Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.”
(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)
Hình ảnh thu qua đông sắp sang nhắc nhở mọi người chuẩn bị đồ ấm. Lúc này cũng là lúc mà loạn An Lộc Sơn đã dẹp xong nhưng đất nước thì vẫn chưa yên ổn, nhà thơ vẫn chưa trở về quê hương được.
Bài thơ “Thu hứng” đã giúp chúng ta thấy được Đỗ Phủ là một thi sĩ xuất sắc không chỉ phạm vi nổi tiếng ở Trung Quốc mà còn vang rộng ra thế giới. Bài thơ giúp ta thấy được cảnh sắc mùa thu và còn thấy được nỗi lòng tác giả đau đáu nhớ quê hương.
10 Bài văn phân tích bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ - Mẫu số 10
Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực vĩ đại của Trung Quốc với những vần thơ phản ánh hiện thực và bày tỏ cảm xúc, thái độ, tâm trạng đau khổ trước hiện thực đời sống của nhân dân trong chiến tranh, trong nạn đói chan chứa tình yêu nước và tinh thần nhân đạo. Trong những bài thơ đặc sắc có bài Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ tám bài được Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi đang sống phiêu dạt ở Quý Châu. Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) vừa là bức tranh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của nhà thơ trong cảnh loạn li; lo cho tình hình đất nước đang lâm vào cảnh rối ren, loạn lạc; thương nhớ quê hương xa xôi và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách.
Trong bài thơ, bốn câu đầu là "câu đề" với mục đích miêu tả bức tranh thiên nhiên bao la nhưng mang nỗi buồn hiu hắt ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,
Người đọc có thể nhận thấy Đỗ Phủ đứng ở vị trí tương đối cao để ngắm nhìn toàn cảnh, vì thế mà tầm nhìn của ông khá xa, khá rộng. Mọi thứ được miêu tả không những theo chiều sâu và còn theo tầm mắt của tác giả, nhìn về phía xa xăm. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ được thể hiện ngay từ câu thơ đầu khi tả cảnh rừng phong với sương còn phủ trên lá cây; nó tạo ra một cảnh tượng buồn, đặc biệt hình ảnh rừng phong lại càng nhấn mạnh thêm sự li biệt khi lá phong chuyển sang đỏ, khi mùa thu đến. Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu bởi mỗi độ thu về, cả rừng phong chuyển sang màu đỏ úa, tượng trưng cho sự li biệt. Sương móc cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua chính cái nhìn đầy tâm trạng đau buồn của nhà thơ.
Câu thơ thứ hai có nhắc đến hình ảnh Vu sơn, Vu giáp, người đọc sẽ nghĩ ngay tới hình ảnh đặc trưng của đất Ba Thục xưa kia – nơi toàn cảnh bị bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Trong bài thơ, Vu sơn, Vu giáp tức là núi Vu, hẻm Vu nổi tiếng bởi sự hiểm trở và hùng vĩ, được nhắc đến nhiều trong thần thoại, cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Quanh năm, mây mù bao phủ những ngọn núi cao vút; vách núi thì dựng đứng vậy nên ánh mặt trời khó có thể lọt được xuống tới lòng sông. Chính vì vậy mà vào mùa thu, khung cảnh nơi đây luôn ảm đạm, lạnh lẽo và qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng u sầu của Đỗ Phủ nó lại hiện lên càng thêm tối tăm, ảm đạm.
Hai câu thơ mở đầu, câu thứ nhất tả cảnh thu ở rừng phong, câu thứ hai tả cảnh thu ở núi non. Tuy cảnh vật khác nhau nhưng nhà thơ nhìn chúng với con mắt và tâm trạng giống nhau – tâm trạng trĩu nặng một nỗi buồn thương. Hai câu thơ tuy là đều là hình ảnh rừng núi nhưng lại chung một điểm, đó chính là nỗi buồn đang dần ngấm vào tác giả, nỗi buồn ấy chế ngự cả tâm trạng và cảm xúc của tác giả khi ông đặt bút ngâm thơ.
Cũng với tâm trạng như vậy, Đỗ Phủ đã viết nên những câu thơ tiếp theo mang nét tả thực đầy ám ảnh, như có ma lực cuốn hút hồn người:
Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Nếu như ở hai câu mở đầu là hình ảnh của rừng phong, là sự quan sát từ trên cao xuống thì hai câu tiếp theo lại miêu tả cảnh sắc vừa hoành tráng lại dữ dội. Hai câu đề là cảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi) thì đến hai câu thực là cảnh thu dưới thấp. Hai cặp câu như bổ sung cho nhau lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ. Chúng vẫn là những chi tiết được cảm nhận qua đôi mắt thi nhân và được miêu tả bằng ngọn bút kì tài mà thành những vần thơ trác tuyệt. Hình ảnh mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa. Bốn câu thơ tuy tả cùng một cảnh nhưng ở mỗi câu là một nét chấm phá riêng, là sự nhìn nhận toàn cảnh chứ không tập trung vào một điểm cụ thể nào. Cảnh sắc trời mây non nước, rừng núi hiện ra vừa cụ thể lại vừa đặc trưng cho mùa thu. Nhưng chính hình ảnh này, lại khiến tác giả nhớ quê hương tới nao lòng.
Ở bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách. Câu năm và câu sáu có nghệ thuật đối rất chỉnh vừa là cảnh thu mà cũng là tình thu:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.
Giống như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hình ảnh hoa cúc cũng đi đôi với mùa thu. Đỗ Phủ nhắc đến hoa cúc, tưởng như không có gì mới nhưng điều quan trọng là mỗi lần thấy cúc nở hoa, nhà thơ lại rơi lệ. Hai lần nhìn cúc nở hoa, có nghĩa là đã hai năm Đỗ Phủ sống ở Quý Châu. Hoa cúc xui lòng thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa thu trước chốn quê cũ, vì vậy mà càng thêm xao xuyến, xúc động đến nghẹn ngào. Hình ảnh chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một hình ảnh ẩn dụ đầy ý nghĩa, không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất để chở ước vọng của nhà thơ về với quê hương trong tâm tưởng.
Đến hai câu cuối bỗng đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong bóng hoàng hôn. Âm thanh duy nhất này đã đem đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui nhưng thoáng vui ấy vẫn không đủ để xua đi những áng mây buồn đang vây phủ trong tâm hồn thi sĩ. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang, mong ngóng, chờ đợi ngày được trở về quê của tác giả.
Bốn câu cuối tập trung vào miêu tả cảm xúc cũng là những vần thơ chứa đựng nhiều tình cảm, đó là lòng mong ngóng quê nhà, nỗi khát khao được trở về quê hương, tình yêu và sự buồn bã khi phải sống tha phương. Bốn câu thơ diễn tả nỗi buồn của người xa quê, ngậm ngùi, mong ngóng ngày trở về quê hương.
Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ là có kết cấu hết sức chặt chẽ, câu nào cũng bám chặt chủ đề, tức là các câu đều thể hiện được hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu”, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng chày đập vải). Tác giả đã thành công thâu tóm được tất cả thần thái của mùa thu trong bài thơ.
Cảm xúc mùa thu là bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách thơ trữ tình của Đỗ Phủ. Qua bài thơ ta thấy được một tâm hồn thi sĩ vừa nhạy cảm lại rung động mãnh liệt với cảnh sắc. Trái tim Đỗ Phủ đã dành trọn cho quê hương, cũng qua bài thơ, cái tư tưởng "yêu nước thương đời" lại càng thể hiện rõ. Với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa với nỗi buồn và niềm thương nhớ không nguôi, nhất là khi ông đang phải sống trong cảnh nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn nơi xứ lạ. Những vần thơ của ông có sức lay động mãnh liệt, đặc biệt những vần thơ như bật lên khỏi trang giấy, mở ra một khung cảnh rất rõ… Ông xứng đáng được người đời tôn vinh là bậc “Thi thánh” của thời Thịnh Đường mà tên tuổi lưu danh muôn thuở.
- thu hứng
- bài thơ thu hứng
- thu hứng đỗ phủ
- cảm xúc mùa thu
- soạn văn thu hứng
- thu hứng của đỗ phủ
- soạn bài thu hứng
- bố cục bài thơ thu hứng
- phân tích bài thơ thu hứng
- cảm nhận bài thơ thu hứng
- đánh giá bài thơ thu hứng
- chùm thơ thu
- thơ về mùa thu
- đỗ phủ
- phân tích nhân vật truyện ngắn
- văn mẫu lớp 7
- ngữ văn 7
- văn mẫu thpt
- ngữ văn 9
- ngữ văn 11
- ngữ văn thpt
- văn hay
- văn mẫu hay
- văn mẫu hay nhất
- bài văn mẫu chi tiết nhất
- đề văn hay
- dàn ý văn mẫu
- văn mẫu thcs