Top 13 trong Top 15 bài văn mẫu phân tích tác phẩm Tràng giang hay nhất mà các bạn học sinh không thể bỏ qua.
“Dòng sông thơ chở con đò từ ngữ
Ý đẹp, lời hay, triết lí văn chương
Chở bóng tương lai, nẻo về quá khứ
Ngổn ngang hiện tại, đậm nét vui buồn”
Nếu tên tuổi Văn Cao từng gắn liền với dòng sông Lô hùng tráng, Hoàng Cầm gửi nỗi nhớ thương về dòng sông Đuống “nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”, Hoài Vũ mãi là nhà thơ của con sông Vàm Cỏ đêm ngày tha thiết chở nặng phù sa. Đến với hồn thơ bay bổng của Huy Cận, ta không chỉ bắt gặp khung cảnh thiên nhiên rộng lớn bao la, mà ẩn sâu trong đó còn là cái tôi cô đơn bé nhỏ khát khao được hòa nhập với cuộc đời. Và đó chính là “Tràng giang” - bản ngậm ngùi dài của một tâm hồn cô đơn trong cõi mênh mông của trời đất, một thi phẩm thành công với sự kết hợp nhuận nhị giữa cổ điển và hiện đại.
“Tràng giang” (Lửa thiêng – 1940) là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Huy Cận. Bài thơ được lấy cảm hứng vào một buổi chiều mùa thu năm 1939, khi nhà thơ đứng ở bờ Nam bến Chèm nhìn cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước, bốn bề bao la vắng lặng, nghĩ về kiếp người nổi trôi. Vì thế, cảm hứng của bài thơ là cảm hứng không gian, thế giới vừa được cảm nhận bằng sự chiêm nghiệm cổ điển, vừa được cảm nhận bằng tâm thế cô đơn của một cái tôi hiện đại, rất đặc trưng cho thơ mới. Nỗi cô đơn, buồn thương ấy được khởi nguồn từ những câu thơ đầu tiên của dòng sông buồn thương bất tận tràng giang.
Mở đầu cho nỗi ám ảnh, cô đơn trong không gian sông nước bến bờ là một phong cảng thiên nhiên bao la, rộng lớn, heo hút của dòng sông Hồng quen thuộc:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
Tràng giang gợi hình ảnh một con sông dài như sống Trường Giang của Trung Quốc – con sông gắn liền với cảm hứng vĩnh hằng trong thi ca cổ điển. Huy Cận đã thể hiện được ngòi bút tinh tế của mình qua cách hiệp vần “ang” liên tiếp qua hai tiếng “tràng giang”, tạo nên thanh ngang gợi cảm giác một con sông rộng hiện ra trước mắt người đọc. Hai tiếng “tràng giang” đã tạo nên dư âm vang xa, trầm lắng; mở ra hình ảnh một dòng sông dài đến vô tận, xa đến mênh mông, rộng đến bát ngát như không thể biết đâu là bến bờ.
Trên mặt sông, những lớp sóng gợn nhẹ nhàng, nhấp nhô, nối tiếp nhau điệp điệp không dứt kéo dài đến tận chân trời. Hai chữ “điệp điệp” mang tới một nỗi buồn liên tục, mãi không ngừng như tiếng sóng lòng đang rạo rực trong lòng thi nhân. Đọc câu thơ này, ta bất chợt nhớ đến những vần thơ da diết của Thâm Tâm trong “Tống Biệt Hành”:
“Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng”.
Những vần thơ vào buổi chia li từ giã bạn của nhà thơ Thâm Tâm trước cảnh sông mênh mang sóng nước, câu thơ này đã hiện lên hình ảnh dòng sông ngăn cách đôi bờ, ảo vọng và hiện thực bủa vây không gian tĩnh lặng ấy, và với Thâm Tâm, tiếng sóng dội lên hay cũng chính là tiếng lòng đang cuộn trào đó. Từ một điểm nhìn, ta có thể thấy được sự hòa hợp giữa hai hồn thơ trong cùng một khung cảnh.
Câu thơ không chỉ tả ngoại cảnh sông Hồng trong một buổi chiều thu, mà thơ là thư kí của trái tim, là tiếng nói của thân phận con người, là tâm cảnh của thi nhân. Nguyễn Du đã từng viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Có lẽ vì lòng người buồn mà nỗi buồn ấy cũng nhuốm màu lên ngoại cảnh mênh mang. Bởi thế, dòng tràng giang cũng là dòng tâm hồn thi nhân đang đón nhận những nỗi buồn từ ngàn xưa chảy vào tâm khảm. Tất cả là một nỗi buồn khôn tả!
Trên nền không gian bao la, bát ngát của tràng giang, xuất hiện một con thuyền nhỏ nhoi đang xuôi mái, tự buông mình theo sự nổi trôi, không chủ đích bến đỗ ở phương trời nào:
“Con thuyền xuôi mái nước song song”
Chiếc thuyền trôi xuôi đến đâu, nước rẽ thành mấy hàng song song đến đó và rong ruổi về mãi cuối trời. Hai chữ “xuôi mái” gợi sự hờ hững, vô định kết hợp với từ láy “song song” vừa gợi dòng nước chảy thành “hàng nối hàng” vừa gợi ấn tượng về sự chia phôi. Dường như nước và thuyền cứ song song cho đến chân trời, góc bể, vờ không quen biết nhau trong đời.
Thiên nhiên tự thân nó đã là một bài thơ. Tuy nhiên, thiên nhiên không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp mà nó còn gửi gắm trong đó một tình yêu, một khát khao, một suy ngẫm, một triết lý nhân sinh qua lăng kính của con người. Và trong khung cảnh thiên nhiên tĩnh lặng, vô biên của dòng tràng giang ấy, dù con thuyền xuôi mái vô định vẫn có bóng dáng con người với nỗi buồn khôn tả, khôn nguôi. Nhưng nỗi buồn ấy càng thấm sâu, “điệp điệp” trong cõi lòng khi trên dòng tràng giang mênh mông bóng dáng con người, sự sống thưa thớt, mờ nhạt rồi xa dần rồi khuất vắng vào một bến bờ nào đó:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Theo lẽ thường, thuyền và nước là hai sự vật gắn bó khăng khít không thể tách rời. Nhờ nước mà thuyền trôi nổi, phiêu dạt nay đây mai đó; nhờ thuyền mà dòng nước bớt hiu quạnh, hoang vu. Trong câu thơ này, ta cảm nhận được giữa thuyền và nước có sự hững hờ như không ăn nhập vào nhau. Thi nhân như tự hỏi rằng con thuyền đi đâu, về đâu để dòng nước ở lại trở nên hoang vắng, bơ vơ còn nỗi sầu thì lan tỏa “trăm ngả” trời đất? Nghệ thuật đối lập giữa “thuyền về”, “nước lại” gợi ấn tượng về sự chia lìa. Chỉ một cuộc chia li ngắn ngủi ấy thôi cũng đủ làm trái tim đa sầu và đôi mắt thi nhân “đẫm lệ” buồn thương. Sự đồng nhất giữa cảnh và tình, giữa dòng nước và dòng sầu kết hợp với bổ ngữ trăm ngả có tác dụng khắc họa sâu sắc nỗi buồn tê tái, thấm thía, lan tỏa bốn phương trời đất.
Rồi bất ngờ thay trên dòng chảy mênh mông ấy thi nhân bắt gặp cành củi khô đơn độc, lênh đênh qua bao sông suối, giờ đang lạc lõng giữa mấy dòng tràng giang:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Hình ảnh “củi” gợi sự khô gầy, đứt gãy, cành, thân chia lìa, rơi rụng. Tính từ “khô” gợi sự hao gầy, cạn kiệt sự sống kết hợp với động từ “lạc mấy dòng” gợi sự lạc lõng, vô định, mất phương hướng. Trước hết, đây là hình ảnh tả thực. Vào mùa thu, nước trên thượng nguồn chảy về, cuốn theo dòng nước lũ là những cành củi khô gầy, đứt gãy trôi nổi qua bao thác ghềnh, sông suối. Nhà thơ Xuân Diệu gọi đó là “một chi tiết văn xuôi sống sít”. Huy Cận đã mạnh dạn sáng tạo thành một chi tiết chân thực, còn nóng hổi cảm xúc, không sa vào ước lệ, sáo mòn. Thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa cái hữu hạn với cái vô hạn, giữa cái nhỏ nhoi với cái lớn lao, giữa củi một cành khô đang lạc loài giữa mấy dòng nước trong nỗi sầu trăm ngả đã giúp người đọc hình dung được cảnh tượng một tạo vật thiên nhiên thật sinh động và sắc nét.
Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét rằng:“Lần đầu tiên trong lịch sử thi ca một cành củi khô trôi vào thơ Huy Cận như nỗi cô đơn của một kiếp người trong xã hội cũ”. Không chỉ là sự tả thực theo quy luật tự nhiên, “cành củi” không chỉ gợi lên sự nhỏ bé đơn độc mà lại còn “củi khô” nữa thì lại càng bé nhỏ tội nghiệp hơn. Phải chăng hình ảnh cành củi khô trôi nổi phù du trên sóng nước Tràng giang chính là hình ảnh ẩn dụ để biểu tượng cho kiếp người như thi nhân đang nổi trôi bơ vơ vô định giữa dòng chảy của cuộc đời của một đất nước mất chủ quyền?
Cùng thời với Huy Cận, không ít nhà thơ cũng cảm thấy cô đơn, lạc loài trên chính quê hương mình và hoàn toàn bị mất phương hướng. Vũ Hoàng Chương từng khóc cho thân phận:
“Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỉ
Trót sinh ra lạc ánh sao mờ”
Hay Nguyễn Bính ngơ ngác, bơ vơ:
“Hôm qua dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm”
Bởi thế, hình ảnh “cành củi khô lạc mấy dòng” không còn là tâm trạng riêng của Huy Cận mà là nỗi buồn chung của cả một thế hệ sống trong cảnh nước mất, nhà tan. Có thể khẳng định, đây là câu thơ tuyệt bút của Huy Cận. Chỉ một cành củi khô, một chi tiết chân thực sống sít rất đời thường mà hàng ngày ta vẫn hững hờ, vô tình, quên lãng, thi nhân đã hun đúc nên biết bao nhiêu là châu ngọc về thế giới tâm hồn và thân phận con người trong những năm tháng đau thương của lịch sử dân tộc!
Như tiếp nối mạch cảm xúc u sầu, buồn bã ở khổ một, bức tranh tràng giang ở khổ thơ thứ hai được tác giả đưa thêm những nét cụ thể để diễn tả những cái bé nhỏ, cô đơn, xa vắng và nỗi buồn của hồn người thấm sâu vào tạo vật. Ở đây, Huy Cận đã dùng hàng loạt những hình ảnh và từ ngữ gợi buồn. “Cồn” giữa lòng sông vẫn gợi sự trống vắng, đơn độc kết hợp với tính từ “nhỏ” lại tạo cảm giác sự buồn bã và trống trải như nhân lên gấp bội. Hơn nữa, với nghệ thuật đảo ngữ, tính từ “lơ thơ” được đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh thêm sự nhỏ nhoi, thưa thớt, vắng vẻ của không gian tràng giang. Giữa mênh mông sóng nước chỉ có “lơ thơ” một vài cồn cát nhỏ nhoi, hiu quạnh, thưa thớt, lạnh lẽo, thiếu vắng hơi ấm, sự sống của con người. Còn gì buồn hơn bức tranh tràng giang trong cái nhìn ảo não, ngậm ngùi của thi nhân?
Trong chiều thu buồn, cõi tâm linh sâu thẳm của nhà thơ còn cảm nhận thật tinh tế nét đặc trưng của mùa thu với những làn gió đìu hiu nhẹ thổi. “Đìu hiu” là tinh từ miêu tả sự hoang vu, vắng vẻ, buồn bã, thê lương của cảnh vật, xoáy sâu hơn vào nỗi buồn của tạo vật và hồn người. Cách dùng từ của Huy Cận khiến câu thơ như một tiếng thở dài, một niềm than van của bờ sông, bãi cát, một bản ngậm ngùi dài trong cõi mênh mông đất trời. Huy Cận có lần cho biết cặp từ láy “đìu hiu” ông đã học được từ câu thơ ‘Chinh phụ ngâm” của Đoàn Thị Điểm:
“Non kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”
Tưởng rằng, bức tranh tràng giang vẫn sẽ đắm chìm trong sự hiu hắt, cô quạnh nhưng đến với câu thơ thứ tiếp theo, bức tranh tràng giang được gợi tả thêm những hình ảnh, âm thanh mới :
“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Một câu hỏi đươc đặt ra: đâu là ở đâu, chỗ nào? Đây là cách nói đầy sự mơ hồ và không xác định. Ta có thể hiểu câu thơ theo nhiều cách. “Đâu” có nghĩa là đâu có, không có, làm gì có tiếng chợ chiều từ lãng xa vọng lại. “Đâu” cũng có thể hiểu là đâu đó có tiếng xao xác của chợ chiều, nhưng những âm thanh đó quá bé nhỏ, đó là âm thanh của cuộc sống đang tan rã, lịm tắt, mờ nhạt. “Đâu” cũng có thể là sự khát khao tìm kiếm một chút sự nhộn nhịp trong cuộc sống để thi nhân được gác bỏ nỗi buồn hiu quạnh kia sang một bên. Chình hình tượng không gian như thế đã làm nổi bật hơn cái lẻ loi cô độc bơ vơ của nhà thơ, và khiến nỗi buồn nỗi sầu thêm mênh mang thấm thía: “Người thấy lạc loài giữa cái mênh mông của không gian, cái xa vắng của thời gian, lời thơ vì thế mà buồn rười rượi” (Hoài Thanh)
Không gian vụt lớn lên và mở ra đến bao la vô tận. Đây chính là cảm xúc vũ trụ thật mãnh liệt và tinh tế đang bủa vây lấy Huy Cận:
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Vũ trụ được đẩy lên cao như nâng đỡ tâm hồn thi nhân. Câu thơ “nắng xuống trời lên sâu chót vót” thể hiện một cách nhìn, cách cảm rất độc đáo và sáng tạo. Hai động từ ngược hướng “xuống” và “lên” đem lại cảm giác chuyển động rất rõ rệt. Nắng xuống đến đâu, trời lên đến đó. Và quá trình dịch chuyển của nắng, của bầu trời được hoàn tất bởi cụm từ “sâu chót vót”. “Chót vót” là từ láy độc quyền của chiều cao, Huy Cận không viết cao chót vót mà viết “sâu chót vót”, vì từ sâu vừa gợi độ cao, vừa gợi cái hun hút, thăm thẳm của bầu trời hoàng hôn, từ “chót vót” như “trợ thủ đắc lực” làm tăng thêm cái rợn ngợp của khung cảnh. Đó chính là sự rợn ngợp của hồn người trước cái vô cùng của vũ trụ. Vì thế đọc câu thơ lên ta có cảm giác hồn mình như đang mênh mang cùng thiên địa.
Đến câu thơ sau, không gian tiếp tục được mở ra ba chiều rộng lớn:
“Sông dài, trời rộng bến cô liêu”
Trong không gian ba chiều mênh mông bát ngát, hình ảnh của bến sông hiện lên đã nhỏ bé, đơn độc lại càng cô độc hơn. Huy Cận gọi đó là “bến cô liêu” diễn tả đến tận cùng sự chơ vơ, lạnh lẽo, buồn vắng. Thủ pháp tương phản giữa “sông dài, trời rộng” với bến cô liêu" được Huy Cận sử dụng rất thành công, gây ấn tượng đậm nét với người dọc về dòng trường giang hoang vu, bát ngát, quạnh hiu, buồn vắng và nỗi buồn của tâm hồn thi nhân. Phải chăng, hình ảnh bến cô liêu trong không gian rộng lớn cũng là bến cô liêu của tâm hồn nhà thơ giữa sự bao la, rợn ngợp của cuộc đời? Có lẽ Huy Cận và Xuân Diệu đã đồng điệu khi gọi hồn mình là “bến cô liêu” hay “Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề”.
Vẫn là nỗi buồn thương ấy, một lần nữa nó lại được khắc họa da diết hơn qua hình ảnh cánh bèo trôi dạt, lênh đênh vô định:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”
Hình ảnh “Bèo dạt về đâu” gợi sự chìm nổi, lênh đênh, phiêu dạt, vô định, mất phương hướng. Hai chữ “về đâu” càng gợi sự tan tác, chia lìa và nỗi buồn thấm thía, xót xa. Chúng tạo thành “hàng nối hàng” trên sông như trải dài theo sóng nước tràng giang. Thi sĩ như đang nhìn vào lòng mình, tự hỏi chính mình vậy: Những đám bèo dạt trên sông sẽ đi đâu, về đâu? Câu thơ đã gợi tả chân thực toàn cảnh sông Hồng vào mùa nước lũ. Sau những ngày nắng hạ, nước trên thượng nguồn chảy về, bèo trôi dạt thành hàng trên sông, nối nhau đến vô tận.
Nam Cao đã từng nói: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Phải thế chăng, khung cảnh đâu chỉ có thiên nhiên thường nhật? Từ ý thơ da diết kia, thân phận con người lại một lần nữa ăn sâu vào trong cảnh vật. Trong thơ ca cổ điển, hình ảnh mặt nước cảnh bèo mang ý nghĩa biểu tượng cho cuộc đời chìm nổi, lênh đênh phiêu dạt. Trong Truyện Kiều, ông đã gửi gắm tất cả niềm yêu thương, xót xa và kỳ vọng vào hình tượng nàng Kiều, một phụ nữ đa tài, đa sắc, lại thánh thiện và nhân ái. Thế nhưng cuộc đời của nàng lại đồng nhất thân phận với cảnh bèo chìm nổi trên sóng nước:
"Nghĩ mình mặt nước cảnh bèo
Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân"
Cùng với hình ảnh thuyền và nước như củng trôi về cõi vô biên, hình ảnh một cành củi khô lạc giữa mấy dòng nước, đến khổ thơ này, ấn tượng chia lìa, tan tác lại một lần nữa khắc sâu thêm nỗi buồn mênh mang.
Tầm mắt nhà thơ như được mở rộng, vui sướng khi thấy “chuyến đò ngang” - một tín hiệu của sự sống, sự gặp gỡ, giao hòa. Thế nhưng toàn cảnh trời rộng, sông dài tuyệt nhiên không có bóng dáng con người.
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng"
Chuyến đò ngang để con người qua lại. Cây cầu bắc ngang qua sông để nối đôi bờ là tín hiệu giao hòa, gợi sự thân mật, ấm cúng. Nhưng trong “Tràng giang” tất cả đều không có. Không một chuyến đò, không một cây cầu. Hai từ “không” hai lần phủ định “không đò” “không cầu” trong hai câu thơ như hai tiếng thở dài đầy vô vọng. Chỉ có con người đơn độc giữa không gian vô tình vô cảm. Nhìn đâu cũng chỉ thấy “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.Như vậy, sự cô quạnh, hoang vu, hiu hắt của tràng giang được thi sĩ đặc tả độc đáo bằng chính cái không tồn tại. Thái độ phủ nhận thực tại nằm ngay trong kết cấu bài thơ và nỗi buồn ở bài thơ này không chỉ là nỗi buồn trước sông dài trời rộng mà còn là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn cuộc đời, nỗi buồn thế hệ của những con người sống trong cảnh nước mất nhà tan.
“Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư.” Khổ thơ cuối là sự kết hợp giữa sự mờ ảo và xa dần của thiên nhiên trong nỗi niềm thầm kín của một thi nhân. Hai câu thơ đầu là bức tranh chiều thu với nhiều hình ảnh:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”
“Thu là thơ của đất trời, thu là thơ của lòng người”. Mùa thu đến với tâm hồn các nghệ sĩ trong phong trào thơ mới cũng chính là mùa nở rộ của thơ ca hiện đại Việt Nam. Bởi cái khoảnh khắc tuyệt mỹ này của đất trời tràn đầy sức quyến rũ. Nó như thổi sự sống vào tâm hồn các thi nhân, để rồi gợi nhớ, gợi thương, gợi vui, gợi buồn, làm thức dậy cả một chân trời khao khát trong lòng người nghệ sĩ.
Ta đã bắt gặp tình cảm tha thiết lãng mạn của nhạc sỹ Ngô Thụy Miên qua khung cảnh mùa thu:
“Anh có nghe mùa thu mưa giăng lá đổ
Anh có nghe nai vàng hát khúc yêu đương…”
Hay ta lại thầm nhớ lại những vần thơ của Đỗ Phủ trong cảnh rừng mùa thu lạnh lẽo, bạt ngàn, đầy dữ dội chất chứa hiu quạnh:
“Lác đác rừng phong hạt móc sa
Ngàn năm hiu hắt khi thu lòa”
Và khi đến với Huy Cận, thu không lãng mạn da diết như những câu tình ca của Ngô Thụy Miên, cũng không trầm uất, bi tráng như những vẫn thơ của Đỗ Phủ. Hình ảnh thiên nhiên vào một buổi chiều thu thật đẹp, thật buồn nhưng cũng thật tráng lệ. Vào chiều thu, những đám mây trắng đùn lên trùng trùng điệp điệp ở phía chân trời. Ánh dương phản chiếu vào lớp lớp mây trắng trông như những núi bạc lấp lánh. Đây là một vẻ đẹp rất đặc trưng của mùa thu. Vì thế, hình ảnh “mây cao đùn núi bạc”, nhìn từ ngoại cảnh là hình ảnh hùng vĩ, sống động, một hình ảnh đẹp, nhưng nhìn từ tâm trạng nhà thơ ta thấy có sự rợn ngợp. Chữ “đùn” và “lớp lớp” gây ấn tượng mây chồng chất, không gian rộng mở đối lập với con người đơn chiếc, nhỏ nhoi, bất lực.
Trước cảnh sông nước mây trời bao la hùng vĩ ấy bỗng hiện lên một cánh chim bé nhỏ đang nghiêng cánh như nâng đỡ cả sức nặng của bầu trời đang đè nặng xuống đôi cánh bé bỏng của mình:
“Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”
Thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa “chim nghiêng cánh nhỏ” với “lớp lớp mây đùn” và “bóng chiều sa” làm nổi bật sự nhỏ bé, cô đơn của cánh chim nhỏ nhoi trước bóng chiều sắp tắt. Thủ pháp nghệ thuật này làm cho cảnh thiên nhiên rộng hơn, hùng vĩ hơn nhưng cũng buồn hơn, ám ảnh hơn. Đặc biệt, dấu hai chấm giữa dòng thơ như khoảng lặng không lời cũng gợi lên biết bao suy tưởng. Dường như cánh chim bé nhỏ, cô đơn kia đã gắng gượng, nâng đỡ cả trời chiều nhưng nó quá bé nhỏ trước sự hùng vĩ, mênh mông của bầu trời, nên đành bất lực, nghiêng cánh cho bóng chiều đổ xuống. Thơ là sự lên tiếng của thân phận. Và cánh chim nhỏ trong chiều thu đẹp mà buồn cũng là thân phận con người, thân phận của một cái tôi trong thơ mới, thân phận con người trong bất kì con người nào trong số chúng ta khi phải đối mặt với sự nhỏ bé của kiếp người và sự mênh mông của trời đất.
Nỗi "buồn điệp điệp" triền miên lan tỏa xuyên suốt bài thơ và cồn cào, day dứt nhất ở nỗi nhớ ở cuối bài:
"Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"
Vào buổi chiều thu, một mình đối diện với không gian trời mây sông nước bao là đó là lúc con người đối diện với nỗi buồn, nỗi cô đơn trong cõi lòng. Trong niềm xúc cảm ấy, nhà thơ lại nhớ nhà, nhớ quê hương da diết như nhớ một côi bình yên nhất của tâm hồn. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê đã trở thành mạch nguồn tình cảm trong trẻo và sâu lắng muôn đời trong văn chương và cuộc sống thường nhật.
“Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có phong cách nổi bật, tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình”. Tình cảm buồn nhớ quê hương muốn đời vẫn vậy, nhưng Huy Cận lại có cách diễn đạt mới, đầy ám ảnh và sâu lắng. Dường như đọc xong lời thơ mà xúc cảm chân thành trong thơ vẫn còn đọng lại và ngân vang mãi trong hồn người bởi chiều sâu khôn cùng của ngôn ngữ và tư tưởng. Hai chữ “dợn dợn” là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận chưa từng thấy trước đó. Từ “dợn dợn” vừa nói được cảnh nước trời, sóng gợn, vừa nói được cảm giác rợn ngợp trong lòng bởi nỗi nhớ nhà, nhớ quê luôn thường trực trong lòng. Câu thơ vừa nói được cảm giác cô đơn của con người cả nhân vừa nói được nỗi nhớ quê khắc khoải và niềm mong mỏi được che chở, được sống trong quê hương thân thuộc. Quả thật, nỗi buồn của Huy Cận miên man không dứt như sóng nước mênh mông bất tận, theo sóng nước lan tỏa rất xa, buồn hơn nhiều so với Thôi Hiệu (Đời Đường – Trung Quốc): "Yên ba giang thượng sử nhân sầu" (Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?).
Hai chữ “nhớ nhà” vừa cụ thể vừa trừu tượng. Huy Cận không nhìn thấy "khói" nhưng vẫn nhớ nhà da diết. Đó không chỉ là một mái nhà, một quê hương cụ thể nào đó mà còn là nỗi khát khao tìm một chỗ dựa cho tâm hồn cô đơn, trống vắng của tác giả.
Qua bức tranh thiên nhiên tràng giang hoang sơ, hùng vĩ Huy Cận kín đảo gửi gắm nỗi buồn triền miên, vô tận. Nỗi buồn của cái tôi luôn thấy mình cô đơn, bé nhỏ trước không gian trời rộng, sông dà và lắng đọng, kết tụ thành nỗi nhớ nhà da diết trong cõi lòng. Nỗi buồn ở bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của cả thế hệ, cả dân tộc trong những năm ngột ngạt dưới thời thuộc Pháp.
Với “Tràng giang”, Huy Cận đã tạo dựng một bức tranh thiên nhiên cổ kính, hoang sơ với tầm vóc mênh mang, vô biên đậm chất Đường thi. Bên cạnh đó, nghệ thuật dùng từ láy "điệp điệp", "song song" cũng có hiệu quả nhất định gợi âm hưởng cổ kính. “Tràng giang” có cách ngắt nhịp truyền thống. Đoạn thơ mang âm điệu buồn, vừa dư vang vừa sâu lắng. Đó là nỗi buồn sầu ngấm sâu trong lòng tạo vật và trong tâm hồn nhà thơ. Và màu sắc cổ điển và hiện đại đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của bài thơ. Một trong những đặc điểm về nghệ thuật thơ ca cổ điển là bút pháp tả cảnh ngụ tình, nhưng trong Tràng giang, có nhiều câu nhà thơ bộc lộ trực tiếp cái tôi nội cảm của mình mà không cần nhờ đến ngoại cảnh. Đây là đặc điểm rất hiện đại của thơ mới.
"Ta là ai" Như ngọn gió siêu hình
Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt.
"Ta vì ai?" Khẽ xoay chiều ngọn bấc
Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh"
Những vần thơ của Chế Lan Viên có thể xem như một tuyên ngôn nghệ thuật khái quát được sự chuyển biến trong tư tưởng. Và hồn thơ Huy Cận chính là sự giao thoa của màu sắc thi ca cổ điển phương Đông với một cái tôi sáng tạo độc đáo thể hiện trong những khám phá mới của nhà thơ từ trong nội dung – tư tưởng đến hình thức – nghệ thuật. Thật đúng với những gì Shelly từng nhận định: “Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử.” Đến với “Tràng Giang”, Huy Cận đã đem đến một nỗi niềm chan chứa những tâm tư về tình yêu quê hương, đất nước, con người của chính mình. Một cảm xúc rất chân thật trước một bầu trời thiên nhiên mênh mông, bao la đến bất tận.