Top 6 trong Top 10 bài văn hay phân tích tình huống truyện đặc sắc trong truyện ngắn Làng của Kim Lân.
Nếu như nhà văn Nam Cao thành công với nhân vật Chí Phèo, Ngô Tất Tố gây tiếng vang với nhân vật chị Dậu thì không thể không nhắc đến sự thành công của Kim Lân với nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng. Kim Lân là nhà văn sống gắn bó và gần gũi với nông thôn và người nông dân nên những đề tài mà ông viết cũng xoay quanh người nông dân.
Kim Lân thành công với nhiều tác phẩm và một trong những tác phẩm đặc sắc nhất đó chính là truyện ngắn Làng. Truyện ngắn Làng được viết năm 1948 trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Đây là một câu chuyện về tình yêu làng yêu nước của ông Hai và tất cả những người nông dân nghèo khổ.
Mỗi một truyện ngắn mà nhà văn xây dựng đều có những câu chuyện và tình huống truyện rất kịch tích. Đó cũng chính là yếu tố thu hút người đọc người nghe. Và tình huống truyện trong truyện ngắn Làng cũng rất đặc sắc. Đó là nhân vật ông Hai vì chiến tranh nên phải đi tản cư rời xa cái làng Chợ Dầu mà ông yêu quý. Ông yêu làng sâu nặng đi đến đâu ông cũng khoe về làng của mình. Ông hay “nghĩ về làng của ông, nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em”.
Nhưng với khả năng xây dựng tình huống truyện tài tình Kim Lân đã tạo nên kịch tích cho câu chuyện “bỗng một ngày ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo Tây”. Tin ấy như sét đánh với một người vốn dành tình yêu rất lớn cho làng cái nơi được gọi là “chôn nhau cắt rốn”. Chính tình huống truyện éo le ấy đã tạo nên đấng bi kịch dằn vặt đau khổ trong nội tâm ông Hai.
Vì chiến tranh, vì bọc giặc tràn vào làng mà cả gia đình ông Hai phải đi tản cư. Nhưng dù đi đến vùng đất mới ông vẫn thường hay khoe về làng, khoe về bề dày lịch sử mà làng ông có được. Đến khi gặp một người ở Gia Lâm gần làng Chợ Dầu đi tản cư lên mà ông còn tự tin mà hỏi rằng: “Nó…Nó vào làng Chợ Dầu hở bác?
Thế ta giết được bao nhiêu thằng?” Với cách hỏi như thế cho thấy ông Hai lúc nào cũng tin tưởng và rất tự hào về làng Chợ dầu quý. Ngay lúc ấy có thể thấy tâm lí nhân vật ông Hai qua ngòi bút của Kim Lân vẫn rất vui. Nhưng bi kịch đã thật sự xảy ra khi ông nghe tin làng Chợ Dầu theo Tây
Khi nghe “người đàn bà ẵm con cong môi lên đỏng đảnh: có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa.” Trời ơi! Tin ấy làm ông Hai như chết lặng: “Cổ ông lão nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặn đi, tưởng như đến thở không được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ…”. Để miêu tả tâm lí và nội tâm nhân vật sắc sảo như thế có thể nói Kim Lân đã rất nhập tâm vào nhân để miêu tả chân thật và từng li từng tí như thế.
Bạn hãy thử đặt mình vào ông hai lúc ấy thì xem mình có thể còn đau khổ hơn cả ông. Biết bao tình yêu và niềm tự hào ông đều đặt vào làng Chợ Dầu. Nhưng bỗng một ngày ông nghe tin làng mình Việt gian theo Tây, theo một thứ mà mọi người đều ghét, đó là thứ bán nước. Với cái tin sốc ấy ông Hai vẫn chưa tin đó là sự thật, ông còn gắng gượng mà hỏi rằng: “Liệu có thật không hở bác? Hay chỉ là…” Ông mong tin ấy không phải là sự thật!
Trên đường đi về nhà ông Hai ngổn ngang tâm trạng “ông cúi gằm mặt mà đi” rất hổ thẹn. Nhưng phút chốc “ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà”. Liệu một người như mụ chủ nhà có chịu chấp nhận cho gia đình ông ở tiếp khi nghe tin này chăng? Với tâm lí phức tạp giằng xé nội tâm dữ dội đã tạo nên tính cách nhân vật ông Hai đúng như cách mà Kim Lân xây dựng.
Với người nông nghèo khổ ấy khi chiến tranh cuộc sống họ đã vốn khở sở lầm than lắm rồi nhưng hôm ấy nghe tin dữ như thế liệu họ có còn tinh thần mà tiếp tục lao động sản xuất phục vụ cuộc sống tiếp hay không? “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu.” Ông Hai đã khóc, ông khóc trong nỗi đau khổ tột cùng. Vừa hổ thẹn vừa đau khổ, thật sự nội tâm ông lúc này đang giằng xé dữ dội.
Lòng ông vừa tức vừa thét lên rằng: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Người nông dân vốn dĩ quanh năm chỉ gắn bó với việc đồng áng, ruộng vườn nên tình yêu làng quê của họ rất sâu đậm. khi biết tin dữ ấy ông Hai thật sự rối bời đau khổ tột cùng. Bởi, tình yêu làng của ông luôn trước sau như một. Ông là người yêu làng nhưng không mù quáng mà nói: “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.
Nhưng lúc rối rắm nhất lòng ông lại “ngờ ngợ như lời mình nói không được đúng lắm”. “Ông đã điểm lại từng người trong óc” họ đều là những người một lòng một dạ theo kháng chiến theo Cụ Hồ lẽ nào lại đi làm cái chuyện Việt Gian bán nước ấy. Kim Lân quả thật đã rất thành công trong việc miêu tả tâm lí nhân vật từ vui sướng cho đến giằng xé đau khổ tột cùng.
Ông Hai lúc ấy thoáng nghĩ hay là cả nhà cùng về lại làng nhưng làng theo Tây mất rồi. Nhưng rồi ông lại nghĩ chín chắn hơn: “Ông Hai nghĩ rợn cả người. Cả cuộc đời đen tối, lầm than cũ nổi lên trong ý nghĩ ông. Ông không thể về cái làng ấy được nữa”. Song ông không thể vứt bỏ tình yêu làng nên ông Hai càng đau xót, tủi hổ.
Trong tâm trạng bị dồn nén, không biết giải tỏa như thế nào, ông Hai chỉ còn biết trút lòng mình với đứa con nhỏ. Cuộc đối thoại giữa ông và đứa con trai đã bộc lộ thật cảm động tấm lòng gắn bó sâu sắc với làng quê, với đất nước và với kháng chiến của ông Hai. Ông nói với con mà như tự nói với chính mình, tự mình oan, tự chiêu tuyết cho mình.
Đoạn thoại, vừa chất chứa nỗi đau đớn, xót xa, lại vừa thể hiện tấm lòng thủy chung, son sắt với kháng chiến, với cách mạng, với cụ Hồ. Qua đó, có thể thấy sự thành công vượt bậc của nhà văn Kim Lân không chỉ thành công trong việc miêu tả nội tâm nhân vật mà còn rất thành công trong miêu tả đối thoại nhân vật. Tài năng của một nhà văn lớn rất đáng khâm phục
Sau những ngày âm u đen tối thì cuộc đời ông Hai khi nghe tin làng được cải chính có lẽ đã thấy được cầu vồng. Ngày hôm ấy: “Ông Hai đi mãi đến sẫm tối mới về. Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu,cặp mắt hung hăng đỏ, hấp háy,…” Vẻ ngoài nhân vật ông Hai ngày hôm ấy đặc biệt được Kim Lân miêu tả rất tỉ mỉ chi tiết và sống động như thật. Ông Hai vui lắm! Vui như vừa chết đi sống lại!
Vốn dĩ, người nông dân trước năm 1945 có tấm lòng yêu nước nồng nàn và rất ghét những con người bán nước. Có thể nói tác giả Kim Lân đã rất nhân đạo khi xây dựng cốt truyện cho truyện ngắn Làng. Ông đã không phụ lòng tin yêu của người nông dân nghèo về làng quê của họ. Chính vì thế mà nhà văn Nam Cao từng nói rằng: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thế chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp sống lầm than…” là như vậy ấy!
Với việc xây dựng tình huống truyện đặc sắc, thành công trong việc miêu tả tâm lí nhân vật,… Có thể nói truyện ngắn Làng của Kim Lân đã mang lại tiếng vang lớn trên bầu trời văn học nghệ thuật thời kháng chiến chống Pháp! Qua truyện ngắn Làng của Kim Lân ta còn có thể thấu hiểu được tinh thần yêu làng, yêu quê hương đất nước sâu đậm của những người nông dân nghèo khổ. Nhân vật ông Hai chính là đại diện cho nét tâm lí và tinh thần yêu nước sôi nổi ấy của người nông dân thôn quê thời kháng chiến chống Pháp!
- làng
- truyện ngắn làng
- truyện ngắn làng kim lân
- truyện ngắn kim lân
- tình huống truyện ngắn làng
- phân tích tình huống truyện
- tình huống truyện
- lí luận văn học
- văn mẫu
- bình giảng văn học
- văn hay
- bài làm văn mẫu
- tác phẩm hay của kim lân
- đặc sắc nghệ thuật truyện ngắn làng
- giá trị nhân đạo
- giá trị hiện thực
- đặc sắc trong tình huống truyện
- tình huống truyện độc đáo
- ngữ văn ôn thi đại học
- phân tích truyện ngắn làng
- tóm tắt truyện ngắn làng