Tác phẩm Vợ Chồng A Phủ có thể được coi là tác phẩm xuất sắc của nhà văn Tô Hoài. Trong đó nổi bật có lẽ là nhân vật Mị - Một nhân vật đáng thương phải chịu những áp bức cũng chính vì chế độ địa chủ phong kiến nhưng có ý chí vươn lên thoát khỏi sự thống trị ấy. Và sau đây là những bài văn phân tích Vợ Chồng A Phủ sẽ cho ta thấy được giá trị hiện thực và sâu sắc về nhân vật và thực tại của thời điểm lúc ấy, cùng mình tham khảo các bài ấy nhé!
6 Bài văn phân tích Vợ Chồng A Phủ của Tô Hoài số 6
Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Sáng tạo của ông thiên về diễn tả những sự thật của đời thường. Theo ông:”viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không thể tầm thường cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc. Ông cũng có một vốn hiểu biết phong phú sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Chính vì như vậy, tác phẩm của ông luôn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” trích trong tập “Truyện Tây Bắc” viết năm 1953 của nhà văn là kết quả của chuyến thâm nhập thực tế của ông đối với mảnh đất Tây Bắc. Tô Hoài đã có công khai khẩn cho một vùng đất bị văn học bỏ quên. Tác phẩm là bức tranh chân thực về cuộc sống và số phận khổ đau của những người dân nghèo miền núi cao Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất, đồng thời, tác phẩm là bài ca về sức sống và vẻ đẹp của con người nơi đây mà tiêu biểu là nhân vật Mị.
Mở đầu tác phẩm, nhà văn đã giới thiệu về Mị qua hai nghịch cảnh. Một bên là cô Mị ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Một bên là cảnh nhà thống lí giàu có, người ra vào tấp nập. Mị là một con người mà như lẫn vào các vật vô tri, nghĩa là con người mà không khác gì đồ vật, kiếp người mà không khác gì kiếp vật. Đây là thủ pháp tạo tình huống “Có vấn đề” trong lối kể chuyện truyền thống giúp người đọc tham gia vào hành trình tìm hiểu những bí ẩn về số phận nhân vật và những vẻ đẹp ẩn sâu trong những con người ấy mà ở đây chính là về Mị.
Trước hết, Mị là một cô gái có số phận khổ đau. Chỉ vì một món nợ truyền kiếp mà Mị phải vào làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, phải sống một kiếp người khổ đau. Về nhà thống lí, Mị bị chà đạp, vùi dập, cướp đoạt tất cả mọi quyền. Mị sống như kiếp vật. Bề ngoài là con dâu nhưng thực chất là con nợ. Nỗi khổ đau nhất ở Mị là con nợ thông thường dù khốn khổ đến mấy còn có hi vọng thoát khỏi thân phận con nợ sau khi đã trả hết nợ cho chủ, oái oan thay, Mị là con nợ nhưng cũng là con dâu (Con dâu gạt nợ) đã bị “Cúng trình ma nhà nó rồi, chạy đâu cho thoát, chỉ còn cách chịu đựng đến tàn đời mà thôi”. Thực ra, Mị đã sớm linh cảm thấy cuộc đời đau khổ của mình nên ngay từ đầu Mị đã van xin cha “Đừng bán con cho nhà giàu”. Mị sẽ tự cuốc nương, trồng ngô để thay cha trả nợ. Thế nhưng nguyện vọng chính đáng ấy không thể chống lại âm mưu thâm độc của cha con nhà thống lí.
Những ngày tháng sống trong thân phận làm dâu gạt nợ là những chuỗi ngày dằng dặc đau thương của Mị, Mị sống trong tủi cực, đúng nghĩa với một nô lệ khổ sai. Mị bị biến thành một thứ công cụ lao động trong tay cha con thống lí. Suốt năm suốt tháng Mị cực nhục âm thầm trong công việc, “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặc đến mùa thì đi nương bẻ bắp và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời như thế” Những việc giống nhau, tiếp nhau sẽ vẽ ra trước mặt mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại.
Với thư pháp so sánh tương đồng, nhà văn đã làm nổi bật cuộc đời cơ cực của Mị, Mị nghĩ mình cũng là con trâu, con ngựa vì là con trâu, con ngựa thì phải đổi ở tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, là trâu ngựa thì chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Thậm chí “con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm còn được đứng gãi chân nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc cả đêm cả ngày” Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa đến nỗi ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi. Lời cắt nghĩa ấy của tác giả đã minh giải tình trạng Mị bị đày đọa đến mức tê liệt. Càng ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Cửa buồng Mị ở âm u lạnh lẽo, nó kín mít chỉ có một cái cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trắng trắng không biết là sương hay nắng. Mị cứ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thôi. Đây là chi tiết gây ám ảnh về một địa ngục trần gian ngột ngạt bức bối. Đó là một ẩn dụ, bế tắc về một cuộc đời, một số phận, con dâu mà như tù nhân khổ sai. Nhà văn đã cất lên tiếng nói nhân quyền của con người để vạch trần tố cáo tội ác của bọn chúa đất vô đạo ở miền núi đã làm khô cạn nhựa sống, làm tàn lụi cả niềm vui sống của những con người tha thiết yêu đời, yêu tự do.
Mị còn bị trói buộc bởi nhiều thế lực: cường quyền, nam quyền. Vì quyền lực mà cha con thống lí đã bắt Mị làm dâu gạt nợ. Ở nhà thống lí, Mị bị tước đoạt cả những quyền tự do tối thiểu. Mị không được đi chơi xuân trong khi A Sử đã có vợ hẳn vẫn đi chơi xuân, hắn còn trực rình bắt mấy người đàn bà nữa về làm vợ… Những thế lực vô hình thi nhau hù dọa Mị.
Trước đây, đã có lần Mị muốn chết nhưng không thể bởi lòng hiếu thảo không cho phép Mị quyên sinh. Giờ đây, khi không còn cái gì ngăn cản nữa thì Mị lại buông xuôi, sống vật vờ như cái xác không hồn. Chính lúc này, hoàn cảnh của người con gái ấy càng đáng thương hơn. Bởi trước đây, khi Mị muốn chết là muốn chống lại hoàn cảnh, đó là biểu hiện của lòng ham sống, còn giờ đây khi không tưởng đến cái chết có nghĩa là lòng yêu tha thiết cuộc sống đã không còn. Đời Mị lặng lẽ trôi đi. Ách áp bức dai dẳng và nặng nề của bọn thực dân chúa đất miền núi đã khiến cho Mị hoàn toàn tê liệt. Dưới ngòi bút của Tô Hoài, dù Mị là cô gái mang số phận khổ đau, dù cuộc sống của Mị trong nhà thống lí là những chuỗi ngày dài đau khổ thì ở Mị vẫn sáng lên những vẻ đẹp không thể bị mờ đi, mòn đi bởi những khổ đau của số phận. Mị vốn là một người con gái đẹp. Nhà văn không trực tiếp miêu tả mà gợi vẻ xinh đẹp ấy qua lời kể: “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị” Mị còn có tài thổi sáo hay. Mỗi lần Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi là còn hay hơn thổi sáo “Trai làng nhiều người mê, nhiều đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác” Tài năng âm nhạc ấy báo hiệu vẻ đẹp tràn đầy của tâm hồn. Trái tim Mị đã bao lần rung lên trước những âm thanh, những tín hiệu hẹn hò.
Không chỉ xinh đẹp, Mị còn là người con hiếu thảo, khi cha mẹ Mị mang nợ nhà thống lí, Mị đã xin cha được làm nương thay cha trả nợ. Nhưng khi nguyện vọng không thành thì Mị đã báo hiếu cho cha bằng cả cuộc đời con gái tươi trẻ đẹp đẽ của mình.
Tưởng chừng sức sống trong Mị đã lụi tàn, nhưng không! Vượt lên trên số phận, hoàn cảnh sống khổ đau tủi nhục, trong chiều sâu dáng hình câm lặng héo úa kia vẫn tiềm tàng một sức sống mạnh mẽ. Sức sống ấy vẫn âm thầm, ấm nóng như một viên than hồng bị tro tàn bao phủ. Nó chỉ chờ dịp là bùng lên mạnh mẽ, dữ dội.
Sức sống tiềm tàng vốn có trong Mị, nó đa dạng và bí ẩn. Sức sống ấy ẩn ngay trong nỗi buồn, trong sự cam chịu, trong hành động phản kháng tìm đến nắm lá ngón tự tử ở thời gian đầu làm dâu gạt nợ nhà thống lí. Sức sống ấy bùng lên mạnh mẽ trong sự trỗi dậy của lòng yêu đời, khát vọng hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân. Khát vọng ấy vốn bị vùi dập bấy lâu nay trong một tâm hồn chai sạn vì đau khổ và nó bất chợt cháy lên thật nồng nàn, xót xa trong đêm tình mùa xuân. Có một bước chuyển, bước ngoặt tâm lý rất lớn diễn ra trong tâm hồn Mị. Nhà văn không hề đơn giản trong miêu tả tâm hồn mà còn sự dẫn dắt chuyển biến bất ngờ, hợp lý. Sự chuyển biến tâm lý lớn lao ấy bắt nguồn từ nhiều duyên cơ. Trước hết là do đất trời vào xuân, lòng người rạo rực đón xuân: “Hồng Ngài năm ấy ăn Tết vào giữa lúc gió thổi cỏ gianh vàng ửng, gió và rét dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi, xòe trên những mỏm đá như những con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi Tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Bức tranh có tác động rất lớn đến tâm hồn Mị. Cùng với bức tranh xuân, một tác nhân nữa là hơi rượu “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát rồi say đến lịm người” Phải chăng, Mị đang uống cái đắng cay của phần đời đã qua, hay uống cái khát khao của phần đời chưa đến. Cuộc rượu tàn lúc nào Mị không hề hay biết, người về hết chỉ còn mình Mị trở lại giữa nhà. Thế rồi Mị nhớ lại ngày xưa, Mị còn trẻ trung, xinh đẹp, hồn nhiên. Mị khao khát hạnh phúc… Và cuối cùng có thể nói, tiếng sáo có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị hồi sinh. Nhà văn Tô Hoài đã dụng công miêu tả tiếng sáo. Thoạt đầu, xa, từ ngoài đầu núi vọng lại, Mị nghe tiếng sáo “Thiết tha bồi hồi”, Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Lát sau tiếng sáo “Văng vẳng gọi bạn đầu làng” lòng Mị đang sống về ngày trước. Rồi lòng Mị vẫn đi theo tiếng sáo gọi bạn yêu. Tiếng sáo nặng khát vọng hạnh phúc lớn dần, chiếm trọn vẹn tâm hồn Mị. Như vậy, trong đêm tình mùa xuân, hơi rượu và tiếng sáo gọi bạn tình, Mị đã vượt ra khỏi trạng thái tê dại, vô cảm bấy lâu nay để thức dậy, để hồi sinh Tô Hoài đã rất tinh tế khi miêu tả những yếu tố liên quan bên ngoài để tác động đến nội tâm nhân vật ở thời khắc này lòng Mị đầy mâu thuẫn, lòng Mị phơi phới trở lại, Mị muốn đi chơi xuân nhưng cũng chính lúc này: “Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại, nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Nghịch cảnh ấy cho ta thấy khi niềm khao khát sống hồi sinh thì tự nó sẽ có một mãnh lực, xung đột một mất, một còn với trạng thái vô nghĩa lý của thực tại. Ngòi bút của Tô Hoài đã lách sâu vào những khe kín của tâm hồn nhân vật để phát hiện những nét đẹp, nét riêng trong tính cách nhân vật. Sức sống tiềm tàng còn được thể hiện ở hành động đi chơi xuân. Từ ý nghĩ đã trở thành hành động. Mị chuẩn bị kỹ lưỡng, chăm chút, đường hoàng, Mị quấn lại tóc, xắn một miếng mỡ bỏ vào đèn, khêu đèn cho sáng. Hành động ấy cho thấy Mị như đang thắp lên ngọn đèn trong cuộc đời triền miên tăm tối của mình. Mị với thêm chiếc váy cổ hoa ở trong vách… Mị làm như một người tự do đường hoàng, không hề đếm xỉa đến sự có mặt của A Sử. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã khát vọng tình yêu càng bộc lộ mãnh liệt. Trong hoàn cảnh bị A Sử trói đứng, tóc Mị xõa xuống, hắn quấn luôn tóc Mị vào cột làm cho Mị không nói không nghiêng được. Nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ đang chật vật bất lực. Suốt đêm, Mị đau như đứt từng miếng thịt, lúc mê lúc tỉnh thế nhưng tâm hồn Mị vẫn mê mải đi theo tiếng sáo gọi bạn theo những cuộc chơi, những đám chơi. Như vậy, A Sử và thế lực tàn bạo ở miền núi có thể trói buộc được thể xác Mị nhưng không thể nào trói buộc được tâm hồn Mị, không thể nào vùi dập được sức sống bất diệt trong Mị. Chính trong đêm tình mùa xuân, ý thức về quyền sống đã trở về trong tâm hồn Mị. Có thể nói, sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân còn có những biểu hiện cảm động. Mị đã xót xa đồng cảm với những con người cùng cảnh ngộ. Buổi sáng âm u trong căn nhà gỗ, Mị bàng hoàng tỉnh giữa bốn bề im lặng, Mị xót thương những người đàn bà cùng cảnh ngộ như mình, không biết các chị vợ anh, vợ chú có còn ở nhà, không biết tất cả những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan đã được đi chơi hay là cũng đang bị trói như Mị “Mị nghẹn ngào khi nhớ lại câu chuyện về một người đàn bà cũng bị chết vì trói đứng ở nhà thống lí. Những biểu hiện của sự sống tiềm tàng trong đêm tình mùa xuân này chính là cơ sở tạo nên sự vùng dậy, tháo cũi sổ lồng của Mị trong đêm đông sau này.
Đỉnh điểm của sự sống tiềm tàng chính là sự vùng dậy của Mị trong đêm đông cùng hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ. Cả Mị và A Phủ hai con người đau khổ, có những nét tương đồng vì hoàn cảnh, số phận, đều là nạn nhân của nhà thống lí. Nếu Mị là con dâu gạt nợ nhà thống lí thì A Phủ là người ở trừ nợ vì đánh bại con quan làng năm ấy A Phủ chăn bò ngoài rừng, vì mải bẫy nhím, chẳng may bị hổ vồ mất một con bò, vì thế A Phủ bị thống lí Pá Tra trói đứng vào cột. Chính nỗi bất hạnh của A Phủ, chính sự tàn độc của cha con thống lí đã làm thức dạy tinh thần phản kháng của Mị. Mấy đêm đầu A Phủ bị trói, Mị vẫn trở dậy, vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, Mị chỉ còn biết ở với ngọn lửa, nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Chi tiết này khiến cho ta phải rùng mình trước một số phận bị đày đọa, bị vùi dập tới mức cực đoan.
Lại một đêm nữa, Mị trở dậy thổi lửa hơ tay. Khi ngọn lửa bùng lên cùng lúc Mị lé mắt trông xa thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở “một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” Đây là chi tiết đầu mối của sự đột biến trong tâm lý của Mị. Nhà văn Tô Hoài đã tỏ ra rất am hiểu những chuyển biến kỳ diệu trong tâm hồn nhân vật. Chính giọt nước mắt của chàng trai người Mông gan góc, quả cảm đã tác động trực tiếp đến Mị. Mị nhớ mình, thương mình ngày trước cũng bị trói đứng trong cái nhà này, tóc quấn vào cột, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được, đắng chát và bất lực, khác gì A Phủ bây giờ. Mị thương người giờ đây cũng bị đày đọa như mình. Mị thương những tôi tớ khác, lòng thương lớn dần thành nỗi hận, biến thành lòng căm thù cha con thống lí, “Chúng nó thật độc ác”. Cái thương, cái giận lớn dần lấn át nỗi sợ hãi, cuối cùng biến thành hành động Mị cầm dao, cắt dây cởi trói cứu A Phủ, cùng A Phủ chạy khỏi Hồng Ngài là hành động bộc phát nhưng vẫn nằm trong logic, sức sống nội tâm của nhân vật. Đó là đỉnh điểm của sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do, khát vọng về quyền sống đã bùng lên, tất cả tạo nên sức mạnh trong hành động tháo cũi sổ lồng của Mị và A Phủ. Mị không những cắt dây cởi trói cứu A Phủ mà còn cắt đứt sợi dây vô hình trói buộc cuộc đời Mị với nhà thống lí. So với Chị Dậu (trong Tắt Đèn), anh Pha (trong Bước đường cùng) hay Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên… thì kết cục của Mị đã tươi sáng hơn Mị đã vùng dậy, tự giải thoát bằng chính sức mạnh của mình.
Như vậy, qua vẻ đẹp về ngoại hình, tấm lòng hiếu thảo cùng sức sống tiềm tàng mãnh liệt, tất cả đã tạo nên một vẻ đẹp riêng của Mị - Một cô gái có số phận khổ đau nhưng luôn mang trong mình vẻ đẹp về cả nội tâm lẫn bên ngoài.
Để khắc họa thành công về số phận khổ đau và vẻ đẹp riêng có của Mị. Ở Mị nhà văn chú trọng lối văn miêu tả những diễn biến tâm lý trong thế giới nội tâm đa dạng, bí ẩn. Từ đó, khắc họa lên tính cách nhân vật. Điều đó rất phù hợp trong việc xây dựng nhân vật nữ tính. Bên cạnh đó, Mị còn được nhà văn thể hiện rất độc đáo mang phong cách tiêu biểu của người Mông âm thầm mà mãnh liệt, mộc mạc đơn sơ mà dữ dội khôn lường.
Qua tác phẩm, Mị hiện lên như một điển hình cho số phận khổ đau của đồng bào vùng núi Tây Bắc dưới ách cai trị của bọn thực dân, chúa đất miền núi. Đồng thời, nhân vật Mị cũng là điển hình cho bài ca về khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, ý thức vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự do.
7 Bài văn phân tích Vợ Chồng A Phủ của Tô Hoài số 7
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh năm 1920 trong một gia đình thợ dệt thủ công ở làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (quê ngoại), nay là phường Nghĩa Đô, quận cầu Giấy, Hà Nội. Quê nội của ông ở Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (cũ). Thời trai trẻ, ông phải vất vả kiếm sống bằng nhiều nghề như dạy kèm, thợ thủ công, bán hàng, làm kế toán hiệu buôn… Vốn có năng khiếu văn chương nên Tô Hoài sáng tác rất sớm và được dư luận chú ý ngay từ những tác phẩm đầu tay, nhất là cuốn truyện viết cho thiếu nhi Dế Mèn phiêu lưu kí.
Năm 1943, Tô Hoài tham gia Hội Văn hóa cứu quốc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông viết báo và hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc. Sau hơn bảy mươi năm miệt mài lao động nghệ thuật, Tô Hoài đã sáng tác và xuất bản gần 200 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, tự chuyện, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác… Do có trình độ hiểu biết sâu rộng và vốn sống phong phú về phong tục, tập quán của nhiều dân tộc ở nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước nên sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả những tình cảnh của đời thường. Tác phẩm của Tô Hoài luôn hấp dẫn người đọc bởi lối kể chuyện hóm hỉnh, sinh động, bởi vốn từ vựng giàu có lạ thường. Năm 1996, Tô Hoài được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.
Tác phẩm chính: Dế Mèn phiêu lưu kí, (truyện cho thiếu nhi, 1941), Ổ chuột (tập truyện, 1942), Quê người (tiểu thuyết, 1942), Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944), Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953), Miền Tây (tiểu thuyết, 1967), Cát bụi chân ai (hồi kí, 1992), Chiều chiều (tự truyện, 1999), Ba người khác (tiểu thuyết, 2006)..
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc (1953), được tặng giải Nhất – giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đặc sắc có sức lôi cuốn, hấp dẫn thực sự bởi giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thông qua số phận Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ.
Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ. Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. A Phủ vì dám đánh A Sử, con trai thống lí nên bị phạt vạ làm đầy tớ không công. Cùng cảnh ngộ đau khổ, Mị đã cứu A Phủ. Hai người trốn khỏi nhà Pá Tra, tìm đến tận Phiềng Sa, thành vợ thành chồng, cùng nhau xây dựng cuộc đời mới. Được cán bộ cách mạng giác ngộ, Mị và A Phủ tham gia lực lượng du kích bảo vệ khu giải phóng.
Dưới thời thực dân phong kiến, bọn lang đạo chúa đất ở vùng cao mặc sức làm mưa làm gió. Chúng nắm trong tay mọi quyền lực, tự cho rằng mình có quyền sinh, quyền sát nên coi tính mạng người dân như cỏ rác. Cha con tôn thống lí Pá Tra với tính cách bạo ngược và lối sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt người nghèo tiêu biểu cho giai cấp thống trị ở miền núi. Cũng như bao tên chúa đất khác, thống lí Pá Tra dùng mọi thủ đoạn hiểm độc trong việc áp bức, bóc lột dân chúng, đẩy họ vào cảnh bần cùng để rồi biến họ thành nô lệ. Mị và A Phủ là hai trong nhiều nạn nhân khác của hắn.
Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ được thể hiện qua số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ.
Mị là cô gái xinh đẹp, khỏe mạnh, được nhiều trai bản yêu mến. Cuộc sống tốt lành đang chờ cô phía trước, nhưng chỉ vì món nợ của cha mẹ vay thống lí từ ngày cưới cho đến nay vẫn chưa trả được nên Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Hắn coi Mị như một thứ đồ vật để thay thế cho số tiền mà cha mẹ cô còn nợ hắn.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã miêu tả hình ảnh người con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Một cô gái cô độc, âm thầm gần như lẫn vào, giữa các sự vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa… trong khung cảnh đông đúc, tấp nập của nhà quan thống lí. Là con dâu của một gia đình quyền thế có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng, vậy tại sao lúc nào cô gái ấy cũng buồn?! Tác giả đã tạo ra tình huống có vấn đề để dẫn dắt người đọc cùng tìm hiểu số phận của nhân vật chính trong tác phẩm.
Trước hết, Tô Hoài kể về cảnh ngộ éo le của gia đình Mị, về món nợ truyền kiếp khiến Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Tiếng là con dâu nhà quan nhưng thực chất Mị là con nợ, là đày tớ, là nô lệ. Cô đã bị cúng “trình ma” nhà thống lí nên không thể chạy đâu cho thoát, sẽ phải sống khốn khổ cho đến tàn đời. Người con dâu gạt nợ ấy bị đày đọa bởi những công việc lao động khổ sai hằng ngày, nhưng đáng sợ hơn cả là sự ràng buộc vĩnh viễn về tinh thần khiến cô cảm thấy mình còn sống mà như đã chết.
Mị đã linh cảm về số phận bất hạnh của mình. Lúc đầu, cô tự tin cho rằng mình có thể trả được món nợ của gia đình. Cô van xin cha: Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu. Nhưng sự thông minh và lòng can đảm của một cô gái mới lớn không chống được mưu chước thâm độc của cha con tên thống lí. Mị đã bị tròng vào cổ hai cái thòng lọng vô hình là làm con nợ và làm con dâu tên thống lí Pá Tra tham lam, độc ác.
Phải sống với A Sử, kẻ mà cô căm ghét và oán hận là nỗi khổ sở, đau đớn không thể nguôi ngoai của Mị. Suốt mấy tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc. Mị đã định ăn lá ngón để tự tử. Trước khi chết, cô đã về lạy cha, nhưng lời kêu oan thống thiết của cha già: Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày chết rồi thì không lấy ai làm nương ngô giả được nợ người ta, tao thì ốm yếu quá rồi. Không được, con ơi! khiến Mị phải nuốt nỗi cay đắng, tủi nhục vào lòng, đành quay trở lại nhà thống lí.
Quãng đời Mị sống với cha con tên thống lí là chuỗi ngày vất vả và đau khổ. Kẻ ác đã cướp mất tuổi thanh xuân của Mị, biến cô gái xinh đẹp, hồn nhiên thành người đàn bà héo úa, lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi… Mị sống âm thầm lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
Cuộc sống của Mị ngập chìm trong đau khổ triền miên. Không có ai để chia sẻ tâm tình, cô chỉ biết làm bạn với ngọn lửa trong những đêm đông dài và buồn. Tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo… Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp Mị xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ cuộc đời cô.
Âm thầm và câm lặng như một cái bóng, đó là cách sống mà Mị lựa chọn, cho dù nó trái ngược hoàn toàn với bản tính sôi nổi, yêu đời của cô gái một thời xinh đẹp và tài hoa. Bây giờ, Mị không nghĩ đến chuyện chết nữa vì đã quá quen với cái khổ rồi và cho rằng mình còn sống mà như đã chết bởi cuộc sống chẳng còn nghĩa lí gì. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Cái ác của bọn thống trị là đã giết chết phần tốt đẹp trong con người Mị. Mị bị đày đọa đến mức tinh thần phản kháng cũng dần dần tê liệt. Tiếng thở dài của cô thể hiện thái độ buông xuôi phó mặc cho số phận: Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Con trâu, con ngựa nhà giàu đêm còn được nghĩ, còn cô không lúc nào ngớt việc.
Bị biến thành một thứ công cụ lao động mà nỗi cực nhục mà Mị phải chấp nhận và chịu đựng. Nhưng sự ê chề của kiếp sống nô lệ chưa dừng lại ở đó, Mị còn phải chịu sự đày ải kéo dài về tinh thần. Cuộc đời ngột ngạt, tối tăm của Mị chẳng khác gì hình ảnh: … Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng.
Nhà văn Tô Hoài không đơn thuần phản ánh bi kịch mà còn đi sâu miêu tả và thể hiện sức sống tiềm tàng dẫn tới hành động phản kháng mãnh liệt và táo bạo của Mị. Trong đêm xuân, tâm trạng của Mị xốn xang, bồi hồi khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha, khi khát vọng được yêu, được sống bừng dậy mãnh liệt trong lòng.
Sự hồi sinh của nhân vật Mị được tác giả miêu tả sâu sắc và tinh tế, phù hợp với tính cách của người con gái ấy. Những yếu tố bên ngoài tác động vào tâm lí nhân vật như khung cảnh mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, bữa rượu cúng ma đón năm mới… đã thức tỉnh tất cả cảm xúc của Mị: căm ghét sự bất công, tàn bạo, khao khát một cuộc sống tự do, hạnh phúc.
Trong đêm xuân, tiếng sáo, tiếng khèn, tiếng reo hò náo nức của đám trai gái và lũ trẻ con tụ tập ở sân chơi đầu làng vẳng lại: Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Cái không khí nồng nàn của mùa xuân như được tăng thêm bởi bữa rượu ngày Tết ở nhà thống lí với tiếng chiêng đánh ầm ĩ và đám người nhảy đồng, người hát… Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say… Mị đang sống trong một trạng thái khác thường. Men rượu làm cho Mị lâng lâng say, nhưng tâm hồn cô thì từ từ thức tỉnh sau bao tháng ngày câm lặng, mụ mị vì sự đọa đày. Cái cách uống rượu ực từng bát khiến người ta nghĩ Mị đang cố uống cho cạn những đắng cay của phần đời đã qua và uống sự khao khát của phần đời chưa tới. Men rượu và những âm thanh náo nhiệt của ngày Tết khiến Mị đã vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh bấy lâu nay. Dấu hiệu tích cực đầu tiên là Mị nhớ lại những kỉ niệm đẹp của thời con gái chưa xa, với những bữa rượu bên bếp lửa ấm áp, với tiếng sáo dặt dìu, du dương của bao nhiêu trai làng ngày đêm đi theo Mị…
Nhớ lại quá khứ có nghĩa là Mị đã thoát ra khỏi tình trạng sống mà như đã chết. Niềm vui đã trở lại với Mị: Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén giờ đây trỗi dậy mạnh mẽ, không gì ngăn nổi.
Xuất hiện trong tâm trí Mị đầu tiên là một ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thật: Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa,.., Nghịch lí trên cho thấy khi niềm khao khát sống được khơi lên, nó sẽ trở thành một mãnh lực xung đột gay gắt với trạng thái vô nghĩa của thực tại. Ý nghĩ về cái chết lúc này là biểu hiện của sự phản kháng thực tại, chứng tỏ rằng Mị đã ý thức sâu sắc về tình cảnh đau đớn, tủi nhục của mình.
Trong khi đó, tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, mời gợi. Tiếng sáo là biểu tượng của sự sống, tình yêu, tự do mà bấy lâu nay dường như Mị đã cố quên, nay nó đang trở lại. Tiếng sáo được miêu tả song hành với diễn biến tâm trạng nhân vật Mị, nó chính là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa vẫn đang âm ỉ cháy trong lòng cô gái luôn khao khát tình yêu. Tiếng sáo đầy ám ảnh đã nhập vào thế giới tâm hồn Mị. Giờ đây, trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo.
Sức sống trỗi dậy trong con người Mị như những đợt sóng ào ạt, đợt sau mạnh mẽ hơn đợt trước và đã biến thành hành động: Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Có thể coi đây là một hành động có ý nghĩa thức tỉnh: Mị đã tự thắp lên một ngọn đèn soi rọi vào cuộc sống tối tăm của mình để tìm ra lối thoát. Con người đích thực trong Mị đã sống lại, hòa lẫn với con người thực tại, khiến tâm trạng cô chập chờn, bất định. Mị vừa sống với thực tại, vừa sống với quá khứ. Hành động này thúc đẩy hành động khác tiếp theo như một phản ứng dây chuyền.
Dường như không đếm xỉa gì đến những ràng buộc khắt khe của cường quyền, thần quyền, những xiềng xích tàn bạo của nhà thống lí Pá Tra, Mị hành động như một con người tự do theo suy nghĩ, cảm xúc của mình. Cô quấn lại tóc, lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách, sửa soạn đi chơi Tết.
Giữa lúc khát vọng sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt nhất thì cũng là lúc nó bị dập vùi phũ phàng nhất: A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại. Trong từng động tác, người đọc thấy toát lên sự tàn ác đến thản nhiên, lạnh lùng của một kẻ đã mất hết nhân tính.
Suốt đêm, Mị bị trói đứng vào cột. Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại đau khổ, tủi nhục. Lúc mới bị trói, Mị vẫn thả hồn theo tiếng sáo và những đám chơi Tết ngoài kia: Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Mị hầu như quên là mình đang bị trói, quên những sợi dây trói thít vào da thịt đau nhức. Trong giây phút khát vọng sống thôi thúc mãnh liệt, Mị đã vùng bước đi, nhưng Mị không thể thoát ra được. Sự đối lập gay gắt giữa ước mơ bay bổng và thực tại phũ phàng hiện ra trong hai âm thanh trái ngược: tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khốc: Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Thực tại đen tối đã lấn át, bóp nghẹt những ước mơ, khát vọng tươi sáng. Nhưng nhà văn không để nhân vật của mình tuyệt vọng. Điều kì diệu là dẫu trong hoàn cảnh cùng cực nhất thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được sức sống của con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt. Trong sâu thẳm tâm hồn cô vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời. Phản ứng tự phát ban đầu chưa thể giải phóng được cuộc đời Mị nhưng những giây phút trỗi dậy lúc này có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro tàn, có ngày sẽ bùng cháy dữ dội.
Ngày ấy đã đến với Mị. Trước cảnh một con người khí phách ngang tàng như A Phủ mà phải bị đánh, bị trói và lặng lẽ khóc cho thân phận tủi nhục của mình, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này… Cỡ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế… Mị không cầm lòng được, Mị động lòng thương người, thương thân. Mị nhớ đến những khổ sở, hãi hùng mà mình đã phải chịu đựng suốt mấy năm qua. Nước mắt đau khổ của A Phủ khơi dậy nỗi đau lắng chìm trong lòng Mị. Cảm thương số phận A Phủ và căm thù cha con tên thống lí độc ác, Mị quên cả sợ hãi nên đã có hành động táo bạo bất ngờ là cắt dây trói cứu A Phủ.
Hành động đó tuy bộc phát nhưng hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Mị đã từng hứa gắng làm rẫy để trả nợ thay bố, đã cắn răng chịu khổ nhục làm con dâu trừ nợ, từng định tìm đến cái chết để giải thoát, thì sao Mị lại không dám chết để cứu một người vô tội cùng cảnh ngộ như mình?
Mị cắt dây trói cứu A Phủ và đột ngột quyết định chạy theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. Hành động ấy chứng tỏ khi khát vọng sống tiềm tàng trong con người bừng dậy, nó sẽ là ngọn lửa dữ dội không thể dập tắt. Nó sẽ biến thành thái độ phản kháng giai cấp thống trị. Những con người bị áp bức sẽ vùng lên đối đầu với bạo lực, cường quyền để tự giải phóng khỏi thân phận nô lệ.
Đây là kết quả tất yếu của một quá trình bị dồn nén, áp bức về tinh thần, đọa đày về thể xác, bây giờ đã đến lúc phải chấm dứt. Mị cắt dây trói cứu A Phủ đổng thời cũng là tự cắt đứt sợi dây vô hình đã trói chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Một hành động bất ngờ hơn và quyết liệt hơn xảy ra ngay sau đó. Mị thoáng nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ vừa chạy đi, lập tức Mị cũng chạy theo đuổi kịp A Phủ: A Phủ cho tôi đi … Ở đây thì chết mất. Mị đã cứu A Phủ thì tại sao cô lại không tự cứu mình? Nhà văn đã miêu tả rất đúng những chuyển biến mau lẹ, tự nhiên và hợp logic của tâm trạng nhân vật trong tình huống gay cấn giữa cái chết và sự sống.
Hai con người cùng cảnh ngộ đã lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi, bỏ thật xa cái địa ngục đã giam cầm, đày đọa họ suốt mấy năm trời. Từ trong cái chết, họ vùng dậy tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời.
Cũng như Mị, nhân vật A Phủ có số phận đặc biệt. Từ nhỏ anh đã mồ côi cha mẹ, không còn ai thân thích trên đời. A Phủ đã từng bị bắt cóc đem xuống núi bán đổi lấy thóc của người Thái. Tuy mới mười tuổi nhưng A Phủ không thích ở dưới cánh đồng thấp, cố tìm cách trốn thoát rồi lưu lạc tới Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ trở thành chàng trai khỏe mạnh, cường tráng, chạy nhanh như ngựa, biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo. Con gái trong làng nhiều cô mê: Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu. Người ta ao ước đùa thế thôi chứ A Phủ rất nghèo, không có cha mẹ, không có ruộng nương, tiền bạc, chỉ làm thuê làm mướn kiếm sống qua ngày. Tục lệ cưới xin vô cùng tốn kém nên A Phủ không thể nào lấy nổi vợ.
Cuộc sống hoang dã cùng hoàn cảnh sống cực nhọc, vất vả đã hun đúc A Phủ trở thành một chàng trai có tính cách mạnh mẽ, táo bạo, can đảm và nghĩa khí. A Phủ không sợ bọn con quan mà thẳng tay trừng trị khi chúng quấy phá cuộc vui xuân của bạn bè mình. A Phủ đã nắm lấy cái vòng cổ bằng bạc có tua chỉ xanh đỏ của A sử (dấu hiệu con cái nhà quan) để kéo dập đầu nó xuống, xé áo nó ra mà đánh cho hả giận.
A Phủ đã phải trả giá rất đắt cho hành động táo tợn của mình. Trận đánh liều lĩnh, hào hứng ấy hóa ra lại là sự mở đầu cho một chặng đường khổ sở tột cùng trong đời A Phủ. Anh bị thống lí Pá Tra bắt, đánh đập và phạt vạ. Người đọc không thể quên đoạn văn tả cảnh phạt vạ với những hình ảnh, chi tiết rất đắt: động tác vuốt ngược cái đầu trọc, kéo đuôi tóc dài ra đằng trước rồi lè nhè gọi của Pá Tra; cái dáng quỳ bất động suốt một ngày đêm như hóa đá của A Phủ; cái cách hành hạ vừa dã man vừa lộn xộn của bọn tay sai, người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới… rồi lời kết án vô lí và kì cục của tên thống lí… Sự am tường những tập quán lạ lùng của vùng cao là chất liệu quý giá giúp Tô Hoài tạo dựng nên cảnh phạt vạ có một không hai trong văn học hiện đại.
Nhà văn Tô Hoài tỏ ra rất sắc sảo trong việc miêu tả con người và cuộc sống vùng cao. Cha con tên thống lí cùng lũ tay sai là hiện thân của giai cấp thống trị tàn ác, vô nhân đạo. Bọn lí dịch, quan làng, thống quản… lợi dụng chuyện A Phủ đánh A Sử để kéo đến nhà thống lí xử kiện và ăn cỗ suốt từ trưa cho đến hết đêm. Mấy chục người hút thuốc phiện rào rào. Cứ mỗi đợt chúng hút xong, A Phủ lại phải quỳ ra giữa nhà để lũ tay sai của tên thống lí xô đến đánh: Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút…
Trong đoạn văn tả cảnh phạt vạ thì chi tiết cuối cùng là chi tiết gây ấn tượng sâu sắc: Đến lúc không phải quỳ, phải đánh nữa, A Phủ được đứng lên, chân đau bước tập tễnh nhưng phải tự tay cầm dao làm thịt lợn để hầu hạ chính những kẻ đã đánh đập mình, biến mình từ nay thành nô lệ cho nhà thống lí.
Cho dù phải sống với thân phận kẻ đầy tớ trừ nợ trong nhà thống lí nhưng A Phủ vẫn là một chàng trai của tự do. Quanh năm, A Phủ bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, làm phăng phăng mọi việc. Một hôm, vì mải bẫy nhím, để hổ bắt mất con bò, A Phủ điềm nhiên vác nửa con bò hổ ăn dở về và bảo Pá Tra cho mượn súng đi bắn hổ, coi đó là chuyện rất dễ dàng. A Phủ không sợ bất cứ ai. Con hổ hay thống lí Pá Tra cũng vậy. Kể cả khi lẳng lặng đi lấy cọc và dây mây, rồi tự tay đóng cọc để lũ tay sai của thống lí trói đứng mình vào đó, A Phủ vẫn thản nhiên. Là người mạnh mẽ và gan góc, A Phủ không sợ cả cái chết… “
Tô Hoài phát hiện ra hai nét tính cách đối lập nhau trong con người A Phủ: một A Phủ can đảm, bất khuất và một A Phủ cam phận tôi đòi. A Phủ này biểu trưng cho phẩm chất tốt đẹp của con người, còn A Phủ kia lại biểu trưng cho sự nhục nhã. Hai mặt đối lập ấy song song tồn tại. Đó chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển nội tại của hình tượng A Phủ.
Chạy trốn khỏi Hồng Ngài, thoát khỏi ách áp bức của thống lí Pá Tra, Mị và A Phủ lại gặp phải một kẻ thù không kém phần nguy hiểm là giặc Pháp. Chúng là lũ cướp nước đồng thời cướp cả quyền tự do được sống làm người. Chúng chẳng khác gì bọn cường hào, ác bá miền núi.
Giặc Pháp càn lên núi cao, đốt nhà, cướp của, bắt người. A Phủ bị chúng cướp mất đôi lợn, bị đánh, bị bắt đi phu khiêng đá xây đồn… A Phủ căm thù giặc Pháp vì anh đã nhận thức được rằng mình là người tự do; của cải bị chúng cướp đi là mồ hôi, nước mắt của mình - phải nhớ lấy để mà trả thù.
Sống ở Phiềng Sa, Vợ chồng A Phủ mới thực sự được làm người. Họ được cán bộ A Châu giáo ngộ cách mạng. Từ một chàng trai nghèo khổ, nô lệ, A Phủ đã trở thành một du kích dũng cảm, tự tin và thực sự trở thành chỗ dựa tinh thần của Mị. Sống bên A Phủ, Mị dần dần hết lo sợ, cô vững tin vào cuộc sống mới, vào kháng chiến.
Giá trị hiện thực của truyện ngoài việc tái hiện đoạn đời khổ ải của những người nô lệ còn nói đến một sự thật xót xa: người dân bị áp bức, đè nén quá lâu sẽ bị tê liệt tinh thần phản kháng, sẽ bị đầu độc bởi tâm lí nô lệ. Bạo lực của bọn chúa đất cấu kết với thần quyền, với mê tín dị đoan, với thực dân Pháp trong giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã làm cho họ không cất đầu dậy nổi. Nhưng trong cuộc đời, có áp bức tất có đấu tranh. Mị và A Phủ cũng như bao người khác sẽ vùng lên tự giải phóng, giành quyền làm người tự do. Đoạn đời sau của Vợ chồng A Phủ đã chứng minh quy luật muôn đời ấy.
Trong giá trị hiện thực của tác phẩm đã ẩn chứa giá trị nhân đạo sâu xa. Có căm thù giai cấp thống trị và xã hội bất công, tác giả mới lên tiếng tố cáo mạnh mẽ. Có thực sự cảm thương số phận đau khổ của con người, tác giả mới viết nên những trang văn gây xúc động mạnh mẽ như vậy.
Tính nhân đạo của tác phẩm trước hết thể hiện ở sự bênh vực và cảm thông sâu sắc với số phận của những con người bất hạnh như Mị và A Phủ. Ở khía cạnh này, Tô Hoài tỏ ra có sự am hiểu sâu sắc từ đời sống vật chất đến đời sống tâm lí của đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc.
Trong khi miêu tả, bên cạnh sự cảm thông với những trớ trêu của số phận, người đọc cũng cảm nhận được khá rõ thái độ của nhà văn: tố cáo sự tàn bạo của bọn quan lại phong kiến miền núi, căm giận những thế lực chà đạp lên nhân phẩm con người. Tô Hoài còn phát hiện và trân trọng những phẩm chất cao đẹp như khát vọng tự do, hạnh phúc và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người dân miền núi.
Tô Hoài không chấp nhận để nhân vật của mình bị đẩy vào tình thế bế tắc và tuyệt vọng. Phần một khép lại với kết thúc tốt đẹp. Mị và A Phủ đã tự giải thoát. Sang phần hai của tác phẩm, họ đã thành vợ thành chồng, được sống một cuộc sống tự do ở khu du kích Phiềng Sa.
Số phận khổ đau, nô lộ của Mị và A Phủ tiêu biểu cho số phận người dân miền núi dưới chế độ cũ. Bần cùng hóa con người, chà đạp lên nhân phẩm, tình yêu, hạnh phúc là chuyện thường thấy ở cả miền xuôi lẫn miền ngược.
Truyện Vợ chồng A Phủ là một trong những truyện giải quyết được khá sớm vấn đề số phận của con người trong xã hội thực dân, phong kiến.
Thành công cơ bản của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Cả hai nhân vật Mị và A Phủ đều thể hiện một cách sống động và chân thực những nét riêng, nét lạ trong tính cách của người Mông nói riêng và đồng bào miền núi nói chung. Trên hết là một lối sống mộc mạc, hồn nhiên, phóng khoáng, tự do. Những phẩm chất này khiến người Mông có một sinh lực sống dồi dào khiến họ đủ sức mạnh để vượt qua bất cứ sự áp bức đè nén nào. Mị bề ngoài lặng lẽ, âm thầm, nhẫn nhục nhưng bên trong sôi nổi một khát vọng sống, khát vọng tự do và hạnh phúc. A Phủ táo bạo, gan góc mà chất phác, tự tin. cả hai cùng là nạn nhân của bọn chúa đất, quan lại thống trị miền núi tàn bạo, độc ác. Trong con người họ tiềm ẩn sự phản kháng vô cùng mãnh liệt.
Bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo của Tô Hoài thể hiện rõ nhất qua việc thể hiện những diễn biến nội tâm tinh tế và phức tạp của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và hành động Mị cắt dây trói cứu A Phủ.
Tô Hoài vốn là nhà văn có biệt tài miêu tả thiên nhiên và những phong tục, tập quán xã hội. Khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng cùng con người Tây Bắc với tính cách độc đáo… đã được tác giả khắc họa bằng ngòi bút tài hoa, mang phong vị đặc trưng của vùng núi rừng Tây Bắc.
Nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài uyển chuyển, linh hoạt, vừa tiếp thu truyền thống vừa sáng tạo. Nhà văn chủ yếu vẫn kể chuyện theo trình tự thời gian, tạo nên một dòng chảy liên tục nhưng nhiều lúc đan xen quá khứ với hiện tại một cách tự nhiên, hợp lí để làm nổi bật điều cần thể hiện.
Qua việc miêu tả số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã làm sống lại trước mắt người đọc cả quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn quan lại, chúa đất phong kiến. Quá trình giác ngộ cách mạng của vợ chồng A Phủ tiêu biểu cho con đường đến với Đảng, với cách mạng của đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi. Qua các hình tượng văn học trong tác phẩm, tác giả gián tiếp khẳng định chỉ có cách mạng mới giải phóng con người ra khỏi ách thống trị đầy áp bức bất công, giúp con người vươn tới cuộc sống tự do, hạnh phúc. Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn của tác phẩm. Giá trị này giúp truyện đứng vững trước thử thách của thời gian và vẫn được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích.
8 Bài văn phân tích Vợ Chồng A Phủ của Tô Hoài số 8
Tô Hoài là nhà văn tài năng, cần mẫn, ông sáng tác trên nhiều thể loại. Ở thể loại nào ông đạt được những thành tựu xuất sắc. Ông là nhà văn của sự thật đời thường, ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau. Trước cách mạng ông chủ yếu hướng ngòi bút của mình về nông thôn nghèo và thế giới loài vật, sau cách mạng ông hướng đến những vùng nông thôn rộng lớn, đặc biệt là Tây Bắc. Vợ chồng A Phủ là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc của ông.
Nhân vật trung tâm trong tác phẩm là Mị, cô gái trẻ trung, xinh đẹp nhưng số phận lại vô cùng bất hạnh. Vẻ đẹp của Mị được minh chứng qua việc “trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị” Mị mang nhan sắc rực rỡ của người con gái tuổi mới lớn, độ tuổi đẹp đẽ, căng tràn sức sống nhất. Không chỉ xinh đẹp, mà Mị còn rất tài năng, tài thổi sáo của Mị nức tiếng gần xa, biết bao người mê đắm, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Dù gia cảnh nghèo nàn, vẫn luôn nợ tiền nhà thống lí Pá Tra, nhưng khi biết nhà thống lí muốn bắt mình về làm con dâu để gạt nợ, cô đã lập tức cầu xin cha cho mình được đi làm để trả nợ dần: “Con sẽ làm nương ngô giả nợ thay cho bố”, vì cô tự tin vào khả năng, sức khỏe của mình: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô” và hơn hết cô gái trẻ ấy con mang trong mình cái khát vọng được sống cuộc đời tự do: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Dù Mị hội tụ đầy đủ những phẩm chất để được hưởng một cuộc sống tự do, hạnh phúc nhưng số phận lại vô cùng bất hạnh, bị các thế lực, thần quyền và cường quyền chà đạp, áp bức.
Vì món nợ truyền kiếp, cuối cùng Mị bị A Sử con trai thống lí Pá Tra bắt về làm con dâu gạt nợ. Cũng chính từ giờ phút đó cuộc sống bi kịch đổ ập xuống đời cô. Ban đầu khi mới về nhà thống lí, trong Mị vẫn mong manh xuất hiện ý thức phản kháng: đêm nào cô cũng khóc, và đến cuối cùng cô đã đi đến quyết định ăn lá ngón tự tử. Người ta chỉ muốn chết khi ý thức được nỗi khổ của mình, khi sự chịu đựng đã đạt đến giới hạn. Nhưng tình yêu thương gia đình đã khiến Mị từ bỏ ý định đó, vì nếu cô chết đi, món nợ vẫn còn, cha cô lại phải gánh chịu. Mị chấp nhận quay trở lại với cuộc sống lầm lũi, bất hạnh.
Khi người ta sống trong đau đớn và khổ cực trong một thời gian quá dài, tự nhiên sẽ mất đi cảm giác về cái khổ, cái bất công. Khi Mị làm dâu đã quen, cô quên đi nỗi đau khổ về thể xác. Thời gian của Mị không tính bằng thời gian đơn thuần mà bằng lượng công việc cô làm, việc này nối tiếp việc kia, dường như không có lúc nào người con gái ấy được nghỉ ngơi. Từ một người con gái trẻ trung, đầy sức sống, Mị biến thành công cụ lao động, mất đi ý chí niềm tin về thời gian, về tuổi trẻ. Không chỉ vậy Mị còn phải gánh chịu nỗi đau khổ về tinh thần: “Ai có việc ở xa về, có việc vào nhà thống Lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”, “lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Và chính Mị cũng tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa trong nhà này. Bằng biện pháp so sánh, đã cho thấy nỗi khổ bị đẩy lên đến tận cùng của Mị. Đặc biệt là hình ảnh ẩn dụ về căn buồng mà Mị ở : “kín mít, chỉ có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào nhìn ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Đây thực chất không phải là nơi để con người sinh sống mà nó như một địa ngục trần gian, dùng để giam hãm cuộc đời Mị. Và nó cũng chẳng khác gì một nấm mồ chôn vùi thanh xuân, tuổi trẻ và hạnh phúc của một người con gái lương thiện, giàu sức sống. Đoạn văn cho thấy hiện thực xã hội thối nát đương thời, đã chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc của con người. Đồng thời cũng là lời nói cảm thương cho những số phận bất hạnh dưới ách thống trị của bọn phong kiến miền núi.
Nhưng ẩn sâu trong tâm hồn tưởng chừng như đã héo úa, không còn niềm tin ấy nữa lại là sức sống tiềm tàng vô cùng mãnh liệt. Sức sống ấy được thể hiện rõ nhất trong đêm tình mùa xuân. Không phải ngẫu nhiên mà sức sống đó được khơi nguồn, trước hết do Mị nhận sự tác động từ không khí mùa xuân ấm áp, đầy tình tứ, những đồi cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy phơi trên mỏm đá xòe rộng ra như những cánh bướm sặc sỡ. Cùng với đó là âm thanh náo nhiệt, rộn rã của đám trẻ con và đặc biệt là sự xuất hiện của tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện từ xa đến gần, ban đầu là ở bên ngoài, sau đó gần như hòa làm một trong Mị: “Rập rờn trong đầu Mị”. Trong hồn Mị sống lại những khát khao được yêu đương, khát vọng được sống hạnh phúc của ngày xưa, từ cõi vô cảm, quên lãng, Mị trở về cõi nhớ. Đồng thời cũng không thể thiếu đi chất xúc tác của hơi men, Mị uống cả hũ rượu, uống ừng ực từng bát, Mị say rồi ngồi lịm đi, mơ màng nhớ về quá khứ tự do.
Những chất xúc tác đó đã tạo nên hành trình vượt thoát, để Mị tìm lại chính bản thân mình. Trong lòng Mị thấy phơi phới trở lại, cái cảm giác mà tưởng rằng bấy lâu nay đã mất. Mị ý thức được rằng: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Nhưng sự thật phũ phàng, Mị muốn đi chơi nhưng lại không được đi, nên Mị quay về buồng. Trong hơi men của rượu lại một lần nữa sức sống trỗi dậy. Mị lấy ống mỡ, xắn một miếng thắp lên cho sáng, đây không chỉ là hành động thắp sáng vật lí đơn thuần mà nó còn biểu tượng cho khát vọng, niềm tin được giải thoát, thắp sáng chính cuộc đời Mị. Cô quấn lại tóc, lấy cái váy chuẩn bị đi chơi thì bị A Sử chặn đứng lại bằng hành động vô cùng thô bạo. Mị bị trói đứng ở cột, nhưng A Sử chỉ trói được thân xác Mị, chứ không thể trói được khát vọng, sức sống trong Mị. Trong tâm tưởng cô vẫn thả hồn theo tiếng sáo và những cuộc chơi. Sáng hôm sau Mị tỉnh lại và tiếp diễn chuỗi ngày sống mòn, sống mỏi.
Và để cho cuộc vượt thoát của Mị được thành công, Tô Hoài đã tạo ra tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa Mị và A Phủ. A Phủ là người ở của thống lí, do làm mất bò nên bị trói đứng. Sau đêm tình mùa xuân Mị rơi vào trạng thái tê liệt, nhưng gặp A Phủ đã thức dậy trong cô khát vọng sống. Giọt nước mắt “mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã có tác động mạnh mẽ đế Mị, khiến Mị ý thức được nỗi đau khổ của mình, tự thương thân và thương người. Điều đó đã dẫn đến hành động cởi dây trói và bỏ đi theo A Phủ, hướng đến cuộc đời tự do, hạnh phúc phía trước.
Xây dựng nhân vật Mị, Tô Hoài đã phơi bày một cách chân thực số phận cực khổ của người dân lao động Tây Bắc dưới ách áp bức của giai cấp thống trị miền núi. Đồng thời thể hiện niềm cảm thương với số phận khổ đau của nhân vật Mị. Và phát hiện, trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của tâm hồn của Mị với sức sống tiềm tàng, mãnh liệt.
Ngoài nhân vật Mị, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật A Phủ. A Phủ là người có số phận bất hạnh, cha mẹ mất, cậu trở thành món hàng trao đổi, mất tự do ngay từ khi còn bé. Khi lớn lên do không có nhà cửa, tiền bạc, ruộng nên không thể lập gia đình. Nhưng dù vậy A Phủ lại mang trong mình những phẩm chất hết sức đẹp đẽ, A Phủ mang trong lối sống phóng khoáng, mạnh mẽ, tự lực kiếm sống, vươn lên hoàn cảnh khắc nghiệt để sống là một con người dũng cảm, tự tin, yêu đời. Nhưng số phận bất hạnh, A Phủ bị biến thành người ở gạt nợ một cách hết sức phi lí. Cậu bị đày đọa về thể xác, bị lợi dụng sức khỏe triệt để, sức khỏe bị rẻ rúng khôn cùng. Nhưng trong con người ấy vẫn luôn tồn tại khao khát tự do, hạnh phúc mãnh liệt. Ngay khi được Mị giải cứu, A Phủ và Mị đã cùng nhau bỏ trốn nơi địa ngục đó để tìm đến một cuộc sống đẹp đẽ, tự do hơn.
Nét nghệ thuật đặc sắc nhất trong tác phẩm là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Mị được xây dựng theo kiểu nhân vật tâm trạng, còn A Phủ là kiểu nhân vật hành động. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, cũng như phong tục tập quán tài tình. Ngôn từ giản dị, linh hoạt, giàu cảm xúc, mang đậm chất dân tộc. Các yếu tố nghệ thuật đó đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.
Vợ chồng A Phủ là kết tinh của giá trị hiện thực và nhân đạo. Tác phẩm đã lên án tố cáo chế độ phong kiến miền núi chà đạp, áp bức quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Bên cạnh đó tác phẩm cũng thấm đẫm tinh thần nhân đạo: Cảm thương cho số phận những người lao động nghèo bất hạnh, bị tước đoạt đi quyền sống, bị hành hạ cả thể xác và tinh thần. Đồng thời trân trọng ngợi ca sức sống tiềm tàng, luôn biết hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn.
9 Bài văn phân tích Vợ Chồng A Phủ của Tô Hoài số 9
Tô Hoài là một trong những cây bút truyện ngắn nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại. Với lối trần thuật hóm hỉnh cùng sở trường về loại truyện phong tục và hồi ký ông đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị. “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm làm nên tên tuổi của ông.
“Vợ chồng A Phủ” được rút từ tập “Tây Bắc”. Tác phẩm kể về cuộc sống nô lệ của Mị và A Phủ trong nhà thống lý Pá Tra. Để trả món nợ của cha, Mị phải trở thành dâu nhà thống lý, sống một cuộc sống khổ cực, bị kìm hãm tự do. Trong lời kể của Tô Hoài, cuộc sống của Mị hiện lên trong cảnh giàu sang nhưng ẩn sâu bên trong đó là một cuộc sống bị giam cầm cả thể xác lẫn tâm hồn. Câu chuyện về Mị đã phần nào giúp người đọc hiểu được số phận cùng cực của con người dưới sự thống trị của bọn phong kiến chúa đất.
Tô Hoài đã khéo léo sử dụng kết cấu hồi tưởng, trần thuật ở hiện tại rồi ngược về quá khứ để kể về cuộc đời Mị một cách vô cùng linh hoạt. Trước khi về làm dâu nhà thống lí, Mị là một cô gái xinh đẹp, vui tươi, yêu đời và tràn đầy sự sống. Thế nhưng chỉ vì muốn trả món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà cô phải làm dâu nhà thống lí. Cuộc sống hôn nhân không có tình yêu của Mị không chỉ bị trói buộc bởi món nợ truyền kiếp mà còn bị ràng buộc bởi những tập tục cổ hủ, lỗi thời. Cách gọi “dâu gạt nợ” từ đó mà hé nở cuộc sống đầy đau thương cùng những bi kịch mà Mị phải chịu đựng.
Sống ở nhà thống lí trước hết Mị phải chịu bóc lột về thể xác. Mị phải làm việc cực khổ cho nhà thống lí không phân biệt ngày hay đêm, làm việc hết ngày này qua tháng nọ, không ngừng nghỉ. Mị giống như bị cột trong vòng quay luẩn quẩn của công việc, không có tự do, không có lối thoát. Qua cách kể của Tô Hoài, Mị hiện lên như một cỗ máy lao động không công trong nhà thống lí Pá Tra để rồi đã nhiều hơn một lần Mị thấy mình còn không bằng kiếp trâu ngựa trong nhà. Nói về tháng ngày Mị sống ở nhà thống lí nhiều người cho rằng đây là một cuộc sống đang dần bị vật hoá. Không chỉ vậy, Mị còn bị chồng mình là A Sử đánh đập, hành hạ. Đã nhiều lần hắn uống say về rồi lôi Mị ra đánh một cách vô lý nhưng đỉnh điểm nhất là trong đêm tình mùa xuân. Một cô gái đã mất hết tự do, ngày ngày chỉ quanh quẩn với công việc bỗng nhận ra những âm thanh của mùa xuân, muốn được ra ngoài đi chơi thì lại bị chính chồng của mình trói lại, đánh đập. Trong đoạn này, Tô Hoài đã miêu tả chi tiết hành động tàn nhẫn của A Sử, từ cách hắn trói đứng Mị, cột tóc Mị đến cách đánh đập Mị. Câu chuyện hiện lên như một thước phim quay chậm dần lột tả hết bộ mặt tàn ác của tầng lớp thống trị ngang tàn mà A Sử là đại diện tiêu biểu nhất. Ở nhà thống lí, Mị đã phải sống một cuộc sống bị trói buộc cả thể xác lẫn tinh thần. Cô không chỉ bị ngăn cách với cuộc sống ngoài kia đến nỗi mất hết khái niệm về thời gian mà còn bị tước đi quyền sống, quyền được làm người.
Cũng trong đêm tình mùa xuân ấy sức sống tiềm tàng trong Mị đã trỗi dậy. Không còn là câu chuyện về cô gái hàng ngày phải sống trong đau đớn, khổ cực rồi dần thành quen với cái khổ, âm thanh tiếng sáo gọi bạn tình đã đánh thức khao khát được yêu thương trong sâu thẳm tâm hồn Mị. Chính tiếng sáo đó cũng thức tỉnh ý thức về quyền sống, quyền làm người trong Mị. Nghệ thuật độc thoại nội tâm đã được Tô Hoài khai thác thành công khi ông khéo léo “luồn lách” ngòi bót vào từng ngóc ngách của đời sống tâm hồn Mị. Ông miêu tả chi tiết đến từng hành động, khắc họa rõ nét đến từng tâm trạng để thấy sự thay đổi trong con người Mị. Sự thay đổi của một cô gái đã cam chịu với số phận cùng cực, muốn vùng lên để làm chủ cuộc sống của chính mình. Nhưng rồi cô lại bị chính người chồng của mình trói buộc lại. Đó là hành động trói buộc cả về thể xác lẫn tâm hồn Mị.
Sau đêm hôm đó, người đọc lại thấy hiện lên hình ảnh cô Mị lầm lũi ngày nào. Ý thức về cuộc sống tự do mới nhen nhóm lại tiếp tục bị tê liệt bởi cuộc sống khổ sai cùng cực, bởi sự đánh đập, hành hạ giã man. Những tưởng rằng tất cả điều đó đã làm mất đi niềm khát khao sống trong Mị nhưng không ai có thể ngờ rằng nó lại chính là động lực to lớn để Mị cởi trói cứu A Phủ trong đêm đông giá rét. Hành động cởi trói của Mị đã giải thoát cho A Phủ nhưng nó cũng giống như Mị đang tự giải thoát cho chính mình, Mị đã tự đi tìm quyền sống và tự trao cho mình quyền được sống, quyền được làm người.
Có thể thấy từng nét thay đổi trong thế giới nội tâm của Mị đều được nhà văn tái hiện, miêu tả vô cùng chân thật. Cũng chính từ việc khai thác triệt để tính cách tâm hồn Mị, Tô Hoài đã từng bước đưa người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Hoá ra Mị không phải là một cô gái cam chịu. Hoá ra chế độ cai trị của bọn lãnh chúa có tàn bạo đến nhường nào thì cũng không ngăn được khát khao được sống, được làm người của Mị nói riêng và nhân dân lao động nói chung. Miêu tả Mị, Tô Hoài không chỉ thể hiện sự xót xa, đồng cảm của mình với những số phận bị chà đạp, bị cướp đi quyền được làm người mà ông còn gián tiếp tố cáo xã hội nhơ nhuốc đã tước đi quyền sống của con người.
Bên cạnh việc khắc hoạ thành công nhân vật Mị, A Phủ cũng là một nhân vật đáng được quan tâm trong tác phẩm này. A Phủ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, cậu đã trở thành một món hàng, một vật trao đổi và chính thức mất đi tự do từ đó. Là một đứa trẻ mồ côi, lớn lên không có sự bảo bọc, chăm sóc của cha mẹ, cũng không có một mái nhà để nương tựa, ruộng vườn không có, tiền bạc cũng không nên A Phủ cũng không thể xây dựng tổ ấm cho mình. Nhưng những điều đó không làm mất đi phẩm chất cao đẹp trong con người này. A Phủ là một chàng trai khoẻ mạnh, tính tình phóng khoáng. Anh là một con người mạnh mẽ, có thể vượt lên mọi khắc nghiệt của cuộc sống để kiếm tiền nuôi sống bản thân mình. Nhưng số phận bất hạnh cứ bám theo, đày đọa A Phủ để rồi giống như Mị, A Phủ cũng bị biến thành một người ở gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra. Ở đây, A Phủ cũng bị đày đọa, bóc lột, bị đối xử vô cùng rẻ rung. Nhưng cuộc sống có tàn khốc đến đâu cũng không thể kìm hãm được khát khao tự do trong con người này. Ngay trong cái đêm đông được Mị giải cứu, A Phủ đã cùng Mị trốn khỏi nơi “ngục tù” đày đọa đó để đi tìm cuộc sống tốt đẹp hơn cho chính mình. Kết thúc truyện A Phủ và Mị cùng nhau bỏ trốn khỏi nhà thống lí, giải phóng bản thân, hướng về tự do.
Có thể thấy, hai nhân vật, hai tính cách, hai kiểu miêu tả: nếu Mị là kiểu nhân vật tâm trạng thì A Phủ lại là nhân vật hành động nhưng lại vô cùng hài hòa cùng tạo nên một “Vợ chồng A Phủ” vô cùng thành công trong lòng độc giả. Bên cạnh đó, nghệ thuật miêu tả thiên nhiên cùng những phong tục tập quán đã làm nên một bức phông nền vùng cao chân thật, sống động để hai nhân vật có thể thỏa sức bộc lộ những nét tính cách của mình.
Với tất cả những điều đó “Vợ chồng A Phủ” được đánh giá là tác phẩm kết tinh giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Tác phẩm không chỉ là bản án tố cáo chế độ cai trị tàn bạo mà còn thể hiện niềm xót xa, trân trọng của nhà văn với những kiếp người phải sống trong sự cai trị đó.
10 Bài văn phân tích Vợ Chồng A Phủ của Tô Hoài số 10
Tô Hoài là một tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị như: Dế Mèn phiêu lưu ký, Giăng Thề, Quê nghèo,...Tập truyện Tây Bắc cũng là một trong những thành tựu vô cùng xuất sắc, một lần nữa khẳng định tên tuổi của ông trên văn đàn. Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" trích trong tập “Truyện Tây Bắc” đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng với giá trị nhân văn sâu sắc.
Truyện kể về cuộc sống của nhân vật Mị, một cô gái vùng núi Tây Bắc. Mị vốn là một người con gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, lại là người con hiếu thảo, biết chăm lo giúp đỡ gia đình. Nhưng số phận trớ trêu khi Mị buộc phải chấp nhận bán mình làm con dâu nhà thống lý để trả món nợ truyền kiếp của gia đình. Có lẽ, trong xã hội lúc bấy giờ, có vô số người đang phải chịu cảnh trái ngang như Mị vậy, bởi hình thức cho vay nặng lãi của bọn người như Pá Tra mà họ phải dùng cả cuộc đời, thậm chí đánh đổi tương lai và hạnh phúc của bản thân để trả.
Ngày về làm dâu, Mị mất hết quyền tự do, bao nỗi uất ức, đau khổ đều mình nàng gánh chịu. Đau đớn thay cho phận đàn bà, phận con nợ hẩm hiu với cuộc sống lầm lũi, trước kia Mị trẻ đẹp yêu đời bao nhiêu thì giờ đây càng tồi tệ, thê thảm bấy nhiêu: "Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc", có lúc Mị chỉ muốn dùng nắm lá ngón mà tự tử, kết thúc cuộc đời khổ nhục, nhưng vì nghĩ đến bố, nàng đành ngậm ngùi cam chịu. Tình thân chính là thứ duy nhất khiến Mị cố gắng để chịu đựng, bởi hơi ai hết, Mị hiểu cha nàng đã khổ quá nhiều rồi. Những vất vả, công việc nặng nhọc nơi nhà thống lý đều một tay Mị làm, con dâu mà không khác con ở là bao.
Lâu dần, Mị quen với cái khổ, rồi cũng chẳng màng gì nữa, cứ thế lầm lũi qua ngày: “Mị quên với cái khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa… chỉ biết việc ăn cỏ, việc đi làm mà thôi". Bao công việc giặt đay, bẻ bắp, hái thuốc phiện,..Mị đều làm mà không một lời than vãn, mà có than vãn cũng chẳng ai quan tâm đến.
Đau khổ về thể xác, tinh thần cũng bí bách khôn nguôi, có điều gì buồn hơn khi lấy chồng mà người bên cạnh không phải người mình thương, đến sự sẻ chia, lời ủi ăn cũng chẳng có, lấy gì làm người bạn tâm tình những lúc chán nản, mệt nhoài: "Mỗi ngày Mị càng không nói....rùa nuôi trong xó cửa". Thật đau đớn thay cho những kiếp người nghèo khổ, chịu bao bất công, bao nỗi tuyệt vọng ngập tràn. Dường như, lúc này đây, Mị đang phó mặc cho số phận mình vậy. Đọc những dòng miêu tả Mị lúc này, ta thấy xót thương, đồng cảm và căm phẫn thật nhiều. Xót thương cho cuộc đời nàng, căm phẫn với cái chế độ tàn nhẫn bất công của xã hội của đã đẩy con người đến đường cùng tăm tối.
Tuy sống cam chịu, lầm lũi nhưng bên trong Mị vẫn âm ỉ một sức sống mãnh liệt chỉ chực chờ để bụng toả. Khi xưa Mị là cô gái trẻ yêu đời, khao khát tự do, có niềm tin yêu cuộc sống. Sức trẻ, khát vọng hạnh phúc ấy không lụi tắt mà chỉ bị kìm xuống bởi những bất công, bạo tàn. Để rồi vào đêm tình mùa xuân, khi khắp vùng trời tây bắc đang chào đón mùa xuân tới cùng tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha, lòng Mị lại bồi hồi rạo rực với những kỉ niệm xưa: "Ngoài đầu núi lấp ló có tiếng ai thổi sáo gọi bạn đi chơi. Nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi". Tiếng sáo đã thôi thúc Mị tiếp tục đứng lên, tiếp tục sống, thôi thúc bao nỗi khát khao trong lòng nàng. Mị tìm đến men rượu, hơi rượu đã đưa Mị về với những kí ức xưa "Mị thấy phơi phới trở lại". Rồi Mị tìm đến nơi góc nhà, lấy ống mỡ bỏ vào đèn thắp lên thứ ánh sáng le lói, thứ ánh sáng của niềm tin nơi tăm tối, ngục tù.
Nhưng rồi, thật tàn nhẫn, tên A Sử tàn ác kia đã đứng trước mặt Mị, hắn không cho nàng đi chơi, hắn trói nàng vào cột nhà bằng những sợi đay rừng. Chính hắn đã dùng bàn tay tàn ác kia trói buộc cuộc đời nàng, giờ đây đến cả điều ước đơn giản muốn được đi chơi xuân cũng bị hắn vùi dập. Lúc này đây là nỗi đau thể xác đang hành hạ nàng nhưng lòng Mị vẫn đang mê say với tiếng sáo tha thiết kia. Có những phút Mị vùng bước đi nhưng không thể làm gì khác, thực tại quá phũ phàng đã bóp nghẹt một lần nữa khát vọng cuộc đời nàng.
Sau đêm mùa xuân ấy, Mị quay trở lại với cuộc sống của “con trâu con ngựa”, lầm lũi cam chịu. Khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứa đứng ngoài sân, Mị cũng dửng dưng vô cảm bởi lẽ cảnh người bị trói, bị hành hạ nhà thống lí đã quá quen thuộc trong nhận thức của Mị. Tỉnh dậy trong ánh lửa bập bùng, Mị thấy dòng nước mắt đang rơi dài trên má A Phủ. Giọt nước mắt ấy khiến Mị nhớ lại ngày trước, nàng cũng từng phải chịu nỗi hành hạ, đớn đau biết bao nhiêu rồi nàng nhớ đến chuyện người đàn bà xưa kia bị trói chết đứng trong nhà, rồi nàng lo sợ rằng có lẽ đêm nay, đêm mai nữa thì người kia cũng sẽ phải chịu chết thôi. Mị chìm vào suy nghĩ, sự đấu tranh nội tâm đưa Mị đi đến hành động quyết liệt là cắt dây trói cho A Phủ. Dù biết đây là hành động có thể khiến bản thân bị trọng tội, song Mị đã chấp nhận hi sinh chính mình để cứu lấy con người tội nghiệp kia. Đây là một hành động thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ của con người trước tội ác, bất công đồng thời thấy được tình thương yêu giữa những người nghèo khổ dành cho nhau. Cũng vào lúc ấy, Mị đã quyết định đi theo A Phủ, đó là một sự lựa chọn đúng đắn để Mị giải thoát cho cuộc đời mình.
Đọc Vợ chồng A Phủ, ta mới thấy được tài năng của Tô Hoài trong việc khắc hoạ tâm lí nhân vật. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ đều gắn với những tính cách, những chuyển biến tâm lí đầy tinh vi của nhân vật được thể hiện rõ nét. Truyện đã vạch trần được những tội ác, sự bất công ngang trái của xã hội xưa, nói lên tiếng nói thương cảm của nhà văn với những người dân miền núi chịu nhiều khổ cực. Ngoài ra, Tô Hoài còn đưa đến một thông điệp về giá trị sống: Trong cực khổ, bần hàn vẫn cần cố gắng, sống và quyết tâm vươn tới những chân trời tự do, tin tưởng ở tương lai tươi đẹp.
bài viết cùng người đăng