Thông báo mới! TOP SHARE

Top 10 bài văn hay nhất phân tích Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận

  • 4,324 views
  • 3 likes
  • Add Favorite
  • Be a liked
  • Báo lỗi
  • Tài trợ

by Chanh 19-03-2021

“Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những bài thơ nổi tiếng của Huy Cận. Bài thơ được sáng tác khi những xúc cảm rung lên trước biển trời Hòn Gai, địa điểm trong chuyến đi thực tế của tác giả. Sống trong không gian và thời gian tuyệt diệu ấy, tiếng lòng lại rộn ràng và cảm xúc nối tiếp nhau đi vào từng câu chữ trong bài thơ. Đoàn thuyền đánh cá mở ra thiên nhiên biển cả rộng lớn thật tráng lệ. Bài thơ đồng thời mở ra bức tranh sinh động về cuộc sống lao động của người dân miền biển đầy hứng khởi với sự hăng say. Họ sống cùng biển lớn, băng trên biển lớn và thành quả lao động xứng đáng là những món quà từ biển cả. Mùi biển cả mặn mòi nhưng thực gần gũi cũng như những người lao động gắn bó với biển lớn. Biển vẫn kỳ vĩ nhưng ấm áp và những người lao động miền biển vẫn chất phác, lạc quan. Thiên nhiên và con người đan xen rồi kết nối thật nhiều. Để có thêm những góc nhìn về bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, dưới đây là một số bài phân tích được sưu tầm bạn có thể tham khảo!

1 Bài văn phân tích Đoàn thuyền đánh cá số 1
Vote
67%

3

by Chanh 19-03-2021

Huy Cận là một đại biểu xuất sắc của phong trào thơ mới và là một nhà thơ lớn của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông có nhiều tác phẩm như lửa thiêng, vũ trụ ca, hạt lại gieo... trong đó có bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá". Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc về thiên nhiên, vũ trụ với cảm xúc của người lao động.

Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra ngoài biển trong thời khắc màn đêm dần bao xuống.

"Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi."

Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa để miêu tả cảnh hoàng hôn, miêu tả cảnh đất trời đang đi dần vào bóng tối. Hình ảnh trong hai câu thơ đầu tiên là một hình ảnh liên tưởng khá đẹp về hoàng hôn "mặt trời" được so sánh giống như "hòn lửa" tạo nên một gam màu rực rỡ trong buổi hoàng hôn. Hình tượng "sóng cài then", "đêm sập cửa" là những động từ mạnh miêu tả cảnh đất trời chuyển giao giữa ngày và đêm một cách chóng vánh. "Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi", tác giả dùng từ "lại" với ý nghĩa là hành động lặp lại mỗi ngày của người dân làng chài vùng biển. Họ ra khơi đánh cá, ra khơi để kiếm nguồn sống, những người lao động vùng biển vất vả trong khi những người khác sắp sửa đi vào giấc ngủ thì những con người lao động nơi đây lại thức đêm đánh cá. "Câu hát" gợi lên vẻ thanh bình mà cũng không kém phần nhộn nhịp. Người lao động ra khơi trong một tâm thế lạc quan, yêu đời, yêu nguồn sống, nên vừa ra khơi họ vừa hát. Hát để lấy sức căng buồm, hát để chèo thuyền, lái thuyền, hát để mọi người cảm nhận được niềm vui sướng trong mỗi chuyến tàu ra khơi.

"Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!"

Câu hát vang vọng nơi đất trời, câu hát tạo nguồn sống, tạo niềm tin cho người lao động vùng biển. Lời hát ngợi ca sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kỳ của nó trong đêm. "Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng", hình ảnh của những chiếc thuyền đánh cá trong đêm với ánh sáng từ nhiều nguồn khác nhau rọi xuống: ánh sáng từ trăng, ánh sáng từ những chiếc đèn pin của ngư dân, hòa sắc màu tạo nên vùng sáng long lanh dưới mặt nước. Chính nguồn sáng đó đã tạo cho mặt biển lấp lánh mà tác giả đã khéo léo đặt nó bên từ "dệt". Một cảm giác hài hòa "dệt" giống như bàn tay mảnh mai của con người tạo nên những tấm lụa phát sáng ngay trên mặt biển. "Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi", một vụ cá đánh bắt xa bờ mong muốn thu được mẻ cá lớn để người lao động vùng biển được vui tươi, được no đủ. Bằng tài năng sử dụng bút pháp lãng mạn kết hợp với độ liên tưởng phong phú của nhà thơ mà bức tranh thiên nhiên hiện lên vừa thực lại vừa ảo.

"Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”

Thiên nhiên, đất trời hòa quyện cùng với con người tạo nên một hình ảnh tuyệt đẹp trong liên tưởng của tác giả. Những hình ảnh "lái gió", "buồm trăng", "mây cao", "biển bằng" là những hình ảnh đẹp mang đậm chất hiện thực. Mỗi một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá cũng như tham gia đánh trận, cùng phải dàn binh, bố trận, cũng phải có vũ khí, cũng phải thăm dò, cũng phải đối chọi với thiên nhiên đất trời nơi bão bùng, sóng lớn... Một trận chiến với cá cũng khiến cho con người phải suy nghĩ, phải sống chiến đầu với thiên nhiên nhưng cũng phải hòa quyện cùng với thiên nhiên để tạo ra một tâm thế tốt, một cảnh sắc hài hòa và có nhịp điệu trong cuộc sống.

Trong khổ thơ nối tiếp cuộc sống lao động của người lao động, tác giả đã chuyển tiếp sang miêu tả cảnh biển giàu có nguồn cá.

"Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long."

Có rất nhiều loại cá: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song... biện pháp liệt kê đã nhấn mạnh sự giàu có của biển cả. Lòng đại dương mênh mông rộng lớn, là nơi chứa những nguồn hải sản quý giá. Những hình ảnh chân thực mà ảo diệu đến tinh tường, dưới ánh trăng lấp lánh, dưới mặt nước phản chiếu lung linh, những chú cá quẫy đuôi mình để vùng vẫy, để tự do bơi lội thoải mái cũng đã mắc giăng mẻ lưới của con người. Tiếng "đêm thở", tác giả đã dùng biện pháp nhân hóa hình ảnh của màn đêm. Tiếng thở ấy, có lẽ là tiếng thở của chính những con người lao động vất vả trên mặt biển để mang về những sản phẩm sau một đêm dài lênh đênh nơi sóng nước. Màn đêm tĩnh mịch hòa cùng tiếng thở của con người tự như chính màn đêm đang thở vậy. Một hình ảnh rất đẹp mà lại rất gần gũi.

"Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào"

Những hình ảnh giản dị lần lượt hiện lên qua khổ thơ. Tiếng hát một lần nữa lại được tác giả nhắc lại, phải chăng đó chính là tiếng hò dô của con người khi kéo được mẻ cá nặng. Tiếng hát, cùng với tiếng nhịp thuyền gõ vào mạn thuyền để gọi cá, vừa có lời bài hát, vừa có tiết tấu. Một hình ảnh đẹp hiện ra trước mắt ta như một đoàn hợp xướng chuyên nghiệp trên sân sấu. Đó là những hình ảnh rất đẹp, rất giản dị mà lại rất gần gũi. Tác giả so sánh biển như lòng mẹ, lòng mẹ thì có bao giờ lại độc với con cái của mình, người mẹ bao giờ cũng mang đến cho người con những gì là của con nhất, mang đến cho người con những gì mà người con cần nhất. Vì mẹ là mẹ, mẹ là người phụ nữ hy sinh cho con rất nhiều. Mẹ đã nuôi lớn ta từ khi ta còn trong lòng mẹ, cũng giống như biển cả cho con người lao động những mẻ cá để nuôi lớn con người, rồi cứ thế hệ này tới thế hệ khác.

2 Bài văn phân tích Đoàn thuyền đánh cá số 2
Vote
33%

3

by Chanh 19-03-2021

Huy Cận là một trong những tên tuổi tiêu biểu của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, với những tác phẩm nổi tiếng như Lửa thiêng, Vũ trụ ca... Sau Cách mạng, ông nhanh chóng hòa nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống thực dân Pháp. Hòa bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống mới đang lên. Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác ở Hòn Gai, năm 1958. Sau một chuyến tác giả đi thực tế dài ngày, được đánh giá là một trong những bài hay của thơ ca Việt Nam hiện đại.

Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ nên trước mắt chúng ta một khung cảnh lao động tuyệt vời trên biển. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy với những màu sắc huyền ảo, cuốn hút vô cùng:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Đoàn thuyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn. Phía ấy mặt trời như một hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông. Màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày. Chính vào thời điểm ấy ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình: ra khơi đánh cá. Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của con người lao động được giải phóng: Cậu hát căng buồm cùng gió khơi. Đây là cách nói độc đáo, sáng tạo của Huy Cận, khiến chúng ta tưởng như tiếng hát hòa cùng gió mạnh, thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Cánh buồm no gió tượng trưng cho khí thế phơi phới đi lên của công cuộc dựng xây đất nước.

Lời hát ngợi ca sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm. Bút pháp lãng mạn của nhà thơ vẽ nên khung cảnh vừa thực vừa ảo:

Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi!

Vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt nỗi nhọc nhằn vất vả, đem lại niềm vui và sức mạnh cho con người đang chinh phục thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.

Cảnh đánh cá trong đêm dược nhà thơ quan sát và miêu tả với một cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như nhập thân vào thiên nhiên, vào công việc, vào con người:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Những hình ảnh lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn tươi mới chất hiện thực. Một chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh. Cũng thăm dò tìm cho ra bãi cá; cũng dàn đan thế trận để giăng lưới, bủa lưới sao cho trúng luồng cá bạc, để sáng mai lúc trở về, thuyền nào thuyền nấy đầy ắp cá.

Đã bao đời, người ngư dân có mối quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như thuộc lòng bàn tay. Bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng, thuộc cả thói quen của chúng:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long.

Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đuôi, sóng sánh trăng vàng. Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền, như gõ nhịp phụ họa cho tiếng hát. Trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy. Thiên nhiên, con người thật là hoà hợp.

Bóng đêm đang tan, ngày đang đến, nhịp độ công việc càng sôi nổi, khẩn trương:

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Bao công lao vất vả đã được đền bù. Dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Bóng dáng họ in trên nền trời hồng rực của buổi bình minh. Những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh thêm vảy bạc, đuôi vàng và màu sắc phong phú của bao loài cá cũng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ cuối chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng thoải mái của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.

Khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:

Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Vẫn là tiếng hát khỏe khoắn của người ngư dân dạn dày sóng nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng cánh buồm đưa đoàn thuyền ra khơi đêm trước, nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời rất hiện thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng, đồng thời cũng thế hiện khí thế đi Lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước sau giải phóng.

Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền lao vun vút trên mặt biển. Mặt trời đội biển nhô màu mới một màu hồng rạng rỡ, tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá trên thuyền khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm vui. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh vật, của con người.

Đoàn thuyền đánh cá là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Nhà thơ ca ngợi biển cả mênh mông - nguồn tài nguyên bất tận của Tổ quốc, ca ngợi những con người lao động cần cù, gan góc, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình của Huy Cận và nghệ thuật điêu luyện của ông đã cuốn hút người đọc thực sự. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả. Những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng. Nửa thế kỉ đã trôi qua, bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó. Phần nào, bài thơ giúp chúng ta hiểu được chân dung tinh thần mới của Huy Cận sau bao biến cố lịch sử trọng đại của đất nước và dân tộc - một Huy Cận trữ tình cách mạng.

3 Bài văn phân tích Đoàn thuyền đánh cá số 3
Vote
0%

3

by Chanh 19-03-2021

Bây giờ là lúc đất nước hòa bình đang bắt tay xây dựng CNXH. Khắp nơi nơi tưng bừng cuộc sống mới với cách làm ăn mới. Nhà thơ Huy Cận được đi thực tế sáng tác ở vùng Quảng Ninh bấy giờ "Cả một vùng than vùng biển đang hăng say lao động từ bình minh cho đến hoàng hôn và cả từ hoàng hôn cho đến bình minh".

Không khí tưng bừng và phấn khởi đặc biệt này ùa vào bài thơ ngay từ những câu mở đầu:

"Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi".

Sau một ngày, thiên nhiên dọn dẹp chuẩn bị nghỉ ngơi. Mặt trời đi ngủ. 'sóng đã cài then đêm sập cửa". Nhưng những con người đang náo nức xây dựng cuộc sống mới thì không ngủ. Khí thế tập thể thật bừng bừng: "Đoàn thuyền" có tổ chức nối nhau đi. Không phải là một chiếc thuyền câu bé tẻo teo, cũng không phái dăm ba lá thuyền, mà cả một đoàn thuyền hùng dũng. Cũng không phải hôm nay mới xuất phát buổi đầu tiên.

"Lại ra khơi" cho biết trước đó đã từng có những cuộc ra di. Thế mà cái náo nức vẫn không hề vơi đi. Đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong tiếng hát trong những câu hát khỏe khoắn thổi căng phồng những cánh buồm lộng gió. Người lao động hát vang bài ca tiến quân ra biển cả. Họ hát và nhà thơ cũng hát "khúc tráng ca, ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ, với niềm vui" (cảm nghĩ của Huy Cận).

Phơi phới trong tâm hồn như thế cho nên biển, thuyền, công việc đều được nhìn từ góc độ lãng mạn: đẹp giàu và thơ mộng. Biểu hiện ra trong tiếng hát:

"Cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng"

Biển hiền hòa phẳng lặng như một tấm gương soi cảnh trời mây:

"Lướt giữa mây cao với biển bằng"
Biển thật nhân hậu, dịu dàng:
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự thuở nào".

Những con thuyền cũng hết sức kỳ lạ. Gió lái thuyền đi, buồm đầy trăng sáng. Nhưng nhà thơ viết "Thuyền ta lái gió với buồm trăng" thì hình như đã biến nó thành đoàn thuyền của tao nhân mặc khách rồi. Nhất là lại để cho con thuyền ấy "lướt giữa mây cao với biển bằng" để cho nó được gõ bằng nhịp trăng (gõ thuyền đã có nhịp trăng cao). Song rồi có thi vị hóa, thì con thuyền đánh cá vẫn là những con thuyền thực, có lưới, có buồm. đậu dặm xa. dàn đan thế trận.

Trên con thuyền ấy là những người khẩn trương "kéo lưới kịp trời sáng" và họ đã "kéo xoăn tay chùm cá nặng"... Thật và ảo, hiện thực và lãng mạn không tách rời hay đối lập, mà hòa quyện làm cho bài thơ có một vẻ độc đáo khác thường. Đặc sắc nhất của bài thơ là ở chỗ bằng tiếng hát nhà thơ đã khắc họa được cái hồn của không khí náo nức phơi phới của những con người say mê "tập làm chủ, tập làm người xây dựng.

Dám vươn mình cai quản cả thiên nhiên" (Tố Hữu). Đâu phải họ chỉ hát khi ra đi. Họ hát khi làm việc "ta hát bài ca gọi cá vào". Cho tận đến khi kết thúc công việc sau suốt một đêm khẩn trương làm việc, tiếng hát vẫn không dứt mà vẫn mạnh mẽ. vẫn hào hứng như lúc ban đầu "Câu hát căng buồm". Có điều, câu hát bây giờ vang lên trong không khí "chạy đua cùng mặt trời" và tỏa sáng trong thành quả lao động sáng ngời.

"Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi". Hình ảnh đầy chất lãng mạn và theo kích thước "vũ trụ" của Huy Cận. "Mắt cá huy hoàng" đâu phải chỉ là màu sắc thực của những khoang cá đầy lộng lẫy dưới ánh mặt trời? Đó còn là huy hoàng của thành quả lao động, huy hoàng của ánh mắt nhìn đầy rạo rực tự hào, và có lẽ sau hết, đó còn là màn "bạc" (cá bạc biển Đông lặng) những "luồng sáng" (đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng), những "lấp lánh", "đen hồng", những "vàng chóe''. Những "vẩy bạc", "đuôi vàng"... ở các câu thơ trên hội tụ lại, ngưng kết lại tạo nên cái màu sắc huy hoàng lộng lẫy muôn dặm khơi của đoàn thuyền đang nối đuôi nhau ca hát khúc "khải hoàn".

4 Bài văn phân tích Đoàn thuyền đánh cá số 4
Vote
0%

3

by Chanh 19-03-2021

Đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận sáng tác năm 1958, trong chuyến đi thực tế tại vùng mỏ Hòn Gai. Bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ và niềm vui, niềm tin trước cuộc sống mới trong những năm đầu xây dựng đất nước.

Bài thơ là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng: cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kỳ miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ vốn là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hoà của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của bài thơ.

Đoàn thuyền ra khơi được miêu tả trong một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp:

Mặt trời xuống biển như ngọn lửa.
Sóng đã cài then đêm sập cửa.

Nghệ thuật so sánh và nhân hoá được sử dụng thật độc đáo. Mặt trời được ví như hòn lửa đang lặn dần vào lòng biển. Vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm xuống mau khép lại ánh sáng như đóng sập cánh cửa khổng lồ mà những lượn sóng là chiếc then cài. Ngày đã khép lại, vũ trụ như đang bước vào trạng thái thư giãn sau một ngày lao động thì chính lúc ấy một ngày lao động mới của người dân đánh cá lại bắt đầu:

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Khi vị chủ nhân thứ nhất của thiên nhiên là mặt trời đi ngủ thì vị chủ nhân thứ hai – những người dân chài của cuộc sống mới lại mở cửa đêm để ra biển đánh cá. Công việc của những người dân chài diễn ra như một nhịp sống đều đặn trở thành quen thuộc, nền nếp. Nếu như sức sống của thiên nhiên như ngừng lại thì sự có mặt của đoàn thuyền như nối tiếp nhịp sống đó. Dù đã cài then, sập cửa nhưng biển không chìm trong lạnh lẽo hoang vu mà trái lại biển đang là chứng nhân cho sự làm việc hăng say, không nghỉ của những người lao động:

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Câu thơ xuất hiện ba sự vật khác biệt là câu hát, căng buồm và gió khơi nhưng lại được gắn kết, hoà quyện với nhau. Tiếng hát khỏe khoắn của cả tập thể hoà với tiếng gió thổi căng buồm đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Câu hát là niềm tin, sự phấn chấn của người lao động. Sự kết hợp của nhịp điệu gấp gáp khẩn trương ở hai câu đầu với cái thanh thoát, đĩnh đạc của nhịp thơ hai câu sau đã vẽ nên bức tranh hào hùng về cảnh đoàn thuyền ra khơi. Khổ thơ còn là sự kết hợp của những liên tưởng táo bạo với những phép tu từ so sánh, nhân hoá đặc sắc đã giúp tác giả thể hiện khúc ca ra khơi hào hùng của người dân chài.

Không chỉ hát khi ra khơi mà những con người lao động luôn cất tiếng hát hòa cùng với công việc của mình. Tiếng hát là mong ước, là niềm tin thu hoạch:

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi.

Từ con cá bạc báo biển lặng, biển hiện lên trong đêm như một khung cửi lớn và đẹp. Cá thu từng đoàn rẽ nước toả sáng, di chuyển như những con thoi. Sự liên tưởng từ khung cửi dệt đến khung cửa biển là sự liên tưởng độc đáo, là kết quả của sự quan sát thực tế. Qua sự liên tưởng ấy, trong cảm xúc vũ trụ của Huy Cận biển không còn xa lạ mà trở nên gần gũi. Trong lời hát của người ngư dân, biển thật giàu có:

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

Nguyên liệu biển dồi dào, chỉ cần một tiếng gọi để thu cá vào lưới. Khổ thơ mang âm hưởng của dòng cảm hứng vũ trụ với sự lãng mạn của tâm hồn đã làm nên những khúc ca hoành tráng của người lao động.

Trên cái nền tráng lệ của thiên nhiên là sức mạnh của cánh buồm, sức mạnh của con người làm chủ biển cả:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,

Thuyền có lái, có buồn nhưng lái bằng gió, buồm là buồm trăng. Đoàn thuyền lướt đi trong đêm không phải bằng sức mạnh của con người mà bằng sức mạnh của câu hát hòa cùng sức mạnh của gió, cộng hưởng sức mạnh của trăng. Bởi thế mà thuyền như lướt đi, như bay lên. Con thuyền đánh cá còn nhỏ bé qua cảm hứng vũ trụ đã trở nên kì vĩ, khổng lồ, sánh ngang tầm với vũ trụ. Và trên con thuyền ấy, người như dần hiện lên trong tư thế làm chủ:

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Đã qua rồi thời con người còn nhỏ bé, đơn độc trước sức mạnh bí ẩn của biển cả. Mang trong mình khí thế của người làm chủ, biển như hẹp lại để con người ra đậu dặm xa, dàn đan thế trận và dò bụng biển để con người tìm tòi, khám phá. Họ đàng hoàng ra những nơi xa để bắt thiên nhiên phục vụ. Họ – những dân chài mang theo cả sức trẻ, sức khỏe, mang theo cả sự tìm tòi, khám phá để tung phá thế giới bí hiểm của thiên nhiên. Việc đánh bắt ấy như một trận chiến mà mỗi người lao động như một chiến sĩ.

Hát khi ra khơi, hát cho cuộc hành trình và những người lao động còn hát để ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.

Các loài cá được kể tên: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song đã nói lên sự phong phú, giàu có của biển. Không chỉ, giàu mà biển còn rất đẹp:

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Dưới ánh trăng, cá song quẫy mặt nước. Thân cá có khoang màu hồng lấp lánh như ánh sáng chuyển động dưới làn nước biển. Đoạn thơ mang nhiều màu sắc, ánh sáng: ánh sáng đen hồng, lấp lánh của cá song, ánh sáng vàng chóe của trăng vỡ trên mặt nước. Những gam sắc ánh sáng hòa cùng bóng tối của màn đêm tạo ra bức tranh sơn mài lóng lánh sắc màu, biển lại như thấy hơi thở:

5 Bài văn phân tích Đoàn thuyền đánh cá số 5
Vote
0%

3

by Chanh 19-03-2021

“Đoàn thuyền đánh cá” được đánh giá là một trong những bài thơ ca ngợi lao động rất hay và đẹp. Từ hình ảnh, các biện pháp tu từ đều đầy chất thơ lãng mạn. Dưới đây là bài phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” để các bạn học sinh tham khảo.

Chỉ với 4 câu thơ đầu tiên, Huy Cận đã vẽ nên một khung cảnh hoàng hôn rực rỡ. Có mặt trời như “hòn lửa”, có màn đêm ập xuống nhanh như “sập cửa”. Và đó cũng là lúc đoàn thuyền đánh cá ra khơi cùng những “câu hát căng buồm” đầy sức sống. Đó cũng là khí thế hừng hực xây dựng đất nước. Người dân chài ca ngợi sự giàu đẹp của biển, của các loài cá tôm đầy ắp biển nuôi sống mình mỗi ngày.

Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi!

Vẻ đẹp của biển đã xoa dịu đi nỗi vất vả của công việc chài lưới. Tác giả sử dụng những từ ngữ rất thơ “lái gió”, “buồm trăng”, “lướt”, “dò bụng biển”… Công việc dù có nặng nhọc nhưng giữa biển trời bao la lại giống một cuộc dạo chơi đầy thi vị. Huy Cận ca ngợi từng loại cá như gọi những gì thân thương, quý báu nhất. Đó là châu ngọc của biển cả, là món quà mẹ biển ban tặng cho mỗi người con của mình:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Ánh trăng “vàng chóe” lóng lánh trên mặt nước, hòa cùng ánh bạc của vảy cá lấp lánh. Bài ca của những ngư dân vẫn thiết tha mạnh mẽ. Cả biển cả và con người như hòa vào làm một.

Hai khổ thơ cuối là cảnh bình minh ngày mới rạng rỡ trên biển. Ngư dân khẩn trương kéo lưới “chạy đua” vào bờ. Bóng họ in trên bình minh buổi sớm đầy mạnh mẽ: “kéo xoăn tay chùm cá nặng”. Khoang tàu đầy ắp cá thể hiện sự hân hoan và giàu có của biển khơi. Hình ảnh đoàn tàu “chạy đua cùng mặt trời” vừa khỏe khoắn, vừa hào hùng. Đó là sức mạnh của con người chinh phục thiên nhiên, làm giàu quê hương, xây dựng đất nước.

Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” để thấy đây là bài ca lao động đầy hăng say, hứng khởi. Là những lời ngợi ca người dân lao động cần cù, thiện lương và mạnh mẽ. Đây cũng là hình tượng con người thời đại mới kiêu hãnh và vững vàng với tương lai tươi sáng.

Tears in Heaven