Trịnh Lữ - dịch giả, tác giả có tên tuổi và uy tín tại Việt Nam được nhiều người yêu nghệ thuật biết tới. Không biết khi đọc cuốn Rừng Na Uy của Murakami phiên bản tiếng Việt, bạn có để ý tới dịch giả Trịnh Lữ trên cuốn bìa? Tới những cuốn Ghi chép Trịnh Lữ hay mới đây là cuốn Vẽ Gì Cũng Là Tự Họa, câu chuyện nghệ thuật, chuyện đời, chuyện người với chữ nghĩa gắn kết với nhau, nội dung trong đó được viết bằng những trải nghiệm của ông. Ngôn từ của Trịnh Lữ rất giản dị gần gũi. Kể cả trong các cuốn sách dịch hay do ông là tác giả, mạch câu chuyện trong đó đều rất tự nhiên. Văn phong dịch những tác phẩm nổi tiếng nước ngoài nhưng không hề bị khô cứng, tựa như ngay ban đầu câu chuyện ấy đã được mang tới bằng ngôn ngữ tiếng Việt. Để biết thêm về những cuốn sách hay của tác giả, dịch giả Trịnh Lữ, hãy cùng khám phá những nội dung trong bài viết dưới đây bạn nhé!
6 Người trong bóng tối
Người Trong Bóng Tối – Tác giả Paul Auster (Cùng một tác giả: Trần trụi với văn chương; Nhạc đời may rủi)
… Giọng văn trong sáng và lối kể chuyện đầy bất ngờ của Atster khiến ta không thể gập sách lại nửa chừng.
… Có thể đây là tiểu thuyết hay nhất của Auster, một tổng hoà đau đớn của tất cả những cuốn sách đã góp phần làm nên nó. – Kirkus Review
Say đắm và choáng váng, Người trong bóng tối là cuốn tiểu thuyết về thời đại của chúng ta, một cuốn sách bắt chúng ta phải đối mặt với bóng đêm, mà vẫn ngợi ca cuộc đời với những niềm vui bình dị trong một thế giới có khả năng gây nên những bạo hành quái đảng nhất.- Time Out (Chicago)
… Người ta vẫn chết vì trái tim tan vỡ. Chuyện ấy xảy ra hàng ngày, và sẽ còn như vậy cho tới tận cùng thời gian…
“Thuốc đã tiêm. Brick đã chìm vào cái đen ngòm vô đáy của vô thức, và nhiều giờ sau đó hắn mở mắt và thấy mình đang nằm trên giường với Flora. Mới sáng sớm, độ bảy rưỡi hoặc tám giờ, và khi Brick nhìn tấm lưng trần của người vợ đang ngủ, hắn không biết liệu hắn có vừa lẫn lộn hay không, liệu mọi chuyện vừa xảy ra ở Wellington có phải chỉ là trong một giấc mơ tệ hại sinh động đến phát buồn nôn hay không. Nhưng ngay sau đó, hắn quay đầu trên gối và cảm thấy ngay cái vướng víu của đoạn băng dính mà Virginia đã dán lên má hắn, rồi khi lưỡi hắn đụng phải cái răng nanh bị gãy còn sắc lẻm, Brick bắt buộc phải chấp nhận sự thật: hắn đã ở đó, mọi việc xảy ra với hắn ở nơi ấy là có thật. Giờ thì chỉ còn độc một hy vọng mong manh: may ra thì hai ngày ở Wellington đã chỉ bằng một cái nháy mắt ở thế giới này. May ra thì Flora sẽ không bao giờ biết là hắn đã ỡ đó. Có như thế mới thoát đựơc vấn đề phải giải thích chuyện hắn đã đi đâu, vì Brick biết rằng sự thật sẽ rất khó nuốt, nhất là với một người đàn bà cả ghen như Flora, và khổ hơn nữa là hắn sẽ không đủ sức và cũng chẳng lòng nào mà bịa ra một câu chuyện cho nó có vẻ đáng tin hơn, một chuyện gì đó để chị đỡ nghi ngờ, để chị hiểu rằng sự vắng mặt hai ngày của hắn chẳng liên quan gì đến một người đàn bà nào cả…”
(Trích đoạn)
7 Nhạc đời may rủi
Đây là một tác phẩm mãnh liệt về tự do và tù đày, di động và tĩnh lại, trật tự và bất ngờ... Câu chuyện đẹp về bố cục và nhịp độ, giọng điệu hồi hộp đầy điềm triệu, văn phòng lôi cuốn, tinh tế, và mạnh mẽ.
Bất thường và hấp dẫn một cách lạ lùng... Trong câu chuyện rõ ràng mà đọc không dứt ra được này, Auster lẳng lặng nêu ra những câu hỏi bất an về gia nhân và chủ nhà, về lòng trung thành, tự do, và niềm ham muốn giết người không thể lí giải được.
Auster nhào nặn ngôn ngữ tiểu thuyết với con mắt của một thi sỹ và đôi tay của một người kể chuyện... Nhạc đời may rủi vẫn xuất sắc như các văn phẩm trước của ông, khiến người đọc có dịp thưởng thức một tác phẩm văn học đương đại hiếm hoi hấp dẫn nhất.
Câu truyện là một mê cung của những trận đấu trí văn chương. Ẩn dụ và hàm ý ngộ nghĩnh va đập nhau từ trang này sang trang khác. Nhạc đời may rủi là một tiểu thuyết xuất sắc về sự giao đãi của tự do và ngẫu nhiên, đem người đọc lên một chuyến du hành khủng khiếp vào cuộc sống nội tâm của một con người.
8 Trần trụi với văn chương
"Giới phê bình phương Tây gọi New York Trilogy là “tiểu thuyết trinh thám siêu hình”, là “giả tưởng phản trinh thám”, là “một biến tấu lạ lùng của thể loại trinh thám”, “một hỗn hợp của trinh thám và tân lãng mạn”, “một trò chơi chắp hình bằng thủy tinh”. Tất cả những cái đó khiến Paul Auster được liệt vào hàng văn sỹ hậu hiện đại. Tuy nhiên, khác với những văn phẩm hậu hiện đại điển hình vốn mang nặng phẩm chất “giả tưởng siêu hình” cùng các “yếu tố phản kháng”, New York Trilogy vẫn nhất quán trong lối kể chuyện, có cách nhìn tân hiện thực, và bộc lộ nỗi ưu tư đầy trách nhiệm của tác giả đối với những vấn đề xã hội và đạo đức. Có thể nói New York Trilogy là một dạng đặc biệt của tiểu thuyết trinh thám hậu hiện đại, vẫn dùng đến những yếu tố quen thuộc của tiểu thuyết trinh thám cổ điển, nhưng lại sáng tạo được một hình thức mới kết nối các đặc tính của thể loại này với các phẩm chất thử nghiệm, siêu hình và châm biếm mỉa mai của văn phong hậu hiện đại.
Đó là ý kiến của giới phê bình Âu-Mỹ mà tôi chắt lọc từ nhiều nguồn khác nhau để bạn đọc biết New York Trilogy đã được đánh giá như thế nào, chứ còn ngay từ năm 1987, khi mới chân ướt chân ráo đến New York và đọc ấn bản đầu tiên của nó, tôi đã thấy nó rất hay, mà đã biết tí gì về văn chương hậu hiện đại đâu.
Nhưng nói New York Trilogy hay như thế nào với bạn đọc ở đây thì thành chủ quan. Mà tóm tắt cốt truyện thì lại vô duyên, vì làm thế thì có khác gì mời bạn đi xem phim trinh thám rồi dọc đường đến rạp lại bô bô kể luôn ai bị giết ai bị bắt ai bị oan với những màn bất ngờ như thế nào mà cho đến giờ mình vẫn còn hồi hộp. Cho nên tôi chỉ xin phép nói mấy chuyện sau đây:
Vừa rồi tôi có đọc cuốn Đường Kách mệnh, in trong tập 1 của bộ Văn kiện Đảng toàn tập ra năm 2005, và thực sự kinh ngạc và khâm phục ngôn ngữ sáng rõ của nó. Vấn đề gì cũng được nói đến một cách giản dị, sáng sủa, không thể ngờ vực gì được, như thể từ ngữ chính là linh hồn của cái mà chúng nói đến. Thế rồi tôi nghĩ đến hệ thống văn bản hiện nay, cái nào cũng cần hàng loạt những tài liệu hướng dẫn, những văn bản dưới luật, mà vẫn khó tìm thấy những tương đương của các câu chữ nọ trong thực tế. Và tôi tự hỏi: ấy là vấn đề ngôn ngữ hay là vấn đề con người? Tại sao ngôn ngữ ngày càng mất tính chân xác và trở thành rối rắm như hiện nay? Làm thế nào để lại có thể ăn nói rõ ràng sáng sủa như trong Đường Kách mệnh? Chuyện đi tìm lại thứ ngôn ngữ chân xác này của con người này, lạ lùng thay, lại là một chủ đề cốt lõi của New York Trilogy.
Dạo hè vừa rồi tôi có dịch cuốn Tham vọng Bá quyền, bàn về tình hình thế giới sau sự kiện 11/9 – tức là sau khi tòa tháp đôi vĩ đại ở New York bị khủng bố phá sập. Hôm nọ lại đọc tin bên Dubai đang xây dựng một tòa tháp lớn nhất thế giới cao đến gần một cây số, bèn liên tưởng đến tòa tháp Babel huyền thoại, rồi ngẫm đến lịch sử loài người, rồi bỗng nhận ra rằng cái hệ lụy bi thảm trong ngôn ngữ và văn chương của tham vọng loài người cũng lại là một chủ đề của New York Trilogy.
Tháng trước thì đọc thấy trên mạng một loạt những bài viết và ý kiến nhân hội nghị lí luận phê bình của Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ở Đồ Sơn. Hình như ai cũng cố đề cập đến công việc và nội tâm của những người sống bằng ngôn ngữ và nghề viết. Lúc ấy tôi đang dịch đến đúng đoạn giai thoại về cái bô đầy cứt trong phòng ngủ của nhà thơ Mỹ vĩ đại Walt Whitman và bộ óc của ông bị đánh rơi tung tóe xuống sàn phòng thí nghiệm (sau khi ông chết), rồi nhận xét của một nhân vật về hình thức tương tự giữa cái bô cứt và bộ óc của con người phi thường ấy. Nhân vật ấy kết luận rằng: ‘Chúng ta luôn nói đến chuyện cố thâm nhập vào bên trong một nhà văn để hiểu rõ hơn công việc của ông ta. Nhưng khi vào thẳng trong đó rồi thì lại chẳng thấy gì nhiều – nghĩa là nội tạng ai thì cũng vậy thôi, chẳng khác nhau là mấy.’ Than ôi, đúng là chẳng khác nhau là mấy về hình thức, nhưng cái thế giới nội tâm của người sinh ra để viết văn vẫn cứ là một bí hiểm khôn lường. Và lạ lùng thay, hình như cái bí hiểm khôn lường ấy mới là chủ đề xuyên suốt của tập trinh thám siêu hình hậu hiện đại này.
Thế rồi tôi chợt nhận ra rằng cả ba cái chủ đề nói trên thực ra chỉ là triển khai của một ý niệm cơ bản duy nhất, ấy là tấn kịch bi tráng của giấc mộng và sự nghiệp văn chương khi người cầm bút phải loại bỏ mọi giả hình để trực giao trần trụi với bản thân và thế giới trên con đường đi tìm ngôn ngữ đích thực để diễn ngôn sự thật. Cái giá phải trả cho văn chương thật là ghê gớm!
Lạ thay, đúng lúc ấy thì tôi nhận được email của biên tập, nói liệu có nên dịch cái đầu đề New York Trilogy là Bộ ba truyện New York hay không? Có thể đại đa số bạn đọc Việt Nam sẽ hiểu Bộ ba truyện New York là ba câu chuyện gì đó về thành phố hoặc tiểu bang New York ở bên Mỹ. Mà hiểu nhầm như vậy thì rất thiệt cho độc giả. Sau khi thảo luận tới 9 phương án khác nhau, chúng tôi mới quyết định đặt tên cho bản dịch tiếng Việt này của New York Trilogy là TRẦN TRỤI VỚI VĂN CHƯƠNG. Chúng tôi tin rằng đây là tên gọi gần gụi nhất với tấn kịch bi tráng mà Paul Auster đã mô tả rất lạ lùng trong ba câu chuyện hoàn toàn độc lập mà lại quan hệ chặt chẽ với nhau này.
Để câu chuyện đậm đặc các vấn nạn hiện sinh của mình được chân xác, Paul Auster, cũng như các nhân vật của ông, đã viện đến nhiều giai thoại lịch sử về những số phận khác nhau, và cách viết này, cộng với cấu trúc nhiều nguồn của các câu chuyện, đã khiến cho Trần trụi với văn chương trở thành một văn phẩm mà người đọc cảm thấy không biết ai thực sự là tác giả. Chính Paul Auster cũng xuất hiện trong truyện, với tên thật của mình, tên vợ tên con thật của mình (Siri là vợ hiện nay của ông, và hai người con là Daniel và Sophie). Nhân vật xưng tôi trong Căn phòng khóa kín thì lại xưng là tác giả của cả Thành phố thủy tinh lẫn Những bóng ma; và còn nói rằng cả ba truyện trong tập này thực ra chỉ là một câu chuyện, diễn biến theo ba giai đoạn. Bạn cứ đọc đi đã rồi sẽ tự tìm ra được câu chuyện ấy. Phải chăng đó cũng là một đặc tính của văn chương hậu hiện đại: đặc tính interactive – tương tác: người đọc phải tham gia và tự tìm thấy câu chuyện cùng nghĩa lí của nó. Trần trụi với văn chương là một văn bản mở. Với một văn bản như thế này, bạn đọc nên coi mình cũng là tác giả, và nếu tác giả đã viết nó ý tứ và thận trọng như thế nào thì ta cũng nên đọc nó ý tứ và thận trọng như vậy, rồi sẽ ngộ được cái khoái cảm đặc biệt mà loại văn chương này mang lại.
Để giúp bạn đọc thưởng thức tối đa cái khoái cảm đã hứa hẹn ấy, tôi có dùng một số giải pháp dịch thuật theo lí thuyết Skopos – đặt mục tiêu phục vụ người đọc lên hàng đầu – để vừa chuyển tải được hết ý vừa giữ được liền mạch văn của tác giả cũng như mạch đọc của độc giả; đồng thời cũng cố gắng chú thích hết những chi tiết mà tôi cho là bạn đọc có thể chưa biết, mà lại rất nên biết để thưởng thức câu chuyện đặc biệt này.
Thành phố New York là nơi tôi đã trải qua những chuyện lạ lùng nhất trong đời mình. Có lẽ vì vậy mà từ lâu tôi đã muốn dịch New York Trilogy. Tôi xin có lời cảm ơn nhà sách Phương Nam đã tin rằng công việc có động cơ cá nhân này sẽ giúp bạn đọc mở thêm một cửa sổ nhỏ nữa vào thế giới kì thú của văn chương Mỹ đương đại. Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Carol Mann và Paul Auster đã không ngại trả lời nhiều câu hỏi của tôi trong khi dịch cuốn sách này.
Bây giờ thì mời bạn đọc hãy bước vào thế giới của Paul Auster như một thám tử văn chương, rồi thể nào bạn cũng phát hiện ra những điều kì thú."
9 Biển
Khi Max Morsden, một nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật trở về vùng đất ven biển nơi ông đã từng trải qua thời thơ ấu, đó là khi ông đang chạy trốn khỏi nỗi đau mất đi người vợ yêu quý, và đối mặt với một chấn thương tinh thần ngày xưa.
Vào một ngày hè đã xa, gia đình nhà Grace xuất hiện nơi đây như từ một thế giới khác. Ông Grace, bà Grace, với sự nhẹ nhõm và tô tư của họ, không giống bất kỳ người lớn nào mà cậu bé Max Morden từng biết tới. Nhưng chính những thiếu niên cùng tuổi với cậu, hai đứa con sinh đôi kỳ lạ nhà Grace, mới là tâm điểm thu hút. Tình yêu vọng tưởng mà cậu dành cho bà mẹ Connie Grace chuyển sang cô con gái Chloe Grace lập dị và quyến rủ. Rồi tấn bi kịch đã xảy ra, trên vùng biển hoang sơ mang sắc thái tăm tối nhưng vĩ đại như chính bản thân cuộc sống, cho cậu cảm nhận đầu tiên về cái chết, ám ảnh cậu suốt phần đời còn lại, vĩnh viễn làm thay đổi những gì đến sau...
Được viết với một thứ văn xuôi sáng rõ, đẹp đẽ đến độ ám ảnh, Biển vừa xoa dịu nỗi đau vừa là một khúc suy tưởng kỳ lạ về bản thể và dĩ vãng. Cuốn hút, cảm động và soi sáng, không còn nghi ngờ gì, đó là một trong những tác phẩm văn chương ưu tú nhất đến từ một bậc thầy xuất chúng về ngôn ngữ của văn chương thế giới.
Cuốn sách đoạt giải Booker 2005 của John Banville, qua sự chuyển ngữ bậc thày của Trịnh Lữ, một "tác phẩm ngôn từ" đã được tái hiện đẹp đẽ trong tiếng Việt.
Biển được thuật lại bởi Max Morden, một người đàn ông mới góa vợ. Ông đến một vùng nghỉ mát ven biển nơi mình đã trải qua kỳ nghỉ hè với cha mẹ khi còn là một đứa trẻ. Bề ngoài, ông đang làm một khảo cứu về họa sĩ Bonnard, nhưng thực chất chính sự lôi cuốn của biển và quá khứ đã dẫn ông về đây. Vẫn đau buồn về cái chết của người vợ Anna, vẫn vật lộn với nỗi đau phải chứng kiến người thân yêu của mình mòn mỏi rồi ra đi, trong khi bản thân mình vẫn tồn tại, cùng nỗi khó khăn khi phải tiếp tục sống, một mình.
Sự lôi cuốn của biển nơi vùng đất riêng biệt này trở nên mạnh mẽ với những lý do không phải đã rõ ràng ngay lập tức. Nhưng đó không chỉ đơn thuần là nỗi hoài tiếc tuổi thơ đã mất, hay một chuyến trở về với mảnh đất hạnh phúc, an toàn và giản dị hơn của ngày xưa. Quả thực, còn có bóng tối, sự dữ dội và tiêu điều của vùng biển, gợi lại một ký ức vừa ngọt ngào vừa đau đớn.
Câu chuyện là sự trở đi trở lại giữa hiện tại và quá khứ, giữa chuyện mới xảy ra, cái năm tai họạ khi Anna suy sụp rồi chết, tới mùa hè thời niên thiếu khi cậu bé Max Morden trải qua cùng với gia đình Grace, một gia đình trung lưu đã đến vùng biển để nghỉ hè. Đầu tiên cậu bị người mẹ thu hút, nhưng khi đến gần hơn hai đứa con sinh đôi nhà Grace, Chloe và Myles câm lặng, thì rốt cuộc, cậu quay sang mê mẩn cô con gái. Sự thất thường kỳ dị của Chloe, và mối quan hệ gần gũi của cô gái này với đứa em trai – một mối liên kết không thể hiểu nối với người ngoài - đã là một điều bí ẩn đối với Max, theo cái cách thế giới với tất cả những điều còn chưa biết đến của nó đều khiến những đứa trẻ vừa mê mẩn vừa hạnh phúc, cái thế giới nguyên sơ, tăm tối, đầy cảm giác đó. Rồi cái chết sau đó của hai chị em sinh đôi, như một chấn thương đầu đời của Max, cũng là lần đầu tiên cái chết hiện ra, đột ngột, lạnh lẽo, đơn giản, không thể hiểu nổi với một đứa trẻ. Sau này, cái chết của Anna vừa đồng vọng, vừa làm sống dậy những ký ức sâu sa đó, trên cái nền vĩ đại và sống động của biển.
Với Biển của Banville, ký ức cũng có thể chơi trò chơi của mình, và hành trang của Max chính là một hòa trộn giữa những sự kiện sáng rõ và những câu hỏi tự thân. Banville đã miêu tả một cách bậc thày, việc chúng ta sống lại quá khứ như thế nào - quá khứ là một hòa trộn giữa những ký ức ta chọn và những ký ức thống trị ta, và những chuyển dịch giữa sáng rõ tuyệt đối và mơ hồ mơ mộng. Max tưởng tượng mình đang sống đơn độc trong những ký ức được nhớ lại từ quá khứ, nhưng ông nhận ra - và từng bước chứng thực - rằng ký ức không thường hằng, cái dải mờ có khe rạn đó, rằng nó, quả thực như một sự cương phồng khổng lồ vĩnh viễn đổi thay, đó chính là biển cả.
Biển mang lại cho ta cảm giác về một câu chuyện thật tình cờ, một người đàn ông buồn khổ uống quá nhiều rượu và suy ngẫm lại cuộc sống một cách ngẫu nhiên. Những cú nhảy giữa hiện tại, quá khứ với Anna và thời thơ ấu của Max, hầu như đã che giấu việc câu chuyện đã được xây dựng xuất sắc đến mức nào, với biết bao những manh mối nhỏ về những điều khác biệt được rải rác cài trong các đoạn. Đó là cuốn sách xứng đáng để ta đọc đi đọc lại nhiều lần. Cũng như vậy, ngôn từ của Banville có thể làm độc giả choáng ngợp, với những câu như “bát nước khổng lồ kia đang cương phồng lên như một vết phỏng rộp xanh lét bóng nhẫy một cách ác hiểm” và cứ như thế... Ở đây, tình tiết đã bị đe dọa lấn át bởi phong cách.
Cuối cùng, chỉ xin dẫn lời của John Crowley của tờ The Washington Post dành cho tác phẩm xuất sắc đoạt giải Booker 2005 của một bậc thày về ngôn từ của không chỉ văn chương nước Anh:
"Dường như Max (và người sáng tạo ra mình) không chỉ tham gia vào việc tạo nên những hành động của nhân vật xuyên qua thời gian - một công việc bình thường của tiểu thuyết - mà vẽ nên những khoảnh khắc khi tất cả đã ngưng đọng lại, như trong một bài thơ hay một bức tranh... Sức mạnh, sự lạ lùng, và vẻ đẹp của những đoạn văn trong đó chính là tất cả, và là một điều kỳ diệu".
Sự kỳ diệu đó có thể được cảm nhận đầy đặn qua một bản dịch có thể được coi như một dấu son trong sự nghiệp dịch của bất kỳ một dịch giả tài ba nào. Quả thực, lần này nữa là với Biển, Trịnh Lữ đã làm được nhiều cho tình yêu của ông dành cho tiếng Việt mẹ đẻ.
10 Hội Hoạ Trung Hoa Qua Lời Các Vĩ Nhân Và Danh Hoạ
Đây chắc chắn là một cuốn sách dùng để gối đầu giường, về lĩnh vực hội họa. Một hợp tuyển thông minh do Lâm Ngũ Đường thực hiện nhằm mô tả sự phát triển của nghệ thuật Trung Hoa trong một giai đoạn kéo dài hơn hai mươi thế kỷ, từ những suy ngẫm sớm về hội họa của Khổng Tử tới những bản văn do các nghệ sĩ bậc thầy của thế kỷ 17, 18 viết. Tuyển chọn của Lâm Ngữ Đường bao quát tất cả các khía cạnh của lối vẽ, cùng với những tiểu luận đặc sắc về việc sưu tập, sự sành điệu, về giá cả và sự định giá tranh vẽ, về thư pháp. Phần giới thiệu cung cấp cho ta một cái nhìn sáng rõ về hội họa Trung Hoa và sau mỗi trích đoạn lại có một thuyết minh dễ chịu. Với vô số tranh minh họa, nhiều bảng biểu về triều đại, ảnh hưởng, một danh mục dài với đầy đủ tên tuổi họa sĩ, danh hiệu. Hội họa Trung Hoa qua lời các vĩ nhân và danh họa thật sự xứng đáng là một cuốn sách hữu ích cho các nhà sưu tầm, các sinh viên và những người yêu nghệ thuật.
- Trịnh Lữ
- tác giả Trịnh Lữ
- dịch giả Trịnh Lữ
- sách hay của Trịnh Lữ
- Trịnh Lữ nghệ thuật
- Trịnh Lữ hội họa
- tác giả nổi tiếng
- dịch giả nổi tiếng
- rừng na uy Trịnh Lữ
- rừng na uy murakami
- ghi chép trịnh lữ
- vẽ gì cũng là tự họa
- cuộc đời của pi
- dịch giả cuộc đời của pi
- dịch giả rừng na uy
- Hội Hoạ Trung Hoa Qua Lời Các Vĩ Nhân Và Danh Hoạ
- biển trịnh lữ
- đại gia gatsby
- người trong bóng tối
- nhạc đời may rủi
- trần trụi với văn chương