Đoạn trích "Hạnh phúc của một tang gia" là phần nội dung rất đặc sắc nằm trong tác phẩm "Số đỏ". Đó là một trong những tác phẩm góp phần làm nên tên tuổi của tác giả Vũ Trọng Phụng. Đặc biệt, nghệ thuật trào phúng chính là một đặc sắc nghệ thuật ấn tượng giúp tài năng của tác giả được bung tỏa trong toàn tác phẩm. Nghệ thuật trào phúng trong tác phẩm được đẩy lên đỉnh cao vừa phô bày hiện thực xã hội nực cười trong gia đình và xã hội bấy giờ, vừa châm biếm đầy chua xót những hiện thực ấy. Để tìm hiểu rõ hơn về nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích, hãy cùng đến với những dàn ý và bài phân tích được tham khảo và chọn lọc dưới đây bạn nhé!
1 Dàn ý phân tích chi tiết
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Vũ Trọng Phụng: nhà văn hiện thực phê phán có sức viết hăng say, được mệnh danh là “Ông vua phóng sự Bắc Kỳ”.
- Phong cách nghệ thuật: khai thác những mâu thuẫn trong cuộc sống, phê phán lối sống giả dối của giai cấp tư cho là thượng lưu trong xã hội.
- Thành công của tác phẩm chính là vạch trần bộ mặt xấu xa, giả dối của những người văn minh, âu hóa thông qua tiếng cười trào phúng sâu cay.
2. Thân bài:
2.1. Luận điểm 1: Nghệ thuật trào phúng là gì?
Nghệ thuật trào phúng chính là nghệ thuật tạo nên những mâu thuẫn trong tình huống truyện, từ đó tạo nên tiếng cười mang dụng ý phê phán, lên án xã hội.
2.2. Luận điểm hai: Mâu thuẫn trào phúng
- Mâu thuẫn trào phúng thể hiện trong nhan đề của tác phẩm. Theo lẽ thường, tang gia phải gắn với đau khổ nhưng trong trường hợp này, tang gia lại mang đến hạnh phúc.
- Cả gia đình đều cho rằng việc sống thọ của cụ cố Tổ là “trái lẽ thường”, là “bệnh nặng vì không bệnh gì cả” (cụ cố Hồng mơ màng nghĩ đến lúc mặc đồ xô gai, vừa chống gậy vừa ho khạc, gia đình Văn Minh mong ông cụ chết để được ra mắt sản phẩm mới, cô Tuyết muốn gặp được Xuân trong đám tang của ông cụ, ông Phán muốn ông cụ chết để được chia gia tài). Một gia đình tự cho là văn minh, hiện đại nhưng chính gia đình ấy là tập hợp của những con người “đại bất hiếu”.
- Sự vắng mặt của Xuân Tóc Đỏ khiến mọi người lo lắng bởi “Thiếu ông đốc tờ Xuân là thiếu tất cả, những ông thầy thuốc chính hiệu đã thất bại hoàn toàn”.
- Chi tiết cụ Cố Hồng cứ luôn mồm nói: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi” mặc dù bản thân mình chả biết gì.
2.3. Luận điểm 3: Cảnh “đám ma gương mẫu” diễn ra đầy những sự giả dối
- Cảnh đám cứ đi:
- Bề ngoài đám tang được tổ chức long trọng nhưng chẳng khác nào đám rước nhố nhăng, hổ lốn: có đủ kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, kèn Tây, kèn Ta, kèn Tàu, vòng hoa, câu đối….; người đưa tang rất đông nhưng chẳng ai thương xót cho người quá cố.
- Điệp khúc “Đám cứ đi” thể hiện sự quyến luyến giả dối, cốt yếu chần chừ, chậm chạp để khoe mẽ sự giàu có và hoành tráng của đám tang.
- Đoàn phúng viếng của Xuân Tóc Đỏ và sư cụ Tăng Phú chen ngang đám tang một cách vô học nhưng lại đem đến sự mừng rỡ và tự hào cho gia đình.
- Cảnh hạ huyệt: đỉnh điểm của tiếng cười trào phúng:
- Cậu Tú Tân biểu diễn cảnh chụp ảnh, mọi người trong gia đình “diễn” rất phù hợp, trở thành những diễn viên đại tài.
- Ông Phán Mọc sừng khóc to những âm thanh lạ đến lả người đi. Sự giả dối, lố bịch lên để cực điểm khi bên huyệt của người chết, ông Phán thực hiện “cuộc giao thương” với Xuân khi vừa khóc vừa đưa tờ năm đồng gấp tư với mong muốn sẽ có nhiều cơ hội “hợp tác” kiếm tiền đơn giản như thế.
2.4. Luận điểm 4: Đánh giá
- Nghệ thuật: lựa chọn chi tiết đắt giá, phát hiện những đối lập gay gắt, cường điệu, nói ngược, nói mỉa.
- Nội dung: Nghệ thuật trào phúng đã tạo nên tiếng cười sâu cay, mỉa mai, khinh bỉ.
3. Kết bài:
- Vũ Trọng Phụng đã rất thành công khi vạch trần bộ mặt xã hội đầy những giả dối, bất nhân, bất hiếu.
- Đó là tiếng cười vừa thông minh sắc sảo, vừa đầy khinh bỉ của tác giả dành cho một tầng lớp xã hội nhố nhăng, lố bịch.
2 Bài phân tích số 1
Số đỏ là tiếng cười châm biếm có giá trị tố cáo và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đám ma cụ cố Tổ đích thực là một màn hài kịch, diễn viên là bầy con cháu và lũ quan khách, đã phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của xã hội nhuốm màu sắc “Âu hóa” kệch cỡm.
Năm 1939, Vũ Trọng Phụng bước sang tuổi 24. “Ông vua phóng sự đất Bắc” liền cho ra đời năm tác phẩm lừng danh: “Giông tố”, “Số đỏ”, “Làm đĩ”, “Vỡ đê'’ và “Cơm thầy cơm cô”. Tác phẩm của ông được đánh giá là “vào loại xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam từ khi có chữ quốc ngữ”. Trong đó, “Số đỏ” với nghệ thuật trào phúng bậc thầy, nó được coi là một kiệt tác bất hủ trong văn chương đương thời. Vũ Trọng Phụng đả kích cực kì cay độc với xã hội trường giả tư sản thành thị đang chạy theo lối sống “Âu hóa” văn minh rởm, hết sức đồi bại và lố lăng đương thời. “Số đỏ” chỉ dài độ 200 trang nhưng nhung nhúc những hạng người xấu xa, đê tiện như mẹ Tây, ma cà bông, giới cảnh sát, nhà chùa, đám du học, có cả nghệ sĩ, y học, giới báo chí... Vũ Trọng Phụng đã từng tuyên bố: “Riêng tôi, xã hội này, tôi chỉ thấy là khốn nạn, quan tham, lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, xã hội chó đểu...’’. Chương XV với cái tiêu nhan đề: “Hạnh phúc của một tang gia” đã đem đến cho người đọc bao thú vị như được mục kích một màn hài kịch trong bộ “Tấn trò đời” của xã hội thực dân phong kiến.
Nhan đề chương XV là một nghịch lí đầy ý vị, chua cay. Tang gia là gia đình có tang, ở đây là đại tang tất phải đau thương buồn thảm. Ấy vậy mà lại hạnh phúc. Cái gia đình tam đại đồng đường này, khi cụ Tổ hơn 80 tuổi phải chết đã làm cho lũ con cháu “sung sướng lắm!”.
Vũ Trọng Phụng đã xây dựng thành công một tình huống điển hình để phơi bày những bộ mặt đồi bại trong cái gia đình trưởng giả này, vạch trần những cặn bã, những quái thai của cái xã hội dở ta dở tây buổi ấy.
Cha chết, ông chết “bọn con cháu vô tâm cũng sung sướng thỏa thích". Đây là dịp hiếm có để khoe của, khoe giàu, phô cái sang ra cho thiên hạ biết. “Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma...". Niềm vui tràn ngập: “tang gia ai cũng vui vẻ cả”.
Người con trai cả - cụ cố Hồng - hút liền một chập 60 điếu thuốc phiện, hả hê lim dim đôi mắt. Bữa nay, cha chết, cụ vui vẻ lắm, nhưng thằng bồi tiêm vẫn còn đếm được 1872 cáu gắt: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”. Trong cái dư vị êm ái của thuốc phiện, cụ “nhắm nghiền mắt lại để mơ màng" đến cái giờ phút hạnh phúc “hạnh phúc nhất: mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu” để cho thiên hạ phải trầm trồ: “một cái đám ma như thể, một cái gậy như thế” ... rồi ngạc nhiên chỉ trỏ: “úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa...”. Con trai đã “báo hiếu” cha như vậy! Đó là một nét biếm họa thần tình. Tâm hồn sa đọa, đạo lí suy đồi đến cùng cực, từ cha đến con.
Hai đứa cháu nội của cụ Tổ xuất hiện giữa đám tang với bao nét kệch cỡm lố lăng. Văn Minh đi Tây du học 6-7 năm mà chẳng có một “mảnh bằng nào cả” về nước hắn mở hiệu may để cổ vũ cho cái trò “Âu hóa” nhằm “phô ra những bộ phận kín đáo của phái đẹp”. Ông nội chết, đứa cháu quý hóa này nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài, thích thú ra mặt vì “cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa”. Cậu Tú Tân thì mở cờ trong bụng, được dịp trổ tài bấm lách tách “mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến". Lúc đưa tang, cậu lăng xăng chạy lên chạy xuống, cậu dàn cảnh, cậu đạo diễn lúc hạ huyệt bắt bẻ từng người cách “chống gậy”, “gục đầu, “cong lưng”, “lau mắt”, như thế này, thế nọ để cậu bấm máy. Y “luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng” như một tên hề!
Vũ Trọng Phụng đã tả đám ma cụ Tổ bằng nhiều nét hoạt ké, châm biếm sâu cay cái rởm đời của bọn thượng lưu tha hóa. Một đám ma to tát “một đám ma gương mẫu” nhưng chẳng qua là một đám rước xách. Có kiệu bát cống lợn quay đi lọng. Có lốc bốc xoảng và bu dích. Có nhiều vòng hoa, 300 câu đối, vài ba trăm người đi đưa. Đúng là một đám ma tạp pí-lù “theo cái lối Ta, Tàu, Tây”. Bởi thế nên bầy con cháu thì hạnh phúc, còn “người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu...”. Lấy cái phi lí để vạch trần cái lố lăng, đồi bại là một nét vẽ cực kỳ sắc sảo, độc đáo trong nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng.
“Có bao đám khách” quý phái và “sang trọng” đến đưa ma cụ cố Tổ. Phụ nữ chiếm một nửa, là “giai thanh gái lịch”, là bạn của Tuyết và bà Phó Đoan.. Họ không đến đưa tang mà là để “cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau. Bọn mày râu, bạn của cụ cố Hồng đến đưa tang để khoe mẽ “ngực đầy những huy chương” của “nước mẹ" hay của bọn bù nhìn ban phát cho. Khi tả bộ râu của đám quan khách này, tác giả “Số đỏ” đã sáng tạo nên những chi tiết, những ngôn từ và giọng điệu trào phúng chua cay. Một lối nói nhạo, chế giễu thần tình. Trên mép và cằm các ông trưởng giả khoe “tài” khoe “đức” ấy “đếm đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăng quăng...”. Người đọc phải bấm bụng mà cười khi đọc đoạn văn tả những bộ râu ấy. Đằng sau bộ râu kia là những mặt người tha hóa vô luân.
Vũ Trọng Phụng đã dùng thủ pháp “phục bút” khi tả sự xuất hiện của Xuân Tóc Đỏ. Tuyết mặc bộ “Ngây thơ” đi mời trầu và thuốc lá quan khách với “vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám”. Cô vô cùng sung sướng khi thấy “anh Xuân” đã đến bên “liếc mắt đưa tình... để tỏ ý cảm ơn”. Xuân Tóc Đỏ đã đến đưa đám một cách sang trọng cực kì, với sáu chiếc xe, với sư chùa Bà Banh, với sư cụ Tăng Phú, hai vòng hoa lớn... đã làm cho cụ bà sung sướng kêu lên: “Ấy, giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi!”. Xuân chẳng giận lại còn đến phúng viếng rất to, làm cho đám ma cụ cố Tổ trở nên “danh giá nhất tất cả”.
Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, ông Phán “mọc sừng” vốn đã nhờ “đôi sừng hươu” ấy mà được bố vợ chia cho thêm vài nghìn đồng bạc, trong lúc khóc thật to: “Hứt! Hứt! Hứt...” để báo hiếu vẫn không quên giữ chữ “tín” với ân nhân. Ông ta đã “dúi vào tay” Xuân “một cái giấy bạc 5 đồng gấp tư”. Cuộc mua bán hay trả nghĩa diễn ra sòng phẳng và kín đáo quá! Xuân và ông Phán “mọc sừng” như một cặp bài trùng, hai diễn viên siêu hạng. Chính cảnh này là tột đỉnh của sự trào lộng trong màn hài kịch “đám ma gương mẫu”. Chính ở cảnh này, sự bịp bợm, giả dối và thô bỉ của bọn “thượng lưu”, đã lên tới độ vô liêm sỉ quá ghê tởm. Những con người “chó đểu” trong cái xã hội “chó đểu” là như thế đó!
Tóm lại, qua chương “Hạnh phúc của một tang gia”, Vũ Trọng Phụng thể hiện xuất sắc tài kể chuyện và nghệ thuật hoạt kê trong miêu tả. Cái tài của tác giả “Số đỏ” là đã phóng đại những bức chân dung biếm họa, những cảnh đời lố lăng theo thủ pháp của nghệ thuật trào phúng làm cho người ta cười mà thấy được bao sự thật chứa đựng ở trong đó; Chuyện kể đầy kịch tính với bao sự phi lí đến ghê người đã lật tung cái mặt nạ của bọn đạo đức giả!
Tiếng cười trong “Số đỏ” là tiếng cười châm biếm có giá trị tố cáo và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đám ma cụ cố Tổ đích thực là một màn hài kịch, diễn viên là bầy con cháu và lũ quan khách, đã phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại của xã hội nhuốm màu sắc “Âu hóa” kệch cỡm.
3 Bài phân tích số 2
Từ lâu nhiều người đã kể Số đỏ của Vũ Trọng Phụng vào hàng những tác phẩm xuất sắc của thể loại tiểu thuyết trào phúng. Số đỏ như chính là hiện thân của nghệ thuật trào phúng trong văn xuôi Việt Nam. Với Số đỏ người đọc được cười từ đầu đến cuối, cười một cách hả hê, thoải mái. Nhưng cũng với Số đỏ người đọc phải phẫn uất mà kêu lên: Trời, cái xã hội gì, cái lũ người gì mà giả dối, bịp bợm đến thế, bất nhân bạc ác đến thế.
Đọc Số đỏ, người ta nghĩ: đây đúng là đất sở trường của Vũ Trọng Phụng, đây thật là ngón võ sở trường của Vũ Trọng Phụng tác phẩm này, ngón võ ấy được sử dụng một cách cực kì lợi hại trong một chương, chương XV, có nhan đề là Hạnh phúc của một tang gia.
Ngón võ ấy là ngón gì? Ấy chính là nghệ thuật tạo mâu thuẫn. Thật ra thì không phải Vũ Trọng Phụng tạo ra mâu thuẫn. Mâu thuẫn vốn nó tự có trong bản chất xã hội, và nhà văn họ Vũ, với cái nhìn sắc như dao của mình, với cái tài của một nhà trào phúng bẩm sinh, đã nhận ra nó, chỉ nó ra, nâng nó lên cho cả bàn dân thiên hạ nhìn thấy, để cười, để căm ghét và khinh bỉ nó.
Cách đặt nhan đề chương sách của Vũ Trọng Phụng đã lạnh lùng, đầy mâu thuẫn: Hạnh phúc của một tang gia. Tang gia mà cũng hạnh phúc à? Tang gia mà cũng có thể hạnh phúc được ư? Cái chết, cái chết của người thân gia đình có thể đem lại cho người ta hạnh phúc được sao? Nếu chỉ đọc nhan đề, người ta có thể nghĩ là nhà văn đã bịa ra, bịa ra một cách ác ý sự kết hợp của hai khái niệm hoàn toàn đối lập ấy. Nhưng không, đó không phải là ác ý của nhà văn, đó là sự thật của đời sống, sự thật của một xã hội mà nhà văn muốn mổ xẻ ra để mọi người nhìn thấy nó tận mặt.
Mọi sự bắt đầu từ cái chết của một ông già. Ông già ấy là cha, là ông của một gia đình đông đảo và đáng kính của một xã hội thượng lưu. Cả gia đình ấy đã nhao lên, nhao lên mỗi người một cách. Nhao lên vì đau khổ, vì đau đớn, vì lo lắng.. trước cái chết của người thân chăng? Không phải, chúng đã nhao lên vì... hạnh phúc! Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng. Câu văn tưởng chừng ngược đời kia của Vũ Trọng Phụng đã thâu tóm cả một thứ thế thái nhân tình.
Nhận định ấy không hề là một sự bịa đặt cho vui của nhà văn. Sự thật rành rành rết cụ thể này đây: Ông Phán mọc sừng, sau cái chết của ông bố vợ, bỗng thấy cái sự mọc sừng của mình đột nhiên tăng giá lên thêm vài nghìn đồng. Cụ cố Hồng sung sướng mơ màng đến cái lúc mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa kho khạc vừa khóc mếu để được người ta ngợi khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế...Còn ông Văn Minh, cháu đích tôn, nhà cải cách xã hội? Ông ta sung sướng tột đỉnh, bởi vì, với cái chết của ông nội, ông ta thấy rằng cái tờ di chúc đã được thực hiện, nghĩa là cái ao ước cho ông nội mình chết đi, để chia của, đã trở thành sự thật. Bà Văn Minh sung sướng theo đúng cách của một phụ nữ tân thời, bà ta nhận ra từ cái chết của ông nội chồng một dịp may hiếm có để có thể mặc trang phục tân thời, đồ xô gai tân thời của tiệm may Âu hóa.
Tâm địa cái lũ người kia tưởng đến thế đã là tởm. Nhưng chưa hết. Đến đây, Vũ Trọng Phụng còn đầy mâu thuẫn lên một tầng nữa. Bởi bọn con cháu bất hiếu bất mục nhất trần đời đó còn muốn tỏ ra mình là những kẻ có hiếu có thảo cũng nhất trần đời nữa kia. Thế là dưới ngòi bút của nhà văn trào phúng, sự bịp bợm cao nhất, đáng phỉ nhổ nhất cũng bộc lộ ra. Những kẻ mong cho ông già mau chết đã tổ chức một đám ma thật to để bày tỏ lòng hiếu thảo, nghĩa tiếc thương đối với người đã chết! Chính vì thế, ngòi bút của Vũ Trọng Phụng đã tập trung sức mạnh, như có thần, trong phần thứ hai của chương sách, nghĩa là phần tả cảnh đám ma.
Trước hết, nhà văn tả cô Tuyết, một cô gái hư hỏng nhưng chỉ hư hỏng một nửa, một thứ thiếu nữ đang rất tiêu biểu trong xã hội tân thời ngày ấy. Tuyết mặc bộ trang phục ngây thơ nửa kín nửa hở, với nét mặt có vẻ buồn lãng mạn (vì nhớ nhân tình chứ không phải vì thương người chết) đã gây một hiệu quả lạ lùng: các vị tai to mặt lớn đi đưa đám chỉ nhìn vào vẻ khơi gợi của Tuyết để mà cảm động, cứ như thực sự cảm động trước nỗi buồn tang tóc vậy.
Đám ma thật to, to đến nước có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng. Người ta đã lợi dụng đám ma đến mức cao nhất để khoe giàu khoe sang và khoe lòng hiếu thảo giả vờ của mình! Nếu như mong muốn của tất cả đám con cháu của người chết kia là, trong đám ma này, đưa ra sự giả dối, bịp bợm đồng thời cũng là sự tàn nhẫn, bất nhân, đểu giả của mình lên đến mức hoàn toàn, thì quả thật chúng đã đạt được một cách trọn vẹn xuất sắc.
Nhưng chưa hết đâu, dưới mắt Vũ Trọng Phụng, cái lũ người giả dối không chỉ bao gồm một nhóm nhỏ ấy đâu. Chúng đông đảo lắm. Chúng là toàn xã hội.
Bắt đầu là đại diện bộ máy cảnh sát, nghĩa là đại diện của Nhà nước: thầy Min Đơ và thầy Min Toa. Tác giả đã nói đến vẻ mừng rỡ hí hửng của hai thầy khi được nhà chủ đám ma thuê làm người giữ trật tự. Lí do của sự mừng rỡ duy nhất chỉ là vị họ đang không có việc gì để làm, và đang rầu như nhà buôn sắp vỡ nợ. Thứ đến là các vị tai to mặt lớn, Lớp tinh hoa của giới thượng lưu xã hội, mặt mũi long trọng, ngực đeo đầy đủ thứ bội tinh. Trong đám ma này, sự cảm động của họ không phải vì tưởng nhớ đến người đã khuất, cũng không vì tiếng kèn đưa ma não ruột bi ai, mà chỉ vì... được ngắm không mất tiền làn da trắng thập thò trong làn áo mỏng của cô Tuyết.
Sự xuất hiện của hai tên đại bịp trong dịp này lại khiến người ta cảm động đến cực điểm: Xuân Tóc Đỏ và sư cụ Tăng Phú. Vì sao? Vì với sáu chiếc xe kéo và những vòng hoa đồ sộ, hai kẻ này đã làm cho đám ma thêm long trọng, to tát. Đến bà cụ cố Hồng, có lẽ người lương thiện nhất trong cái gia đinh vừa hư hỏng vừa đại bịp ấy, cũng cảm động đến hớt hải lên.
Những người đi đưa đám thật đông đảo. Bằng điệp khúc Đám cứ đi… được nhắc lại đến mấy lần, tác giả như muốn nói: đám ma thật là to, thật là đông, thiên hạ tha hồ mà chiêm ngưỡng dể thấy rõ sự to tát của nó. Nhưng cứ tìm thử xem trong đám người đông đảo ấy có ai là người đang thực sự đi đưa đám , nghĩa là thực sự có chút tiếc thương đối với người chết mà họ đang đưa tiễn? Không có ai cả. Tất cả mọi người đàn ông cũng như đàn bà, già cũng như trẻ, tuy đang giữ một vẻ nghiêm chính, nhưng đều đang nói một điều gì đó, làm một điều gì đó, nghĩ một điều gì đó không dính dáng đến người chết và đám ma cả. Trai thanh gái lịch thi chim nhau, bình phẩm, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau... nhưng tất cả đều bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma.
Thật là nhẫn tâm, thật là vô liêm sỉ. Ta sẽ nghĩ thế. Nhưng với Vũ Trọng Phụng, có nghe được những lời mà bọn họ nói với nhau mới thấy sự vô liêm sỉ ấy còn trơ tráo đến mức nào. Và nhà văn đã đưa ra một số lời ấy.
Đám cứ đi nghĩa là sự vô liêm sỉ ấy không hề khép lại, nó còn kéo dài.
Đến lúc đám không cứ đi nữa mà dừng lại để hạ huyệt. Vũ Trọng Phụng còn hiến cho người đọc hai chi tiết đặc sắc, đẩy cảnh đưa đám này lên đến đỉnh điểm. Chi tiết thứ nhất là cảnh cậu Tú Tân bắt bẻ từng người một làm những động tác, giữ những tư thế đau buồn để cho cậu ta., chụp ảnh. Chi tiết thứ hai là ông Phán mọc sừng, cái kẻ giả dối và vô liêm sỉ nhất trong gia đình này, đã khóc đến tưởng chừng ngất đi. Tuy vậy, giữa lúc oằn người khóc lóc, chính ông ta đã dúi vào tay Xuân Tóc Đỏ món tiền năm đồng vì đã có công gọi ông ta là người chồng mọc sừng (chính là cái công gián tiếp khiến cho ông già đã chết). Thật là những kịch sĩ thượng hạng của những tấn trò đời. Hai chi tiết ấy đóng lại một cách trọn vẹn và sắc sảo chương sách nói về sự giả dối của người đời.
Những điều Vũ Trọng Phụng viết trong chương sách là chuyện thật ư? Lẽ nào. Những điều ấy toàn là hư cấu ư? Nhưng những điều ấy đều hợp lí lắm mà, và hình như đều có thật cả. Ngòi bút Vũ Trọng Phụng đúng là sắc như dao. Đằng sau những lời nói như đùa, sự thật của đời sống cứ hiện ra lồ lộ trên đó nổi lên hai điều lớn nhất: sự tàn nhẫn và sự dối trá.
4 Bài phân tích số 3
Vũ Trọng Phụng không chỉ được biết đến là “ông vua phóng sự đất Bắc” mà còn được biết đến là một nhà tiểu thuyết hiện thực đại tài. Dù thời gian sáng tác ít ỏi, nhưng ông đã để lại cho văn học Việt Nam hiện đại những tác phẩm xuất sắc: Giông tố, Số đỏ, Kỹ nghệ lấy tây, … Các tác phẩm của ông thường đi sâu phân tích, khám phá những mâu thuẫn trong đời sống, phê phán lối sống giả dối của xã hội thượng lưu đương thời thông qua nghệ thuật trào phúng đặc sắc. Tất cả những đặc điểm đó đã được phản ánh trong đoạn trích: Hạnh phúc một tang gia trích từ tiểu thuyết Số đỏ.
Trước hết ta cần hiểu nghệ thuật trào phúng là gì? Nghệ thuật trào phúng là nghệ thuật tạo nên những mâu thuẫn, tạo nên những tiếng cười mang tính chất đả kích, châm biếm sâu cay những hiện tượng đáng cười trong xã hội, từ đó tạo nên tiếng cười mang dụng ý phê phán và lên án xã hội.
Trước hết nghệ thuật trào phúng được thể hiện ở mâu thuẫn trào phúng. Mâu thuẫn này đã được bộ lộ ngay từ nhan đề của tác phẩm. Hạnh phúc vốn là khái niệm chỉ trạng thái tâm lí vui sướng, hân hoan khi đạt được điều gì đó. Còn tang gia vốn là một nỗi buồn, nỗi đau cho các thành viên trong gia đình cũng như người xung quanh. Còn trong trường hợp này, tang gia lại trở thành niềm vui, sự hạnh phúc cho tất cả mọi người.
Cả gia đình cụ cố Hồng đều cho sự sống của cụ cố tổ là bất thường, bởi cụ đã sống quá lâu, số tài sản mà họ mong ngóng mãi không thể nhận được. Bởi vậy, việc Xuân Tóc Đỏ làm cho cụ cố tổ tức chết đã làm mãn nguyện tất cả những thành viên trong gia đình, từ đây tài sản kếch xù mà họ nhòm ngó bấy lâu nay sẽ được chia. Trong niềm vui chung được nhận gia sản, mỗi người họ lại có những niềm vui riêng, niềm vui của họ quả là muôn màu, muôn vẻ. Cụ cố Hồng hám danh, thích khoe mẽ, thì đây chính là cơ hội để cụ được mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy để cho người ta khen: “úi kìa, con giai nhớn đã già thế kia à”, để người ta thấy phúc phận mà người chết được hưởng. Vợ chồng Văn Minh và TYPN thì lại sung sướng khi có thể biến đám tang thành sàn diễn thời trang, lăng xê những mẫu quần áo mới nhất của họ. Còn ông Phán mọc sừng nhận ra giá trị lớn đôi sừng trên đầu, vì đôi sừng đó mà lão nhận thêm được vài nghìn trong số gia sản tiền đền bù danh dự. Cô Tuyết ngây thơ được trưng diện những bộ đồ hở hang, “ngây thơ” chứng tỏ mình còn trong trắng. Riêng với cậu Tú Tân, cậu sẽ được đem chiếc máy ảnh vào thực hành. Không chỉ vậy, những kẻ ngoài gia đình cũng tìm được hạnh phúc cho mình: Min Đơ Min Toa đang thất nghiệp bỗng có việc làm; bạn bè cụ cố có dịp khoe huân chương đầy ngực,… Ngoài ra mâu thuẫn trào phúng còn phải kể đến Xuân Tóc Đỏ: hắn là người gây ra cái chết của cụ cố, vốn có tội lại thành có công, sự vắng mặt của Xuân khiến cho tất thảy mọi người phải lo lắng: “Thiếu ông đốc tờ Xuân là thiếu tất cả, những ông thầy thuốc chính hiệu đã thất bại hoàn toàn”. Như vậy một gia đình tự gán cho mình cái mác văn minh, một xã hội âu hóa nhưng đều là những kẻ bất hiếu, độc ác, đây là xã hội lố lăng, không có chút tình người.
Không chỉ vậy, để tô đậm chất trào phúng trong đoạn trích, Vũ Trọng Phụng đã lựa chọn những chi tiết đắt giá, đầy ấn tượng. Đó là cảnh đám ma đông vui, ồn ã như một đám hội. Đám ma đó là sự kết hợp lố lăng, Tây – Tàu – Ta lẫn lộn, người đi rước chẳng chút buồn thương, họ không hề quan tâm đến người chết. Kẻ thì nói chuyện chồng con, hàng xóm, kẻ thì tận dụng cơ hội để chim chuột nhau,… “đám cứ đi” và tiếp tục câu chuyện của mình. Điệp từ “đám cứ đi” được lặp đi lặp lại nhiều lần cho thấy sự giả tạo, đi chậm lại không phải quyến luyến, tiếc thương mà là để cố khoe sự giàu có, hào nhoáng của gia đình, của đám tang.
Quay đến cận cảnh, Vũ Trọng Phụng hướng ngòi bút vào cậu Tú Tân đang hò hét, la ó mọi người đứng tư thế sao cho đẹp nhất để cậu chụp ảnh, người phải chống gậy, kẻ phải gục đầu, người phải lau nước mắt,… ; bà Văn Minh sốt ruột,… cụ cố Hồng mếu máo, khóc ngất đi; còn ông Phán mọc sừng trong lúc đau đớn khóc oặt cả người vẫn tận dụng cơ hội để tạo ra một cuộc mua bán, trao đổi chóng vánh với Xuân Tóc Đỏ, tờ năm đồng được gấp làm tư, nhanh chóng đưa vào tay Xuân Tóc Đỏ cùng với đó là niềm hi vọng sẽ có cơ hội hợp tác ở những lần khác hiệu quả hơn nữa. Họ quả là những kẻ diễn viên đại tài.
Ngoài ra còn phải kể đến ngôn ngữ trào phúng, phóng đại bậc thầy. Vũ Trọng phụng rất tinh tế khi sử dụng các từ ngữ gây cười, từ cách gọi tên sự vật: lợn quay đi lọng, lốc bốc xoảng, bú đích,…đến cách đặt tên các nhân vật: TYPN, Min Đơ, Min Toa, ông Phán mọc sừng, sư cụ Tăng Phú… đều diễn đạt một cách ý nhị thái độ châm biếm của ông. Những hình ảnh so sánh ví von hài hước: Cảnh sát không được biên phạt buồn như nhà buôn vỡ nợ; Từ chối việc chạy chữa như những vị danh y biết tự trọng… diễn tả chính xác bản chất nhân vật và sự thối nát của xã hội. Hình ảnh đậm tính chất trào phúng: “Tuyết đi mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt lại hơi có một vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt nhà có đám”,… Giọng văn đậm chất châm biếm: Thật là một đám ma to tát ; Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm… Tất cả những yếu tố nghệ thuật đó đã tạo nên giá trị mỉa mai sâu cay, đặc sắc, tố cáo, vạch trần sự giả dối, đểu cáng trong nhân cách của những kẻ giàu có trong xã hội đương thời.
Bằng bút pháp trào phúng đặc sắc, giọng điệu châm biếm, trào phúng sâu cay Vũ Trọng Phụng đã vô cùng thành công khi vạch trần bộ mặt xã hội giả dối, bất nhân. Tiếng cười bật lên vừa hóm hỉnh vừa sắc sảo, qua đó thể hiện thái độ coi thường, khinh bỉ cái xã hội âu hóa lố lăng, tầng lớp thị dân lố bịch đương thời.
5 Bài phân tích số 4
Nếu như trong thời kì văn học trung đại ta được biết đến nghệ thuật trào phúng qua những sáng tác thơ ca của cụ Tam nguyên Yên Đổ-Nguyễn Khuyến hay Tú Xương thì trong nền văn học Việt Nam hiện đại nó lại được thể hiện xuất sắc trong thể loại tiểu thuyết với tác phẩm “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng-ông thầy trào phúng. Tiêu biểu là đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” thể hiện thành công nghệ thuật trào phúng qua các khía cạnh như: tình huống, nhân vật, chi tiết nghệ thuật đặc sắc đã tái hiện lại bức tranh xã Việt Nam lúc bấy giờ.
Nghệ thuật trào phúng là gì? Nghệ thuật trào phúng trong văn học là sáng tác sử dụng tiếng cười để châm biếm, đả kích thói hư tật xấu trong xã hội qua đó thể hiện thái độ của người viết là chê bai, phê phán hay răn bảo mang ý nghĩa giáo dục. Nó đòi hỏi nhà văn trào phúng tài năng phải phát hiện và xây dựng tình huống mâu thuẫn, chân dung và chi tiết trào phúng đặc sắc.
“Số đỏ” là cuốn tiểu thuyết làm nên thành công nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng. Câu chuyện kể về nhân vật chính là Xuân tóc đỏ một kẻ bị coi là hạ lưu nhưng bằng lời nói dối ngọt ngào và thủ đoạn mưu mô đã nhảy lên được tầng lớp thượng lưu danh giá của xã hội Âu hóa lúc bấy giờ. Qua đó nhà văn phê phán những con người nhố nhăng trong xã hội đang buổi giao thời Đông Tây lũng loạn.
“Hạnh phúc của một tang gia” là lời tựa đề chương XV trong “Số đỏ”. Đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật trào phúng sắc sảo trong đám tang của cụ cố Hồng. Nghệ thuật trào phúng được thể hiện qua các phương diện sau:
Thứ nhất trào phúng ngay trong nhan đề của đoạn trích. “Hạnh phúc của một tang gia”. Hạnh phúc là trạng thái cảm xúc sung sướng khi thỏa mãn được mong muốn. Tang gia là gia đình có người qua đời. Xưa nay tang gia phải là đau khổ, buồn bã bao phủ lên là không khí bi thương, sầu não, lệ nhòa. Gia đình có người mất phải khóc lóc, thương tâm vậy mà ở đây lại trái ngược hoàn toàn. Tang gia mà lại hạnh phúc. Cái chết đem đến cho cả dòng họ một niềm vui vỡ òa. Nhan đề đã thể hiện nét trào phúng rõ rệt, nó đi ngược lại với lẽ tự nhiên, nó khiến cho con người ta bất ngờ, tò mò muốn tìm hiểu bởi sự mâu thuẫn khác thường và lôi cuốn.
Thứ hai: trào phúng trong chân dung các nhân vật. Tang gia mà từ con cái, cháu chắt người trong người ngoài đều vui mừng. Bởi đối với họ ai nấy cũng cảm thấy đây là một dịp may hiếm có, một cơ hội đặc biệt để thỏa mãn ý muốn của mỗi người. Cái chết ấy đồng nghĩa với tờ di chúc sẽ được đi vào thực thi chứ không còn là những dòng chữ trên tờ giấy. Tất cả mọi người sẽ sung sướng vì được chia tài sản, đó là hạnh phúc của tiền bạc danh lợi chứ không phải là tình cảm thương xót chân thành của người thân yêu dành cho người đã khuất. Là người lớn tuổi nhất ở gia đình trong hoàn cảnh bố mất, thi hài còn đang nằm dưới nhà mà cụ cố Hồng vẫn nằm trên gác “nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: “Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa””. Đối với ông đám tang này là một cơ hội để khoe danh khoe của chứ không phải là tình thương của người con dành cho bố.
Cái chết của cụ cố Tổ làm cho nhiều người sung sướng trong đó hả hê nhất là ông Phán mọc sừng: “ông đã được cụ cố Hồng nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia thêm một số tiền vài trăm nghìn đồng” bởi chính đôi sừng vô hình trên đầu ông ta làm cho cụ tổ uất ức mà chết, niềm vui ấy chạy trong từng mạch máu thế mà đến phút giây cuối cùng khi vĩnh biệt người chết lại khóc “Hứt hứt” oặt người đi. Ngay trong tên gọi “Phán mọc sừng” cũng đã thấy sự mỉa mai, châm biếm không hề nhẹ. Tại sao Vũ Trọng Phụng không gọi là Phán bị cắm sừng mà lại là mọc sừng? Đó là một dụng ý nghệ thuật. Bởi con người ta có thêm đôi sừng vô hình trên đầu là ý nói về việc bị người yêu hoặc vợ ngoại tình. Đây là một điều không ai mong muốn xảy ra nhưng đối với ông Phán là ông mọc sừng tức thể hiện sự tự nguyện và ông lấy làm hãnh diện nên đã làm ngay với Xuân một cuộc doanh thương trước đó chỉ để quảng bá về đôi sừng của mình.
Ông Văn Minh-cháu nội đích tôn hớn hở mời luật sư đến vì cái chúc thư không còn là lí thuyết viển vông nữa. Hắn vò đầu bứt tóc với điệu bộ bối rối phù hợp với tang gia nhưng thực chất là đang không biết đối xử với Xuân thế nào cho phải trước hai cái tội nhỏ, một cái ơn to. Nhà văn đã vạch trần bộ mặt giả dối bất nhân bất nghĩa bất hiếu của nhân vật.
Bà Văn Minh thì suốt ruột vì mãi không được mặc bộ xô gai tân thời. Đối với cô Tuyết đây là dịp để trưng diện “bộ y phục Ngây thơ-cái áo dài voan mỏng, trong có cóc-sê, trông như hở cả nách và nửa vú- nhưng mà viền đen và đội mũ mấn xinh xinh” và để chứng minh cho thiên hạ là cô chưa đánh mất cả chữ trinh mà vẫn còn một nửa. Cậu Tú Tân thì điên người lên vì hào hứng “đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến” đám tang là dịp để cậu thực hiện sở thích nghệ thuật của mình. Đúng là một lũ con cháu bất hiếu không có tình người, một đám người của một gia đình lố lăng. Mỗi người chỉ bằng một vài nét chấm phá mà tất cả đều hiện lên thật sống động. Tất cả những con người ấy trong gia đình ấy là một xã hội thu nhỏ với những thói hư tật xấu tập trung hết ở đây.
Chân dung của những người ngoài gia đình dù chẳng được hưởng lợi lộc gì từ tài sản nhưng cũng vui mừng không kém. Đó là sự vui vẻ ra mặt của hai cảnh sát min đơ và min toa đang thất nghiệp lại kiếm lời từ một cái chết. Đó là Xuân tóc đỏ mưu mô quỷ kế giết được cụ cố Tổ lại đến dự đám tang với một vòng hoa khiến cho mọi người phải thán phục. Đó còn là bạn bè của cụ cố Hồng và sư cụ tăng phú được dịp phô diễn huân chương và khoe mẽ tài năng. Quả thực đây là “một đám ma to làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng”. Qua đó Vũ Trọng Phụng lên án xã hội không có tình người, mất đi giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
Thứ ba: trào phúng qua các chi tiết nghệ thuật đắt giá trong đám tang. Với cảnh chuẩn bị đám tang của cụ cố là ngày hội của gia đình và làng xóm. Người ta tưng bừng đi đưa giấy cáo phó, náo nức gọi phường kèn, tíu tít thuê xe đám và sốt ruột khi chưa thấy phát tang. Không khí đám tang như đám rước hội “Kèn Tây, kèn Ta, kèn Tàu lần lượt mà rộn lên”, thành phần đưa đám đầy đủ cả từ già đến trẻ, từ cảnh sát đến sư sãi, từ thằng lưu manh giả nhà cải cách xã hội cho đến nhà thiết kế thời trang…Đưa đám là quãng thời gian mặc niệm để đưa người chết về nơi an nghỉ cuối cùng vậy mà trong lúc này, ở nơi này “họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau..” mặt người vẻ buồn rầu hợp với người đi đưa nhưng trong thâm tâm của họ không một chút thương tiếc cho người đã khuất. Nhà văn như nhà quay phim tài ba lia ống kính quay chậm từng cảnh, từng người, từng gương mặt, từng trái tim trong đám tang. Đặc biệt ở cảnh hạ huyệt là lúc các nhân vật thể hiện vai diễn của mình xuất sắc nhất, diễn nhập vai là tang gia nhất. Cậu Tú Tân bắt bẻ từng người hoặc chống gậy hoặc còng lưng hoặc lau nước mắt thế nọ thế kia để chụp ảnh làm kỉ niệm. Bạn bè thì rầm rộ nhảy lên những đóng mã khác mà chụp để ảnh khỏi giống nhau. Chỉ với chi tiết nho nhỏ này nhưng có giá trị to lớn nó làm rõ hơn mục đích đến đám tang của những người đưa đám. “Cụ cố Hồng ho khạc mếu máo và ngất đi”. Ông Phán khóc oặt người mãi không thôi nhưng vẫn không quên dúi vào tay Xuân tờ năm đồng bạc gấp làm tư để trả công hắn ta đã giết được cụ tổ. Ông tỏ ra mình là một người giữ chữ tín. Kẻ bất lương đeo mặt nạ của một người con có hiếu được tác giả dùng ngòi bút lột tả sạch sẽ. Đằng sau đó là sự thô bỉ đến vô liêm sỉ của giới thượng lưu trong xã hội tư sản thành thị thực dân nửa phong kiến. Màn hài kịch được miêu tả thật sinh động, hóm hỉnh đem đến cho người đọc cảm xúc vừa cười vừa buồn. Cười vì sự bịp bợm, xảo trá, ngụy trang đến thành thục. Buồn vì cách ứng xử của con người lúc bấy giờ chỉ biết chạy theo vật chất và giá trị văn hóa vớ vẩn.
Bản thân sâu thẳm bên trong mỗi con người là cái khó nắm bắt, khó khám phá nhất nhưng bằng ngòi bút trào phúng tài năng, lối khắc họa chân thực từng chân dung nhân vật, Vũ Trọng Phụng đã lột tả được lối sống Tây hóa của tầng lớp tư sản. Có thể nói ông là cây bút trào phúng bậc thầy về sự thật với tuyên ngôn văn học đáng kính: “Các ông muốn cuốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn có cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là thực sự ở đời (...) Các ông muốn theo tiểu thuyết tùy thời, chỉ nói cái thiên hạ thích nghe, nhất là sự giả dối. Chúng tôi chỉ muốn nói cái gì đúng sự thực, thành ra nguy hiểm, vì sự thực mất lòng". Đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” là một trong những sự thật lúc bấy giờ được nhà văn tái bút thành công với nghệ thuật trào phúng.
- Số đỏ
- hạnh phúc của một tang gia
- đoạn trích hạnh phúc của một tang gia
- tác phẩm số đỏ
- vũ trọng phụng
- tác giả vũ trọng phụng
- nghệ thuật trào phúng
- giá trị nghệ thuật
- giá trị nội dung
- hiện thực xã hội trong tác phẩm số đỏ
- Văn mẫu
- văn hay
- những bài làm văn hay
- bình giảng văn học
- phân tích hạnh phúc của một tang gia
- đặc sắc nghệ thuật trong số đỏ
- ngữ văn 12
- ôn thi thptqg
- ngữ văn ôn thi tốt nghiệp
- dàn ý tham khảo
- dàn ý văn mẫu
Previous post