Top 2 trong Top 10 bài văn hay phân tích sâu sắc giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Hai đứa trẻ.
Trên văn đàn văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám, Thạch Lam là một tên tuổi rất được coi trọng và khẳng định đặc biệt là sở trường truyện ngắn, bởi ở đó tài năng được bộc lộ một cách trọn vẹn, tài hoa. Đóng góp của Thạch Lam không chỉ ở nghệ thuật mà nó còn giúp ta thanh lọc tâm hồn: Mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam chính là một tác phẩm như thế đã phản ánh giá trị nhân đạo sâu sắc.
Làm nên tầm vóc bất tử với thời gian của “Hai đứa trẻ” không chỉ ở giá trị hiện thực mà còn ở giá trị nhân đạo sâu sắc. Dường như hai yếu tố này luôn song hành cùng nhau trong mỗi tác phẩm nghệ thuật nói chung và văn chương Thạch Lam nói riêng. Ở Thạch Lam, bên cạnh cái tài còn có cái tâm, cái tâm cực kì trong sáng, rực rỡ, đầy tình nhân ái chiếu sáng lên đời văn và toàn bộ văn phẩm của ông. Chân tình, chân cảm ấy đã khiến trái tim ông rung động trước đời sống kín đáo và giản dị quanh mình, nó chi phối mọi sáng tạo nghệ thuật của ông.
Truyện ngắn của Thạch Lam thường không có cốt truyện mà là khai thác thế giới nội tâm nhân vật ” Hai đứa trẻ “cũng vậy. Câu chuyện không rõ ngôi kể, không có tình tiết gay cấn, li kì nhưng lại để trong tâm trí người đọc những thương cảm, day dứt rất đỗi nhân văn.
Tác giả đã hóa thân vào nhân vật chính mà mình xây dựng nên để mang lại cho người đọc cảm giác gần gũi, chân thực. Tâm trạng của Liên, cũng chính là những xúc cảm nghẹn ngào của Nhà Văn khi Thạch Lam đặt bút viết nên câu chuyện này. Cuộc sống của chị em Liên không hề khá giả so với những kiếp người nghèo đói nơi phố huyện.
Cảnh nhà sa sút, bố Liên mất việc cả nhà phải bỏ Hà Nội về quê, e làm hàng xáo. Chị em Liên được mẹ giao cho trông nom một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, hàng bán chẳng ăn thua gì chỉ là để phục vụ cho nhu cầu ít ỏi của người dân phố huyện. Đó chỉ là những mặt hàng thứ yếu hàng ngày: mấy phong thuốc lào, mấy bánh xà phòng, mấy cút rượu,… Sự sống của gia đình Liên cũng chẳng hơn gì mấy đứa trẻ và mẹ con chị TÍ, một nhịp sống mòn mỏi, đơn điệu và sa sút. Sống ở một nơi mà xung quanh mình là những quấn quanh của nghèo đói, đơn điệu của cuộc sống, chắc hẳn không ai có thể mang trong mình những tâm trạng rạng rỡ, phấn khích.
Trước cảnh chiều buông, Liên thấy lòng buồn man mác: “Liên ngồi yên lặng, đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị”. Đó là nỗi buồn lãng mạn, đa cảm trước sự chuyển giao của thời khắc từ ngày sang đêm, từ ánh sáng sang bóng tối.
Thạch Lam đã đem cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn để giải thích cho cái buồn của nhân vật. Trước cảnh tượng những đứa con nhà nghèo đi kiếm sống trên mặt đất, Liên động lòng thương nhưng cũng đầy day dứt hối hận vì chính chị cũng không có tiền cho chúng. Đó là tình thương của một con người cùng cảnh ngộ trong kiếp lầm than.Cái nghèo, cái đói đã biến cuộc sống của những con người nơi đây trở nên bần cùng, xơ xác hơn bao giờ hết. Liên kể về những người sống xung quanh mình.
Dù tình cảm không được bày tỏ một cách trực tiếp nhưng qua lời kể người đọc vẫn cảm nhận được nỗi xót xa, đồng cảm trong tâm hồn Liên. Những số phận của những kiếp người nghèo khổ trong bóng tối cứ từ từ hiện ra trước mắt. Chị Tý ban ngày mò cua bắt ốc, tối đến mới dọn quán nước chè, thắp một ngọn đèn dầu leo lét. Đó là một gian hàng tạm bợ, sơ sài, được đặt hàng dưới gốc cây bàng, cạnh một đống gạch.Chị có thể mang trên đầu, trên tay tất cả các cửa hàng của chị.
Khách hàng của chỉ là mấy chủ lính lệ, người nhà thầy thừa, phu xe, phu gạo… những người lao động khốn khổ nghèo khó như chính thân phận của mẹ con chị Tí vậy. Và dù chả kiếm được bao nhiêu nhưng chị cũng dọn ra từ chập tối tới tận khuya. Chỉ bằng những nét vẽ không cầu kì, chau chuốt Thạch Lam đã kể cho người đọc nghe về một cảnh đời nghèo khó trong một kiếp sống mờ mịt, mòn mỏi, không có ánh sáng tương lai rọi tới. Trên cái ga nhỏ ấy còn là cuộc đời của cụ Thi điên. Cụ hiện lên qua lời kể là một bà già hơi điên và nghiện rượu – khách hàng quen thuộc của chị em Liên. Mặc dù vậy thì mỗi khi cụ Thi điên đến mua rượu, Liên vẫn còn nguyên vẹn cảm giác sợ hãi, và có lẽ nhân vật đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc bởi tiếng cười khanh khách và những bước chân đi lần vào trong bóng tối. Những tiếng cười vô hồn, những chuỗi âm thanh lạc điệu vang lên giữa cái tĩnh lặng, u buồn của phố huyện nghe thật đáng sợ.
Những bước chân của người đàn bà khốn khổ chìm vào bóng tối cũng đủ sức gợi lên một số phận bi thảm, một cuộc đời mù mịt không tìm được lối thoát. Dù ở trong khung cảnh nào, ánh mắt hướng đến đâu thì trong đôi mắt Liên vẫn là màu hoàng hôn nhuốm nỗi buồn cơ cực. Những cảnh đời nghèo đói, khổ đau gieo vào tâm hồn Liên những đồng cảm xót xa. Tấm lòng của Liên hay cũng chính là tấm lòng thương cảm của Thạch Lam dành cho những kiếp người khốn khổ.
Bằng ấy con người dường như vẫn chưa đủ, điểm vào đêm tối trên phố huyện lại là những mảnh đời cơ cực khác. Đó là thức quà của bác phở Siêu. Gánh phở của bác Siêu tỏa mùi thơm nhưng tiếc thay đó lại là thức quà xa xỉ, nhiều tiền ở cái phố huyện nhỏ này mà có lẽ Liên và An chẳng bao giờ dám nghĩ tới. Trong bóng đêm đen tối ấy còn có gia đình bác Xẩm ngồi trên mình chiếu rách, cái thau sát để trước mặt, góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong im lặng, thằng con bò ra đất nghịch nhật những rác bẩn và tiếng hát ế ẩm bác chưa hát vì chưa có khách nghe.
Chị Tí dọn hàng từ chập tối nhưng giờ lại phe phẩy canh chuối khô đuổi ruồi bỏ trên mấy thức hàng và chỉ mong đợi những người nhà cụ Thừa. Đó là những mảnh đời tội nghiệp, đáng thương. Cuộc sống lặp lại đơn điệu, nhàm chán nhưng họ vẫn suy nghĩ và mong đợi cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ. Ước mơ càng mơ hồ, tình cảnh của họ càng tốt nghiệp vì không biết Số phận mình sẽ ra sao. Nhìn cuộc sống quẩn quanh, bế tắc Liên không khỏi cảm thấy buồn chán.
Tuy nhiên trong sâu thẳm tâm hồn cô vẫn ngời lên một tấm lòng cảm thông, yêu thương và trân trọng. Đó cũng chính là những cảm xúc mà nhà văn muốn dành cho những người dân nghèo quê mình. Ông đã từng khẳng định: Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng và yêu thương hơn. Trong “hai đứa trẻ” người đọc không chỉ nhìn thấy những kiếp người mù mịt, tối tăm mà còn là những vẻ đẹp khuất lấp, cái tính người không gì có thể phai nhoà được. Bằng cái nhìn chân thực và đồng cảm sâu sắc với những mảnh đời bị lãng quên. Thạch Lam đã tài tình phát hiện ra những nét đẹp ngời sáng đằng sau cuộc đời bi kịch, lam lũ đó.
Dù không trực tiếp bày tỏ nhưng hiện lên qua những trang văn là những phẩm chất tốt đẹp của người dân nghèo nơi phố huyện. Đó là đức tính cần cù, chịu thương chịu khó, đức tính muôn đời của người Việt Nam ta. Điển hình là tấm gương Chí Tí, ban ngày mò cua bắt ốc, tối về bán quán nước chè. Chị là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam chịu thương, chịu khó. Hay đó cũng chính là những là sự cần cù không ngại khó khăn gian khổ cho cuộc đời mưu sinh của gia đình bác xẩm và gánh phở bác Siêu.
Và dường như trong cái bần cùng đó, Thạch làm đã phát hiện ra cái tình cảm giấu kín trong mỗi con người lao động. Đó là lòng trắc ẩn, đồng cảm sâu sắc giữa những con người lao động. Và có thể nói, càng nghèo, càng khổ thì thứ tình cảm đó họ dành cho nhau càng mãnh liệt hơn. Đây không phải là một phát hiện mới nhưng nó là cần thiết để giúp cho những con người nghèo khổ ở đây tránh xa được cái bóng tối đang dần bao phủ.
Trân trọng, nâng đỡ những ước mơ, hy vọng vào một ngày mai tươi sáng Đọc truyện của Thanh Lam, ta thấy nhà văn không đi vào tố cáo những bất công Của xã hội, cũng không khiến người đọc phải uất ức, oán hận những cảnh bóc lột, hành hạ của giai cấp thống trị đương thời.
Nhưng tác phẩm vẫn chất chứa những tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Nhà văn cảm thông trân trọng những ước mơ chính đáng, bình dị của người dân nghèo phố huyện, trân trọng những hoài niệm đẹp đẽ, xa xăm của chị em Liên.
Bị giam cầm trong bóng tối và bị ám ảnh bởi cảnh sống buồn tẻ, lầm lũi, vô vọng của những người dân nơi phố huyện, Liên nhớ về cuộc sống tươi đẹp trong quá khứ ở Hà Nội, như thể một phản kháng hồn nhiên của tuổi thơ. Nhìn bác nhớ Siêu, thứ quá xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được, Liên nhớ thời mẹ còn nhiều tiền – được đi chơi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ, và kỉ niệm đó còn là vùng sáng lấp lánh, Hà Nội nhiều đèn quá. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Quá khứ đẹp đẽ tương phản gay gắt với cái tối tăm, mù mịt. Hoài niệm không chỉ kích thích quá khứ sống dậy mà nhen nhóm bao khát vọng âm thầm về ngày mai, dẫu chỉ là một ngày mai mơ hồ. Đó cũng chính là lý do vì sao du buồn ngủ đến mấy nhưng hai đứa trẻ vẫn cố thức đợi đoàn tàu qua.
Hai chị em đây háo hức, say mê dắt nhau đứng dậy ngắm nhìn đoàn tàu vụt qua. Đoàn tàu đã trở thành thế giới lung linh và kỳ ảo, ánh sáng rực rỡ của ngọn đèn xanh biếc, sát mặt đất, các toa đèn sáng trưng chiếu ánh sáng tỏa xuống đường…Âm thanh sôi nổi vang xa như vô tận của tiếng còi xe lửa kéo dài theo ngọn gió xa xôi…. Một thế giới đẹp đẽ, huyên náo đối lập với cái tối tăm, nghèo đói của phố huyện nghèo.
Thế nhưng sau những hình ảnh tả thực lại là một dụng ý của nhà văn để nói nên cái khát vọng mãnh liệt, cháy bỏng của chị em Liên cũng là của người dân nơi đây. Đoàn tàu đánh thức trong hai đứa trẻ giấc mơ về quá khứ- một giấc mơ đáng thương xót xa. Đợi tàu là cách để hai chị em trải nghiệm hoạt động sôi nổi cuối cùng của đêm khuya, được sống dù chỉ là ao ước.
Tàu đến rồi lại đi, phố huyện rầm rộ bỗng chốc lại chìm vào trong bóng đêm yên tĩnh. Từ hình ảnh đoàn tàu, nhà văn khơi dậy trong người đọc những ước mơ, khát vọng sống, những hoài niệm quá khứ và là một khát vọng sống hướng tới tương lai tươi đẹp. Nhà văn muốn đánh thức những người trong phố huyện nghèo, hướng họ tới ước mơ, một tương lai tươi đẹp phía trước. Qua đó thấy được tấm lòng nhân văn cao cả của nhà văn và đó cũng chính là giá trị nhân đạo không thể tách rời của truyện ngắn”Hai đứa trẻ”.
Đó là sự thức tỉnh của ý thức cá nhân. Nhà văn ý thức được ý nghĩa sự tồn tại mỗi cá nhân, trong cuộc đời đã là con người thì dù là ai đi nữa, nghèo hay giàu, vô danh hay nổi tiếng thì cũng có quyền sống có nghĩa và sống hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo khẳng định sự thức tỉnh ý thức cá nhân cũng có trong nhiều tác phẩm xuất hiện cùng thời “Hai đứa trẻ”: Trong truyện ngắn “Toả nhị kiều”, Xuân Diệu phủ nhận lối sống không cá tính, bản lĩnh: lối sống của Quỳnh và Dao với hoạ sĩ Phan cái gì cũng lỡ cỡ.
Đó là lối sống quẩn quanh trong một buổi chiều tà. Đó là những con người sống cuộc sống vô nghĩa, họ tồn tại như không có mặt trên đời. Nam Cao qua truyện ngắn “Đời thừa” lại lên tiếng đòi quyền sống có nhân cách, có ích cho mọi người. Trong sự phát triển chung của tinh thần nhân đạo ấy, Thạch Lam cũng đã hướng ngòi bút về những con người nhỏ bé, vô danh để nói lên cả những đau khổ và những khát vọng chân chính ở họ.
Có người nhận xét Thạch Lam là một nghệ sĩ tài hoa, trong ông có một họa sĩ, một nhạc sĩ và một nhà thơ. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” hội tụ những phẩm chất đặc biệt của tâm hồn tài hoa đó. Nhà văn đặc biệt thành công trong nghệ thuật tả cảnh, miêu tả tâm trạng nhân vật, nghệ thuật đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thực tại tối tăm và quá khứ ngập tràn ánh sáng. Truyện ngắn có kết cấu vòng tròn như một bài thơ. Tác phẩm còn phảng phất một tự truyện. Đây cũng có thể là lý do khiến câu văn của truyện trở nên mềm mại, sâu sắc và tế nhị chứa nỗi buồn man mác của nhân vật chính và cũng là của tác giả khi hồi cố tuổi thơ của chính mình.
Đọc“Hai đứa trẻ” người đọc thấy hiện lên trước mắt quang cảnh của một phần xã hội Việt Nam trước Cách mạng, nghèo đói, xơ xác, và tiêu điều bên cạnh đó là những mảnh đời cơ cực, lam lũ nhưng vẫn luôn ấp ủ ước mơ, khát vọng về một cuộc sống tươi sáng. Đó cũng chính là tấm lòng êm mát và sâu kín của Thạch Lam dành cho mảnh đất và con người quê hương, nhà văn cũng đã nói hộ niềm ao ước được sống trong một thế giới tốt đẹp hơn, có ý nghĩa hơn của biết bao cuộc đời nghèo khổ, quẩn quanh trước Cách mạng.
- hai đứa trẻ
- truyện ngắn hai đứa trẻ
- hai đứa trẻ thạch lam
- giá trị nhân đạo
- giá trị nhân đạo trong hai đứa trẻ
- phân tích giá trị nhân đạo
- lý luận văn học
- tình huống truyện hai đứa trẻ
- phân tích hai đứa trẻ
- tóm tắt hai đứa trẻ
- cảm nhận hai đứa trẻ
- bố cục hai đứa trẻ
- nhà văn thạch lam
- tác giả thạch lam
- thạch lam
- truyện ngắn thạch lam
- văn học 12
- ngữ văn 12
- văn mẫu
- văn hay
- bài làm văn mẫu
- bình giảng văn học
- phân tích truyện ngắn
- văn học việt nam
- tác phẩm văn học hay