Thông báo mới! TOP SHARE

Top 10 bài văn hay nhất phân tích Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận

  • 4,325 views
  • 3 likes
  • Add Favorite
  • Be a liked
  • Báo lỗi
  • Tài trợ

by Chanh 19-03-2021

“Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những bài thơ nổi tiếng của Huy Cận. Bài thơ được sáng tác khi những xúc cảm rung lên trước biển trời Hòn Gai, địa điểm trong chuyến đi thực tế của tác giả. Sống trong không gian và thời gian tuyệt diệu ấy, tiếng lòng lại rộn ràng và cảm xúc nối tiếp nhau đi vào từng câu chữ trong bài thơ. Đoàn thuyền đánh cá mở ra thiên nhiên biển cả rộng lớn thật tráng lệ. Bài thơ đồng thời mở ra bức tranh sinh động về cuộc sống lao động của người dân miền biển đầy hứng khởi với sự hăng say. Họ sống cùng biển lớn, băng trên biển lớn và thành quả lao động xứng đáng là những món quà từ biển cả. Mùi biển cả mặn mòi nhưng thực gần gũi cũng như những người lao động gắn bó với biển lớn. Biển vẫn kỳ vĩ nhưng ấm áp và những người lao động miền biển vẫn chất phác, lạc quan. Thiên nhiên và con người đan xen rồi kết nối thật nhiều. Để có thêm những góc nhìn về bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, dưới đây là một số bài phân tích được sưu tầm bạn có thể tham khảo!

6 Bài văn phân tích Đoàn thuyền đánh cá số 6
Vote
0%

3

by Chanh 19-03-2021

Đoàn thuyền đánh cá được coi là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống mới. Tác giả Huy Cận sau chuyền đi thực tế tại vùng mỏ Quảng Ninh. Bài thơ có nhiều đặc sắc về mặt nghệ thuật. Bài thơ có hình ảnh tráng lệ về thiên nhiên và con người lao động thể hiện sự hòa giữa thiên nhiên và con người.

Khổ thơ đầu tiên trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá thể hiện lên bước đi chầm chậm của thời gian: Cảnh biển vô cùng tráng lệ lúc hoàng hôn cũng là thời điểm đoàn thuyền nhô lên tách bến ra khơi.

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Với tài năng bút pháp già dặn. Tác giả Huy Cận miêu tả thiên nhiên bằng sức tưởng tượng phong phú, 2 dòng thơ đầu hình ảnh thiên nhiên với sự kết hợp nối nhân hoá và so sánh thú vị. Mặt trời xuống biển nghĩa là mặt trời đang chìm dần về phía tây. Lúc đấy mặt trời được ví von với hòn than đỏ rực từ từ lặn xuống biển. Vũ trụ được ví như một ngôi nhà đồ sộ. Sóng biển thành gia chủ cài then sập cửa. Vũ trụ yên nghỉ, thiên nhiên đi vào cõi yên tĩnh, còn đoàn thuyền thì sao? Đoàn thuyền đánh cá ra khơi không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà là cả 1 đoàn thuyền, 1 sức mạnh lớn của cuộc đời đổi thay. Chữ hai là sự khẳng định nhịp điệu lao động của dân chài đã ổn định đi vào nề nếp trong hoà bình. Họ ra đi trong lời ca tiếng hát hâm hở, sôi nổi hào hứng. Gió biển thổi mạnh cánh buồm no gió căng lên. Tiếng hát ra khơi, buồm căng là 3 chi tiết nghệ thuật mang tính chất tượng trưng diễn tả tinh thần phấn khởi hăng say và khí thế ra khơi của ngư đoàn vùng biển. khổ thơ thứ nhất hiện lên hai hình ảnh đối lập thiên nhiên yên nghỉ còn con người lao động hào hứng.

Đoàn thuyền ra khơi trong khí thế hào hùng vui tươi, sảng khoái lời ca tiếng hát ra khơi không dứt vì sự giàu có tiềm ẩn trong lòng biển quê hương:

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

Điệp ngữ biển đông nhằm xác định chủ quyền dân tộc, nghệ thuật ẩn dụ, so sánh diễn tả chính xác màu sắc và hình dáng của cá mà còn nói nói đến giá trị và sự đông đúc của cá thu trên biển. Nhà thơ còn nhân hoá các loài cá dưới biển bằng lời mời gọi thân thương, cá ơi, dệt lưới ta. Lời thơ thể hiện mơ ước niềm tin chuyến ra khơi này thắng lợi.

Khổ thơ thứ 3 của bài thơ nói về cảnh đánh cá một đêm trăng trên vịnh Hạ Long. Đoàn thuyền đang làm chủ vùng biển, họ tích cực trình tự trên biển của mình.

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Hình ảnh mới lạ với bút pháp nhân hoá giàu tưởng tượng thiên nhiên kết hợp hài hoà với con người trăng làm buồm, gió cầm lái hướng dẫn thuyền đi, Vậy là trời mây nước cùng hợp lực đưa thuyền ra xa. Đoàn thuyền thực hiện công việc theo trình tự, Thuyền đầu dò tìm luồng cá rồi giăng lưới. Họ là những con người lao động tích cực giữa bao la biển trời. Khổ thơ diễn tả tâm trạng vui tươi của đoàn thuyền khi đánh cá trên biển.

Khổ 3 trong bài thơ thể hiện tư thế con người tự do làm chủ cuộc sống, làm chủ biển trời thì khổ 4 nhà thơ hướng tầm nhìn xuống lòng biển. Vẻ đẹp và tiềm năng dồi dào của biển hiện lên giữa đêm trăng. Nhà thơ liệt kê khá đa dạng các loài cá với đầy màu sắc. đuối đen hồng, là hình ảnh gợi tả bầy cá sóng phản chiếu ánh trăng như lễ hội rước đuốc, Đồng thời tác giả còn nhân hoá các loài cá đuôi em quẫy, làm ánh lên màu sắc của cá. Sau cùng là nhịp thở của vũ trụ về đêm “Đêm thở”. Là nối nhân hoá sinh động diễn tả cảnh sóng vỗ rì rào. Hàng triệu giọt nước tung bay chiếu ánh sáng trắng tạo lên ngàn sao leo đỉnh đầu đoàn thuyền vẫn cất cao tiếng đây là lời ngợi ca sự giàu có của biển.

Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.Qua nhịp thở của vũ trụ về đêm. Đoàn thuyền hứng khởi cất cao tiếng hát mời gọi cá vào lưới. Vẫn với biện pháp nhân hoá quen thuộc trăng soi bóng nước sáng lăn tăn bóng trăng đập vào thuyền. Tạo thành tác động trăng gõ thuyền để giúp người xua cá vào. Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh biển với lòng mẹ để nói lên niềm tự hào. Giọng thơ ấm áp chứa chan tình nghĩa.

Khổ 6 khi trăng đã xế ngang đầu, vũ trụ đi đến nửa đêm về sáng cũng là thời điểm chín muồi để đoàn thuyền thu hoạch mẻ cá đầy lưới.

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Bầu trời sao đã thưa và mờ, cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng, Những cánh tay rắn chắc kéo lưới, xoăn tay. “Chùm cá nặng” là hình ảnh ẩn dụ được mùa cá. Trên khoang thuyền đầy ắp các loại cá vẩy bạc, đuôi vàng. Một lần nữa cho thấy nghệ thuật sử dụng màu sắc của nhà thơ rất điêu luyện. Sắc cá dưới ánh trăng, đuôi cá được miêu tả thật tuyệt vời.

Khổ thơ cuối thể hiện cảm xúc mạnh mẽ, hình ảnh con người vội đưa thuyền quay về bến cũ.

7 Bài văn phân tích Đoàn thuyền đánh cá số 7
Vote
100%

3

by Chanh 19-03-2021

Huy Cận tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở Hà Tĩnh là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ Mới. Sau cách mạng, ông tiếp tục sáng tác và trở thành nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh. Bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi vẻ đẹp khỏe khoắn của con người lao động trong sự hài hòa với vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên kỳ vĩ.

Mở đầu bài thơ là cảnh hoàng hôn trên biển vừa diễm lệ, huyền ảo, lộng lẫy, rực rỡ nhưng cũng không kém phần huy hoàng, hùng vĩ, tràn đầy sức sống:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”

Câu thơ mở đầu với biện pháp nghệ thuật so sánh gợi ra cảnh mặt trời xuống biển thật ngoạn mục, rực rỡ, tráng lệ, khác hẳn cái thê lương thường thấy trong thơ cổ: “Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn”. Khi mặt trời nhập vào lòng biển thì cũng là lúc bóng đêm bao phủ khắp nơi. Vũ trụ bao la rộng lớn như ngôi nhà khổng lồ mà màn đêm là cánh cửa sập xuống, mỗi lượn sóng như những chiếc then cài. Biện pháp nghệ thuật nhân hóa khiến thiên nhiên trở nên gần gũi với con người.

Khi thiên nhiên vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu một ngày lao động mới:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Đến đây ta nhận thấy có sự đối lập giữa hoạt động của thiên nhiên và con người, Điều đó tạo nên tư thế làm chủ cuộc sống của người dân chài. Hình ảnh “Đoàn thuyền” gợi ra không khí đông vui tấp nập đầy khí thế của cảnh ra khơi. Từ “lại” cho thấy đây là công việc hằng ngày. Nổi bật trong khổ thơ là hình ảnh ẩn dụ: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” thật thơ mộng, khỏe khoắn và lãng mạn. Đó là tiếng hát chan chứa niềm vui, niềm lạc quan của người dân chài khi được làm chủ thiên nhiên đất nước, làm chủ công việc mà họ yêu thích, gắn bó. Đoàn thuyền ra khơi với khí thế khẩn trương, hăm hở và niềm vui phơi phới hứa hẹn vào những thành quả tốt đẹp.

Không chỉ hát để đưa con thuyền ra khơi mà ngư dân còn hát để đưa cá vào lưới:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”

Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”Câu hát là lời cầu mong biển lặng sóng yên để đoàn thuyền ra khơi được an toàn. Câu hát còn là lời cầu mong cho ngư dân bắt được nhiều cá. Giọng thơ ngọt ngào, ngân dài, vang xa ẩn chứa tấm lòng đôn hậu của người dân chài.

Bốn khổ thơ tiếp theo tả cảnh đánh cá trên biển vào đêm trăng. Trên cái nền hùng vĩ, mĩ lệ, đoàn thuyền hiện lên thật đẹp:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”

Câu thơ tả thực đậm chất lãng mạn, biển cả bao la hiền hòa, con thuyền có gió làm bánh lái, có trăng làm cánh buồm đang lướt đi như bay lên giữa trời cao biển rộng. Vẫn con người lao động ấy nhưng cảm hứng lãng mạn và bút pháp phóng đại đã đưa hình ảnh quen thuộc đến kì vĩ, lớn lao. Cả vũ trụ như quây quần bên đoàn thuyền, không còn cảm giác nhỏ bé, lẻ loi của con người như trước cách mạng, mà ở đây con người lao động được tôn vinh mang tầm vóc và sức mạnh phi thường sánh ngang cùng vũ trụ. Đoàn thuyền bước vào trận đánh hừng hực khí thế và niềm tin:

“Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Nhịp thở dồn dập, hối hả, lôi cuốn, con người chủ động dò bụng biển tiến vào khơi xa và thiên nhiên biển cả cũng góp sức với con người trên con đường lao động khám phá.

Khổ bốn là lời bài hát của người lao động ca ngợi sự phong phú giàu có của biển cả:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

Biện pháp nghệ thuật liệt kê và miêu tả đã làm rõ vẻ đẹp muôn màu của biển cả lúc về đêm. Biển cả như một bức tranh sơn mài rực rỡ sắc màu với ánh sáng của trăng, của sao, của đuôi cá quẫy lấp lánh. Câu thơ cuối gợi về nhịp sống của vũ trụ trong màn đêm huyền ảo. Nhà thơ dường như đang mở rộng lòng mình để đón nhận những điều kì diệu của cuộc sống.

Tiếng hát khỏe khoắn, cường tráng lại vang lên giữa bao la trời đất:

“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”

Người dân chài vừa làm việc vừa hát bài ca gọi cá vào lưới. Tiếng hát đã làm khuấy động bầu trời đêm, vừa ngợi ca vẻ đẹp của người lao động vừa như mời gọi thiên nhiên tham gia vào buổi lao động. Một lần nữa, Huy Cận sử dụng yếu tố lãng mạn. Trăng lên cao như sà xuống, muôn vàn ánh trăng tan theo làn sóng vỗ vào mạn thuyền, như gõ nhịp cho lời bài ca. Chất lãng mạn bao trùm bức tranh lao động khiến công việc trở nên nhẹ nhàng, đẹp và nên thơ. Biện pháp nghệ thuật so sánh: “Biển cho ta cá như lòng mẹ. Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” nhấn mạnh vẻ đẹp đẽ, giàu có, phong phú và biết bao ân tình, nhân hậu của biển cả quê hương. Ẩn chứa trong từng dòng thơ là tấm lòng biết ơn của người dân chài với biển mẹ bao dung.

Khổ thơ thứ sáu tạo dựng về hình ảnh của người lao động và màu của bình minh. Hình ảnh người lao động khỏe mạnh, vạm vỡ được gợi ra từ câu thơ: “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”. Chỉ với một từ “xoăn”, nhà thơ vừa miêu tả những bắp tay rắn chắc, cuồn cuộn đầy sức mạnh của người dân chài vừa nói lên được kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.

Hay nhất bài thơ là khổ thơ cuối cùng. Tác giả đã sử dụng kết cấu đầu cuối tương xứng để làm hoàn thiện chuyến ra khơi của người dân chài. Câu hát vui tươi, khỏe khoắn một lần nữa được cất lên, đó là khúc ca khải hoàn chiến thắng. Đoàn thuyền trở về trong ánh bình minh:

“Mặt trời đội biển nhô màu mới”

Câu thơ gợi lên không gian bao la sắc hồng của bình minh tràn ngập màu mới của một ngày tươi đẹp, đó là ánh sáng của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Trong không gian tươi đẹp của bình minh, đoàn thuyền đánh cá trở về:

“Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”

Nghệ thuật nhân hóa cùng lối nói khoa trương, cường điệu đặc biệt là hình ảnh thơ liên tưởng độc đáo, kì vĩ đã vẽ ra tư thế, tầm vóc của đoàn thuyền đặt ngang tầm với mặt trời, chủ thể của vũ trụ. Tư thế của đoàn thuyền cũng là tư thế của người lao động hiên ngang, hào hùng, mạnh mẽ. Nghệ thuật phóng đại “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” gợi ra vẻ đẹp bao la, hùng vĩ, phong phú, giàu có của biển cả quê hương, của thiên nhiên đất nước dưới con mắt con người giữa cuộc sống mới.

Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, hình ảnh thơ tươi sáng, đẹp đẽ, cảm xúc mãnh liệt. Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng linh hoạt tạo cho hình ảnh thơ nhiều ý nghĩa.

Bài thơ là một bức tranh đẹp, một bản hùng ca hoành tráng và phấn khởi về thiên nhiên và con người. Phải có tình yêu sâu nặng, sự gắn bó bền chặt giữa con người với thiên nhiên, Huy Cận mới có thể biểu hiện được một cách sảng khoái đến thế.

8 Bài văn phân tích Đoàn thuyền đánh cá số 8
Vote
0%

3

by Chanh 19-03-2021

Nếu trước cách mạng, hồn thơ Huy Cận mang nỗi buồn vạn kỷ thì sau chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh làm nảy nở trở lại thi hứng của nhà thơ. Bài thơ “ Đoàn thuyền” ra đời trong thời gian ấy, đó là niềm vui trước cuộc sống hối hả và thiên nhiên đất nước.

Cuộc hành trình của đoàn thuyền đánh cá mở ra ba khoảng không, thời gian khác nhau: ra khơi, đánh cá và khi trở về. Không gian đất trời rộng lớn được khắc họa qua vài nét chấm phá tài hoa, hình ảnh một ngày tàn hiện lên thơ mộng nơi biển cả mênh mông:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”

Hình ảnh so sánh độc đáo ông mặt trời khổng lồ như hòn lửa đang từ từ lặn xuống phía đại dương và gồng mình gom lại những tia nắng trong ngày tạo nên không gian hùng vĩ. Liên tưởng táo bạo của tác giả kết hợp với biện pháp nhân hóa biến “ sóng” như một sinh thể cài cửa khi màn đêm buông xuống. Qua đó giúp người đọc hình dung vũ trụ như một ngôi nhà lớn chứa đầy bí ẩn sau bức màn đen huyền bí. Bóng tối bao trùm là lúc các hoạt động tạm dừng lại nhưng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá phác họa trên nền bức tranh rộng lớn:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Hình ảnh hoán dụ “ đoàn thuyền, câu hát” chỉ người dân chài lưới bắt đầu cuộc hành trình khám phá đại dương bao la. Câu ca ngân vang gợi khí thế hào sảng, tươi vui tràn đầy năng lượng. Tinh thần lạc quan ấy ta từng bắt gặp trong dòng suy nghĩ của ông lão đánh cá trong tiểu thuyết “ Ông già và biển cả”. Lời hát cất lên thật ý nghĩa:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”

Câu hát luôn đồng hành cùng chặng đường gian nan phía trước của người dân chài. Họ ngợi ca sự giàu có của biển Đông “ cá bạc, cá thu như đoàn thoi”, ý thơ gợi sự trù phú của biển cả “ rừng vàng biển bạc”, như thuyền trưởng Ne-mo trong tiểu thuyết “ Hai vạn dặm dưới đáy biển” từng tự hào về nguồn tài nguyên bất tận đó. Trong câu ca còn chứa đựng mong ước của người dân về một chuyến ra khơi bình an: biển lặng, bội thu : dệt lưới, từng đoàn cá như người bạn gần gũi song hành cùng đoàn thuyền. Chúng kết thành luồng sáng để dẫn đường cho họ và lời gọi “ đoàn cá ơi!” cũng khẳng định tình cảm đặc biệt giữa người dân và biển mẹ. Con thuyền no gió biển khơi lướt đi hiên ngang giữa lòng biển vô cùng khơi dậy hình ảnh sống động:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”

Những chuyến ra khơi cô đơn bởi thiên nhiên ưu ái cũng kề vai sát cánh cùng con người. Bút pháp phóng đại gợi trong ta trưởng liên tưởng: sức gió làm bánh lái đưa con thuyền ra biển căng tràn năng lượng như con tuấn mã, vầng trăng làm cánh buồm, thiên nhiên cũng góp sức cùng con người và người lao động đã làm chủ thiên nhiên. Một loạt động từ “ lướt, ra đậu, dò, dàn thế trận” không chỉ gợi tốc độ phi thường mà còn hành động dứt khoát của đoàn thuyền trước thế trận của biển cả. Điểm nhìn thay đổi, nhà thơ ghi lại sức sống của biển với vô vàn loài cá quý “ cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song”, khoảng không im lặng như nghe được tiếng thở của đại dương. Hình ảnh nhân hóa sáng tạo “ sao lùa nước Hạ Long” dường như những vì sao rơi xuống dòng chảy tạo nên nhịp sống bất tận. Lời ca vang lên gọi cá vào lưới có sự giúp đỡ của vầng trăng gõ vào mạn thuyền. Đồng thời câu hát thể hiện lòng biết ơn sâu sắc với biển mẹ hiền từ đã nuôi lớn những người con vùng biển:

“Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự thuở nào”

Cuộc hành trình đầy vất vả nhưng niềm tin tưởng vào sức mình đã giúp họ vượt lên tất cả. Hình ảnh đoàn thuyền kéo lưới là lúc người dân chài gặt hái thành quả lao động:

“Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”

Sức khỏe cường tráng của cơ bắp dồn lại để cất mẻ cá nặng, đó là món quà hậu hĩnh của thiên nhiên đáp trả công lao của người dân. Những chú cá nằm trong lưới ánh lên sắc tươi sáng rạng đông được liên tưởng như những sản vật quý hiếm “ vàng, bạc” của biển cả. Hình ảnh “ nắng hồng” gợi nét duyên dáng, trẻ trung của buổi bình minh trên biển. Trải qua một đêm dài trên biển, giờ đây đoàn thuyền lại chạy hết tốc lực trở về đất liền cho kịp phiên chợ sáng:

“Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi”

Lời hát đầy lạc quan lại ngân vang chứa niềm tin, nghị lực sống bền bỉ của người dân làng chài. Chi tiết “ mặt trời” tỏa vầng sáng tươi mới khắc tạc một bình minh diễm lệ, huy hoàng. Nơi khoang thuyền đầy ắp cá cũng chứa đựng hàng ngàn mặt trời bé con, nới thắp sáng niềm vui sống mãnh liệt.

Bằng thể thơ thất ngôn mang âm hưởng hào hùng, khỏe khoắn, nhà thơ Huy Cận không chỉ phác họa hình ảnh tráng lệ của thiên nhiên đất nước và cuộc sống lạc quan, hối hả của người dân lao động mà còn thể hiện tình yêu, niềm tự hào của một thi nhân.

9 Bài văn phân tích Đoàn thuyền đánh cá số 9
Vote
0%

3

by Chanh 19-03-2021

Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam-một hồn thơ dạt dào cảm hứng lãng mạn về thiên nhiên đất nước, con người trong thời đại mới. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" được nhà thơ sáng tác vào năm 1958 khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. bài thơ là bức tranh thiên nhiên con người về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào lúc hoàng hôn, cảnh đoàn thuyền đi trên biển đánh bắt cá và cảnh đánh bắt cá vào lúc bình minh.

Đề tài " Con người lao động" đã khơi gợi cảm hứng bất tận cho tất cả các nhà thơ nhưng đối với Huy Cận ông cũng chọn đề tài ấy để viết về ngư dân trên vùng biển Hạ Long tươi đẹp:

"Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi."

Câu thơ mở đầu miêu tả cảnh mặt trời như hòn lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống dưới đáy đại dương để lại trên biển và phía chân trời một màu tím của hoàng hôn. Nghệ thuật so sánh "Mặt trời như hòn lửa" gợi tả cảnh mặt trời lúc hoàng hôn trên biển với bao màu sắc rực rỡ một vẻ đẹp kì vĩ tráng lệ. Trong khoảnh khắc bao sắc màu rực rỡ đã thay vào màu đen của màn đêm. Với trí tưởng tượng phong phú cùng với nghệ thuật ẩn dụ những con sóng giống như chiếc then cài, màn đêm là cánh cửa.Vũ trụ bao la rộng lớn giống như một ngôi nhà trong trạng thái nghỉ ngơi, yên tĩnh và màn đêm kia như thử thách lòng can đảm của con người. Thế nhưng trong hoàn cảnh ấy ta lại bắt gặp hình ảnh: "Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi." Phép tu từ hoán dụ "đoàn thuyền đánh cá" chỉ những người ngư dân họ đang bắt đầu một ngày lao động mới. Từ "lại" chỉ sự lặp đi lặp lại nhiều lần liên tục đã trở thành thói quen. Đó là tinh thần lao động hăng say quên cả mệt mỏi, quên cả thời gian của những người ngư dân, của những con người lao động mới của miền Bắc trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đêm tối mặt biển bỗng trở nên nhộn nhịp bởi tiếng hát của những người ngư dân cất lên. Câu hát hòa cùng với làn gió mát của biển khơi thổi căng cánh buồm để đưa con thuyền ra khơi nhanh hơn. Bút pháp khoa trương "Câu hát căng buồm" tác giả muốn nói tới sức mạnh của những con người lao động. Câu hát hòa cùng với gió khơi là muốn nói đến sự hòa hợp giữa thiên nhiên với con người. Thiên nhiên đang góp sức ủng hộ con người. Câu hát thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, niềm vui lao động, sôi nổi hào hứng trong niềm khí thế cùng với buổi đầu ra khơi trong niềm tin vào một chuyến ra khơi thành công, tốt đẹp:

"Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!"

Trong câu hát của những người ngư dân có gọi tên các loài cá: cá bạc, cá thu... Phép tu từ so sánh "Cá thu như đoàn thoi" vừa gợi về hình ảnh sống động vừa là lời ca ngợi nguồn tài nguyên phong phú ở vùng biển tỉnh Quảng Ninh. Với trí tưởng tượng độc đáo kết hợp với ngòi bút vừa hiện thực vừa lãng mạn để rồi đôi mắt của nhà thơ như đang được ngắm nhìn đoàn cá thu như những chiếc thoi đưa dệt nên những tấm vải lớn lấp lánh muôn màu sắc. "Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi" câu thơ như lời mời gọi đoàn cá vào lưới. Câu hát của những người ngư dân không chỉ thổi căng cánh buồm vừa thể hiện sức mạnh, vừa thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời. Câu hát ấy không chỉ ngợi ca về vùng biển giàu có nước ta mà nó còn hữu ích trong công việc đánh bắt cá. Nó đã trở thành bài ca trong lao động.

Với trí tưởng tượng phong phú cùng với ngòi bút thơ đầy lãng mạn bay bổng nhà thơ đã đưa người đọc đến hình ảnh thật là đẹp:

"Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng."

Đoàn thuyền đánh cá ra khơi có gió làm bánh lái vầng trăng khuyết trên trời cao đã trở thành cánh buồm. Gió và trăng đã trở thành hai bộ phận của con thuyền giúp sức cùng ngư dân đưa đoàn thuyền ra khơi. Sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Trước mắt nhà thơ đoàn thuyền đánh cá giống như những con thuyền thơ lướt nhẹ trên mặt biển và in đầy trăng sao. Và giờ đây đoàn thuyền ấy cùng với những người ngư dân đang"Ra đậu dặm xa dò bụng biển". Những người ngư dân của thời đại mới thực sự làm chủ biển khơi, làm chủ cuộc đời, trang bị phương tiện tiên tiến, hiện đại, những con người ra khơi để thăm dò "bụng biển" đánh bắt tài nguyên đem về xây dựng đất nước. Bằng trí tưởng tượng kết hợp cách nói khoa trương gợi ra trước mắt người đọc hình ảnh đoàn thuyền đánh cá đang "Dàn đan thế trận lưới vây giăng." Những con thuyền to lớn, tư thế hùng dũng, hiên ngang, giống như những thuyền chiến còn con người đang thả lưới vây giăng chuẩn bị bước vào trận chiến đấu mới trên mặt trận lao động. Nhà thơ đã nâng tầm vóc con người lên sánh ngang cùng biển rộng vũ trụ.

Đã bao đời, người ngư dân có mối quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như thuộc lòng bàn tay. Bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng, thuộc cả thói quen của chúng:

"Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long."

Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đuôi, sóng sánh trăng vàng. Bài ca "gọi cá "vẫn tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền, như "gõ nhịp" phụ họa cho tiếng hát. Trăng chiếu sáng cho người kéo được những mẻ cá đầy. Thiên nhiên con người thật là hòa hợp.

Bóng đêm đang tan, ngày đang đến, nhịp độ công việc càng sôi nổi, khẩn trương:

"Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng."

Bao công lao vất vả đã được đền bù. Dáng người ngư dân đang choãi chân nghiêng người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Bóng dáng họ in trên nền trời hồng của buổi bình minh. Những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh thêm "vẩy bạc, đuôi vàng" và màu sắc phong phú của bao loài cá cũng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ cuối của khổ thơ trên chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng thoải mái của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.

Nếu những người ngư dân ra khơi cất cao tiếng hát thì khi hoàn thành họ cũng cất cao tiếng hát:

"Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi."

Với bút pháp khoa trương lại một lần nữa nhà thơ tưởng tượng câu hát của người ngư dân, câu hát cùng gió thổi căng cánh buồm đưa con thuyền về bến nhanh hơn. Dường như thiên nhiên và con người có sự hòa hợp. Tiếng hát còn thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời niềm vui trước thành quả lao động của những ngày vất vả trên biển. Câu hát xuất hiện ở khổ đầu giờ lại lặp lại ở khổ cuối tạo cho bài thơ đầu cuối tương ứng. Bút pháp khoa trương cùng trí tưởng tượng nhà thơ đã hình dung trước mặt mình là khung cảnh tráng lệ, sôi động. Mặt biển rộng lớn trở thành trường đua với hai đối thủ là con người và mặt trời. Và chắc hẳn con người sẽ thắng bởi họ đã một lần chiến thắng biển khơi với những khoang thuyền đầy cá. Đặt con người trong cuộc tranh tài với thiên nhiên là nhà thơ khẳng định tầm vóc của con người có thể sánh ngang thiên nhiên. Hòa cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền lao vun vút trên mặt biểu, "Mặt trời đội biển nhô màu mới" một màu hồng rạng rỡ, tinh khôi, và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá trên thuyền, khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm vui. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh, của người.

Bài thơ đã thể hiện rõ tinh thần của nhân dân lao động lúc bấy giờ và cũng thể hiện rõ cảnh đẹp quê hương đất nước với nguồn tài nguyên phong phú. Tác giả với tình yêu thiên nhiên, yêu con người lao động đã thể hiện được không khí sôi nổi, hào hùng của đất nước ta khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

10 Bài văn phân tích Đoàn thuyền đánh cá số 10
Vote
0%

3

by Chanh 19-03-2021

Huy Cận là một trong các nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ Mới với tập thơ “Lửa thiêng” (1940). Và sau năm 1945, Huy Cận cũng là một nhà thơ tiêu biểu cho nền văn học kháng chiến. Nếu trước cách cách mạng tháng 8, Huy Cận mang một hồn thơ của "cái tôi" ảo não sầu bi – “một mạch sầu ngàn năm ngấm ngầm trong cõi đất này” (Hoài Thanh) thì sau cách mạng tháng 8, Huy Cận hướng ngòi bút đến sự hòa hợp riêng - chung, biểu hiện niềm vui và sự hòa nhập với cuộc đời mới. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" rất tiêu biểu cho cảm hứng vũ trụ của Huy Cận, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp cầm bút của ông. Tác phẩm được in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958). Qua bài thơ, chúng ta thấy được vẻ đẹp tráng lệ, hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động của ngư dân miền biển khi đứng trước cuộc sống mới, sau hòa bình lập lại.

Bài thơ được sáng tác vào năm 1958, trong hoàn cảnh miền Bắc nước ta được giải phóng và đang từng bước xây dựng Chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống mới trong không khí hào hứng, phấn khởi. Giữa năm 1958, trong chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh, Huy Cận tận mắt chứng kiến sự hồi sinh của đất nước, của nhân dân, của con người lao động đang ra sức dựng xây làm đẹp cho quê hương xứ sở. Từ đó mà Huy Cận có cảm hứng viết nên bài thơ.

Thi phẩm là một sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ trong việc xây dựng hình ảnh bằng sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, hấp dẫn. Âm hưởng chung của toàn bài: khỏe khoắn, tươi vui, hào hùng, lạc quan mạnh mẽ.

Trước hết là Cảnh đoàn thuyền ra khơi và tâm trạng náo nức của con người lao động ở hai khổ thơ đầu. Đó là một bức tranh thiên nhiên vào lúc hoàng hôn buông xuống thật huy hoàng, tráng lệ:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa

Hình ảnh “mặt trời” đã được nhân hóa (xuống biển) và so sánh (như hòn lửa) trở nên sống động, huy hoàng. Đó là tín hiệu của sự vận động, chảy trôi của thời gian, báo hiệu thời khắc của ngày tàn đêm đến. “Sóng” và “đêm” cũng được nhân hóa với hành động “cài then” , “sập cửa”. Vũ trụ được hình dung như một ngôi nhà lớn đang vào đêm với động tác như con người: tắt lửa, cài then, sập cửa. Màn đêm như là tấm cửa khổng lồ đã sập xuống, còn những con sóng lượn là cái then cài. Thiên nhiên như dọn dẹp để nghỉ ngơi sau một chu trình hoạt động.

Giữa lúc thiên nhiên chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thì đó lại là thời gian con người bắt đầu cuộc sống lao động:

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Từng đoàn, từng đoàn thuyền lần lượt nhổ neo đẩy thuyền ra khơi. Phụ từ “lại” như vừa diễn tả sự đối lập giữa hoạt động của vũ trụ với hoạt động của đoàn thuyền; đồng thời cũng gợi lên tư thế chủ động, hết sức khẩn trương, mau lẹ, tích cực trong công việc mà hằng ngày cứ diễn ra lặp đi lặp lại của người dân chài lưới: "lại ra khơi". Tuy nhiên, khí thế ra khơi của họ vẫn hăm hở, náo nức, rộn rã tiếng nói, tiếng hát vui cười. “Câu hát căng buồm” là một hình ảnh ẩn dụ cho tâm hồn lạc quan, niềm vui và sức mạnh của con người lao động. Và con người lao động như hiện lên làm chủ tự nhiên, làm chủ biển cả. Chính tiếng hát đã hòa cùng với gió trời thổi phồng cánh buồm, đẩy con thuyền tiến ra ra khơi xa. Tâm tư của người đánh cá gửi gắm trong tiếng hát: phấn khởi, say mê với công việc và niềm hi vọng tin tưởng sẽ bắt được nhiều cá tôm, đem về làm giàu cho tổ quốc.

Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!

Với hình thức liệt kê hình ảnh các loài cá: cá bạc, cá thu, Huy Cận đã cho người đọc thấy sự giàu có của biển Đông. Biển Đông có rất nhiều cá và đang chờ mọi người tới khai thác. Cá được nhà thơ so sánh “như đoàn thoi”. Đoàn thoi hoạt động rất nhanh và nhiều trên bến phà. Và cá ở biển Đông cũng nhiều và bơi rất nhanh như thoi đưa vậy. Câu thơ cất cao lên tiếng hát, tràn ngập niềm say mê, phấn khởi trước sự ưu ái của thiên nhiên ban tặng cho người dân vùng chài. Vì thế, hai câu thơ cuối, Huy Cận như nhập thân vào người lao động, thể hiện niềm mong mỏi của người ngư dân có thể bắt được nhiều cá tôm. Họ hi vọng, những đàn cá "đêm ngày dệt biển" ấy sẽ vào “dệt lưới” của đoàn thuyền. Vần "ơi" kết hợp với dấu chấm cảm ở câu thơ cuối khiến cho hình ảnh của những đàn cá hiện lên thật sinh động, thật gần gũi, thân thiết với con người.

Với khả năng quan sát miêu tả tinh tế, hòa cùng với cảm hứng vũ trụ thật mãnh liệt, Huy Cận đã tái hiện vẻ đẹp cận cảnh đoàn thuyền ra khơi hùng tráng, thơ mộng trong đêm trăng.

Trên đây là một số bài văn hay phân tích “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, hy vọng có thể giúp ích cho bạn!

Tears in Heaven