Thông báo mới! TOP SHARE

Top 10 bài văn phân tích Độc Tiểu Thanh kí hay

  • 7,501 views
  • 5 likes
  • Add Favorite
  • Be a liked
  • Báo lỗi
  • Tài trợ

by Chanh 28-02-2021

Độc Tiểu Thanh kí là một trong những tác phẩm nổi bật gắn với tên tuổi Nguyễn Du, bên cạnh những kiệt tác lớn như Truyện Kiều của ông. Cảm xúc thơ trong Độc Tiểu Thanh kí bắt nguồn từ câu chuyện về cuộc đời bất hạnh của nàng Tiểu Thanh. Với nỗi đau người, nhìn về nỗi đau mình, sợi dây cảm xúc rung cảm trong Nguyễn Du để ông thể hiện tiếng nói đồng cảm đầy xót xa. Những con người tài hoa trong xã hội cũ bấy giờ phần nhiều chịu chung sự rẻ rúng, người ta nói đó là những kẻ tài hoa bạc mệnh. Điều này thực khiến chúng ta phải day dứt nghĩ suy và chính Nguyễn Du cũng đặt ra câu hỏi rồi những kẻ tài hoa nói chung, bản thân ông nói riêng, liệu người đời sau còn nghĩ tới? Sự đồng cảm và những trăn trở của Nguyễn Du rõ ràng đã thể hiện tiếng nói nhân đạo sâu sắc. Để có những cách hiểu và góc nhìn cụ thể về bài thơ Độc Tiểu Thanh kí, dưới đây là 10 bài phân tích được sưu tầm bạn có thể tham khảo!

6 Bài văn phân tích Độc Tiểu Thanh kí số 6
Vote
0%

5

by Chanh 28-02-2021

Thơ văn Nguyễn Du tựa như một kim tự tháp sừng sững giữa đất trời mênh mông. Ba mặt của kim tự tháp ấy, mỗi mặt đều mang một vẻ đẹp kỳ lạ. Mặt chính diện óng ánh sắc màu “Truyện Kiều” với “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Mặt trái cấu trúc bằng một thứ vật liệu dân dã với “Thác lời trai phường Nón”, với “Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu”. Và mặt phải của ngôi tháp là những lớp men ngọc, những khối đá hoa cương, đã được tạo, được khắc bằng “Thanh Hiên thi tập”, “Nam trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục”. Nhân dân ta rất lấy làm tự hào về thi hào dân tộc Nguyễn Du.

Nếu “Truyện Kiều” là công trình nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Du về nỗi đau, niềm vui của những kiếp người thì thơ chữ Hán lại cho thấy một cách trực diện sự khám phá tài tình của ông về cái thế giới sâu thẳm ẩn náu trong đáy tâm hồn nhà thơ. Thi sĩ Xuân Diệu đã viết: “Chính thơ chữ Hán chứa đựng bóng hình, đời sống, nét mặt, mái tóc, dấu chân, tâm tình, suy nghĩ của Nguyễn Du”.

Từ những cảm nhận ấy, mỗi một chúng ta xúc động biết bao khi đọc bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký” của Tố Như. Tiểu Thanh là ai? Đó là một cô gái “Nổi danh tài sắc một thì” sống vào đời Minh. Nàng lấy làm lẽ một thương gia họ Phùng. Vợ cả đánh ghen, bắt nàng “biệt cư” trong một ngôi nhà trên núi Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Tiểu Thanh có một tập thơ nói lên cuộc đời khát khao hạnh phúc và đầy nước mắt của mình. Tiểu Thanh đau khổ mà chết giữa lúc tuổi đời vừa mười tám xuân xanh. Nàng chết rồi mà tập thơ của nàng vẫn bị vợ cả đêm đốt, may còn sót lại một số trang, một số bài và được người đời chép lại gọi là phần dư cào. Thi hào Nguyễn Du trên đường đi sứ qua Tây Hồ, đã đến viếng mộ Tiểu Thanh và đọc tập dư cảo của nàng. Đọc hai câu trong phần đề ta cảm nhận rõ điều đó. Đúng là bài thơ “Độc Tiểu thanh ký” nằm trong Bắc hành tạp lục”.

Từ lúc nàng Tiểu Thanh sống và chết đến lúc Nguyễn Du đi sứ (1813) qua Tây Hồ đã hơn ba trăm năm. Đã có biết bao vật đổi sao dời, biển dâu, dâu biển. Thế mà một vài bài thơ mỏng manh của nàng Tiểu Thanh vẫn làm cho một nhà thơ phương Nam rơi lệ? Mở đầu bài thơ là cả một sự bùi ngùi thương cảm:

“Tây hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”

“Hoa uyển” và “khư” là hai khái niệm chuyển hóa đối lập. Cảnh xưa đẹp thế mà nay đã hoang tàn, phế tích. Chữ “tận” nghĩa là hết, là kiệt cùng. Bao trùm lên cảnh vật là một màu sắc tang thương, đau buồn. Nơi gò hoang ấy chỉ còn lại nấm mồ người bạc mệnh và một mảnh giấy tàn (nhất chỉ thư). Một mình nhà thơ đứng lặng trước cửa sổ đọc “mảnh giấy tàn” điếu người xấu số. Thương cuộc đời bể dâu cũng là thương người, thương người bạc mệnh cũng là thương mình. Xót xa và thương cảm. Đó là sự cảm thông của khách tài tử với giai nhân bạc mệnh, của người đang sống đối với người đã khuất. Sau hơn ba trăm năm nàng Tiểu Thanh mất mà “mảnh giấy tàn” của nàng vẫn còn làm cho Nguyễn Du thổn thức, rơi lệ!

Hai câu thơ trong phần thực như chứa đầy nỗi uất ức của Tố Như:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”

“Chỉ phấn” là son phấn tượng trưng cho sắc đẹp của Tiểu Thanh. Văn chương là hiện thân cho tài năng của nàng. Nguyễn Du hỏi đời và hỏi người nhưng mà là để khẳng định: Son phấn có thần, sau khi chết người ta còn xót thương, tiếc nuối. Văn chương còn có số mệnh gì mà người ta còn bận lòng về những bài thơ sót lại sau khi bị đốt! Son phấn và văn chương như những chứng nhân về cuộc đời, về kiếp người oan khổ, ly hận! Vì thế nên son phấn, sắc đẹp thì “có thần”, nó vẫn sống mãi với thời gian và lòng người như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Quý Phi…. cũng như hoa tàn nhưng hương hoa, linh hồn của hoa còn tỏa ngát đâu đây, sắc đẹp của giai nhân vẫn sống mãi cùng tên tuổi họ: “Thác là thể phách, còn là tinh anh”. Nỗi hận và xót xa của “son phấn” chính là nỗi đau thương, nỗi hận của nàng Tiểu Thanh: “Tuổi trẻ bị chôn vùi, sắc đẹp bị hãm hại! Văn chương là tài năng, là vẻ đẹp tinh thần của Tiểu Thanh. Văn chương vốn vô mệnh vì nó vô tri, đâu có sống, chết như Người. Ấy vậy mà “mảnh giấy tàn” của người bạc mệnh “vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”, chống chọi lạc cùng cái ác, vươn lên mà tồn tại, làm nhức nhối người đời, xưa và nay. Nguyễn Du nói về “son phấn” và “văn chương” là để khẳng định ngợi ca tài sắc Tiểu Thanh, của mọi tài tử giai nhân trong cuộc đời bể dâu. Và chính Nguyễn Du, với cảm quan người nghệ sĩ liên tài từ “mảnh giấy tàn” mà nói lên nỗi uất hận ngàn đời của Tiểu Thanh, của những hồng nhan bạc mệnh!

Nghĩ về tài sắc giai nhân và cái đẹp trong cõi nhân gian, Nguyễn Du xót xa suy ngẫm về lẽ đời và tình người trong mọi điều oan trái:

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư”

Sự oán hận xưa và nay khó mà hỏi trời được. Đất dày trời cao “Oan này còn một kêu trời nhưng xa” (“Truyện Kiều”). Nói hỏi trời vì không thể hỏi người. Và khi đã “thiên nan vấn” tức là nỗi bế tắc, oan khổ đày rẫy mọi nơi, mọi chốn. Câu thơ như một tiếng kêu thương rung động cõi đất, trời. Và nỗi oan phong vận kỳ dị kia, ta tự mình lại buộc lấy mình. Phong nhã, phong lưu cùng với đào hoa là vẻ đẹp, là bản sắc của con người. Trong cõi đời ta mấy ai được phong nhã hào hoa? Phong lưu là niềm mơ ước của nhiều người. Sao Nguyễn Du lại gọi là “cái án phong lưu”? Khách phong lưu đáng lẽ được hưởng cái nhàn nhã, thanh thản cuộc đời sao lại phải mang cái án oái ăm vào mình? Đúng là nghịch lý, nghịch cảnh. “Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy!” . Đã bao đời nay, “cái án phong lưu ấy” đã đeo đẳng vô số tao nhân mặc khách. Nguyễn Du đâu phải là kẻ “Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa” mà là đã nhập thân vào Tiểu Thanh để nói lên những điều day dứt, băn khoăn bao đời nay. Khách tài tử phong lưu đã tri âm với giai nhân bạc mệnh là vậy. Họ là tài tình, là cái đẹp, là khát vọng về cái đẹp, nên họ cảm thương nhau. Nguyễn Du đã cảm thương Dương Quý Phi (Dương Phi cố lý), đã “thổn thức” Tiểu Thanh, với cảm tâm của một khách tài tử. Thương nàng Tiểu Thanh bao nhiêu, ông càng thương mình bấy nhiêu! “Độc Tiểu Thanh ký” là khúc bi ai thương người, cũng là lời tự thương đau xót:

“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”

Nguyễn Du là một “bậc tài tử trong đời. Tiểu Thanh là một khách hồng nhan. Nguyễn Du tìm thấy giữa mình và người con gái ấy có những nét “đồng bệnh tương liên”. Tài tử gian nan, hồng nhan bạc mệnh. Tiểu Thanh chết trong đau khổ, lưu lại với “nhất chỉ thư”, một mảnh giấy tàn, thế mà hơn ba trăm năm sau còn có Nguyễn Du Thương xót cho số phận nàng. Rồi nhà thơ tự khóc mình và cất tiếng nói: Liệu sau khi ông mất, hơn ba trăm năm, trong thiên hạ còn có ai thương ông? Hai câu kết này rất nổi tiếng. Ai đã từng đọc Nguyễn Du đều nhớ. Tôi vẫn rất thích hai câu dịch của Xuân Diệu:

“Ba trăm năm nữa mơ màng
Có ai thiên hạ khóc chàng Tố Như?”

Câu thơ Chứa đầy tâm sự, tâm trạng. “Một tấm lòng vẫn giấu che, bộc lộ trong một phút giây, chệch nhẹ bức mành, mà ta nhìn được cả một thế giới còn chưa nói” (“Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán” – Xuân Diệu). Câu thơ như tiếng khóc xót thương cho số phận mình. Ở nơi đất khách quê người, trong những tháng ngày đi sứ. Tố Như càng cảm thấy mình bơ vơ, không kẻ tri âm tri kỷ, một mình ôm mối hận của kẻ tài hoa bạc mệnh: “Người đời ai khóc Tố Như chăng?”.

Viết về Nguyễn Du, nhà thơ Tố Hữu có câu “Tiếng thơ ai động đất trời….”. Sau khi Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử. Nguyễn Du cất tiếng nghẹn ngào:

“Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi?”

Ở trong bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký”, ông lại xót xa hỏi: “Son phấn có thần chôn vẫn hận – Văn chương vô mệnh đốt còn vương?”. Bài thơ cho ta thấy niềm thương cảm sâu xa của Tố Như đối với con người là vô cùng mênh mông. Đời người hữu hạn, nỗi đau của con người – con người bạc mệnh là vô hạn. Đọc bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký”, chúng ta càng thấy rõ cái tâm của nhà thơ lớn dân tộc, càng vô cùng thấm thía chất nhân văn trong thơ chữ Hán của Tố Như.

7 Bài văn phân tích Độc Tiểu Thanh kí số 7
Vote
0%

5

by Chanh 28-02-2021

Nhắc đến Nguyễn Du, ai trong chúng ta cũng nghĩ ngay đến “Truyện Kiều” bởi đây là một tác phẩm kiệt xuất của thơ ca trung ca trung đại Việt Nam. Song, ngoài “Truyện Kiều” Nguyễn Du cũng còn sáng tác nhiều bài thơ thể hiện sự đồng cảm, thương xót đối với những thân phận hồng nhan nhưng bạc mệnh. Trong số các bài thơ đó thì “Độc Tiểu Thanh kí” là bài thơ tiêu biểu hơn cả.

Bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” được gợi cảm hứng từ một câu chuyện có thật về một cô gái sống vào đầu đời nhà Minh. Cô gái ấy tên là Tiểu Thanh, nàng có nhan sắc vẹn toàn, cầm kì thi họa đều giỏi cả. Thế nhưng nhà nghèo cho nên nàng được gả vào làm vợ lẽ một nhà giàu. Vì bị vợ cả ghen tuông, bắt nàng ra sống riêng ở Cô Sơn, gần Tây Hồ. Trong những ngày tháng cô quạnh đó, nàng Tiểu Thanh đã viết thơ để bày tỏ tình cảnh và nỗi lòng mình. Ít lâu sau, nàng vì quá muộn phiền mà qua đời khi mới mười tám xuân xanh. Người vợ cả đã đem đốt hết những bài thơ của nàng, tuy nhiên một số bài vẫn còn sót lại. Người ta vì thấy thơ hay nên chép lại và đặt tựa là “Phần dư tập”.

Nguyễn Du khi đọc được những bài thơ của nàng Tiểu Thanh đã rất đồng cảm, thương thay cho một thân phận tài hoa nhưng bạc mệnh. Thương cho nàng Tiểu Thanh, tác giả cũng nghĩ đến chính bản thân mình, và từ đó ông cũng nhận ra cuộc đời là đầy rẫy những bất công, khổ ải.

Ngay từ mở đầu bài thơ, không gian nơi nàng Tiểu Thanh từng sống đã gợi lên một nỗi buồn xa vắng:

Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn

Đọc lên hai câu thơ, người đọc hình dung đến một khung cảnh hoang vắng nào đó của miền sơn cước. Ở đó, chỉ duy nhất có một người con gái lẻ loi ngồi bên lầu. Tây Hồ cảnh tuy đẹp nhưng lại hóa gò hoang vắng, quạnh quẽ, đìu hiu. Một cô gái tuổi còn xuân xanh mà phải chôn vùi ở một nơi heo hút thế này sao không buồn bã cho được.

Những nỗi lòng buồn hận ấy, nàng đã giãi bày qua những vần thơ bi ai, tha thiết. Hình ảnh “thổn thức” bên song cửa sổ với những mảnh giấy tàn còn gợi nhắc về câu chuyện nàng bị người vợ cả ghen tuông đem đốt hết những vần thơ ấy. Để bây giờ chỉ còn lại những “mảnh giấy tàn” nhưng đủ sức làm cho người ta phải cảm thấy thương tâm bởi những “thổn thức” đau đáu không biết giãi bày với một ai của nàng Tiểu Thanh. Có lẽ, số phận của nàng cũng là số phận chung của rất nhiều cô gái trong xã hội phong kiến ngày đó. Cuộc đời của những người tài giỏi, tài hoa thường hay bị vùi dập và chà đạp đến thương tâm.

Những tâm tư đau khổ của nàng Tiểu Thanh dường như vẫn còn sức ám ảnh rất lớn, cho nên Nguyễn Du mới có cảm giác như mảnh giấy tàn ấy vẫn còn vương vấn linh hồn của người con gái bạc mệnh ấy:

Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương

Tác giả dùng từ “son phấn” để chỉ sắc đẹp của người con gái. Thế nhưng cái đẹp, cái tài ấy lại bị vùi dập không thương tiếc. Mảnh giấy tàn như vẫn còn vương vấn những u buồn và uất hận bởi nàng phải chết khi còn quá trẻ. Chính vì phải chết khi còn quá trẻ cho nên người đời không khỏi xót thương cho thân phận tài hoa bạc mệnh của nàng. Không những thế, những trang thơ mà nàng viết để bày tỏ nỗi lòng cũng bị người ta đốt cháy hết. Chỉ còn lại một phần những mảnh giấy tàn là còn lưu lại đến ngày nay. Có thể thấy rằng, xã hội phong kiến không chỉ cướp đi tuổi xanh của người con gái mà còn muốn vùi dập, bóp chết một tài năng.

Đến đây, nhà thơ Nguyễn Du không khỏi thương xót cho số phận nàng Tiểu Thanh:

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang

Một sự tuyệt vọng, bi ai oán và u sầu xoáy tận tâm can! Nỗi oan trái của người con gái đem hỏi trời cao, trời cao không thấu, trách kẻ bạc tình, người nào có hay. Nỗi oan trái ấy dường như đã trở thành cái “án” của những người tài hoa. Tài hoa nhưng bạc mệnh. Hiểu rõ điều đó, Nguyễn Du thốt câu hỏi để rồi nhận ra thực tế đầy chua xót. Đó là cái số phận sinh ra đã thế hay chính cái xã hội phong kiến đã đẩy họ vào bước đường cùng oan trái như vậy? Câu trả lời có lẽ sẽ khiến người đọc phải day dứt và ám ảnh mãi không thôi.

Và ở hai câu kết, từ sự bạc mệnh của nàng Tiểu Thanh, tác giả đã vận vào số phận của mình và để lại cho người đọc một câu hỏi chất vấn về số phận của những con người tài hoa:

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Một câu hỏi mà chứa đựng rất nhiều xót xa, ngậm ngùi. Ba trăm năm sau những vần thơ của nàng Tiểu Thanh vẫn còn khiến người đời thương cảm. Thế nhưng liệu rằng ba trăm năm sau có “ai khóc Tố Như chăng?”. Câu hỏi như xoáy vào tâm can của người đọc. Người đời còn nhớ hay sẽ quên những số phận tài hoa bạc mệnh thương tâm như thế này? Vào thời điểm đó, thực sự đây là một câu hỏi hãy còn để ngỏ. Thực tế đã chứng minh cho đến ngày nay, đã qua ba thế kỉ mà chúng ta vẫn còn nhớ và nhắc đến tài năng Nguyễn Du. Điều này đã cho thấy, dù là trải qua bao nhiêu thời gian thì tài năng và những giá trị của những người kiệt xuất vẫn luôn được trân trọng và cảm thông.

“Độc tiểu thanh ký” là một bài thơ để lại những thương cảm trong lòng người đọc về số phận bất hạnh của những con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Đồng thời qua đây, tác giả cũng muốn nói lên thực trạng xã hội phong kiến tàn ác đã đẩy con người vào những bước đường cùng, chà đạp lên nhân phẩm và hòng bóp chết những tài năng của họ.

8 Bài văn phân tích Độc Tiểu Thanh kí số 8
Vote
0%

5

by Chanh 28-02-2021

Đề tài người phụ nữ ít được các nhà thơ trung đại đề cập đến, ấy vậy mà đại thi hào Nguyễn Du lại viết về người phụ nữ với tất cả tấm lòng trân trọng, thương yêu. Bên cạnh kiệt tác thơ Nôm "Truyện Kiều" viết về người phụ nữ trong xã hội phong kiến, thì bài thơ "Đọc Tiểu Thanh kí" là một sáng tác xuất sắc bằng chữ Hán viết về đề tài này.

Nguyễn Du sáng tác bài thơ trong một lần đi sứ sang Trung Quốc cho triều Nguyễn. Bài thơ tên chữ Hán là "Đọc Tiểu Thanh kí" đã gợi ra nhiều cách hiểu. Có ý kiến cho rằng đó là Nguyễn Du đọc tập truyện viết về cuộc đời nàng Tiểu Thanh, cảm thương cho số phận người phụ nữ tài hoa bạc mệnh mà viết bài thơ này. Lại có ý kiến khác cho là Nguyễn Du đã được đọc tập thơ của nàng Tiểu Thanh để lại và ngưỡng mộ, xót thương cho cuộc đời nàng. Dù hiểu theo cách nào thì ta đều thấy trên hết đó là tấm lòng thấm đẫm tình đời, tình người của nhà thơ.

Tiểu Thanh là một cô gái thông minh, xinh đẹp, có tài thơ phú, sống vào đầu thời Minh ở Trung Quốc, cách Nguyễn Du 300 năm. Nàng bị gia đình ép gả làm vợ lẽ cho một nhà quyền quý. Do vợ cả ghen ghét, đố kị nàng bị đẩy ra sống riêng ở Cô Sơn, cạnh vườn hoa Tây Hồ. Hằng ngày nàng chỉ còn biết làm bạn với thơ, rồi lâm bệnh và chết trong cô đơn khi mới 18 tuổi. Số thơ văn mà nàng để lại bị vợ cả đốt gần hết, chỉ còn sót lại một số bài sau này người ta sưu tầm lại và gọi nó là "phần dư".

Cảm hứng xuyên suốt bài thơ là tấm lòng đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du với số phận nàng Tiểu Thanh. Cũng từ sự đồng cảm sâu sắc đó, ông nhận ra những bất công ngang trái của cuộc đời và thương người, thương mình nhiều hơn. Đến với bài thơ, đầu tiên ta được nhà thơ dẫn dắt đến không gian đầy ấn tượng, nơi khi xưa nàng Tiểu Thanh từng sống:

"Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư"

(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)

Chỉ một chữ "tẫn" mà có sức gợi, sức ám ảnh rất lớn với người đọc. Phần dịch thơ dịch chưa thoát hết ý nghĩa của chữ "tẫn" này. Nghĩa của nó là bị hủy diệt, bị tàn phá, chứ đâu đơn giản là "hóa gò hoang". Chỉ một chữ "tẫn" gợi ra sự đối lập ghê gớm giữa quá khứ và hiện tại. Quá khứ Tây Hồ là cảnh đẹp, non nước hữu tình thì nay chỉ còn là một bãi hoang xơ xác, tiêu điều. Câu thơ nghe xót xa làm sao! Người đọc có thể tưởng tượng khi xưa nàng Tiểu Thanh còn sống thì nơi đây là thắng cảnh mê đắm lòng người, nay người đẹp không còn, cảnh đẹp cũng tiêu tan. Đứng trước quang cảnh ấy, nhà thơ Nguyễn Du bỗng trào dâng niềm ngậm ngùi, lại càng xót xa hơn khi đứng bên song cửa sổ với tập sách của nàng. "Độc điếu" chỉ sự cô độc, lẻ bóng của nhà thơ khi đã vượt qua thời gian, không gian trở về quá khứ để thổn thức khóc thương nàng Tiểu Thanh. Vạn vật đều đổi thay theo thời gian, giữa cuộc đời dâu bể tên tuổi một người con gái tài sắc nhưng bất hạnh vào đầu thời Minh có lẽ cũng dần bị lãng quên theo năm tháng. Câu thơ như tiếng thở dài đầy chua xót của Nguyễn Du trước kiếp hồng nhan bạc mệnh.

Đến hai câu thực là những hình ảnh đầy tính biểu trưng:

"Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư"

(Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)

Nói đến "son phấn" và "văn chương", ta liên tưởng ngay đến nhan sắc và tài năng của nàng Tiểu Thanh. Nhan sắc không có tội tình gì nhưng vẫn bị ghen ghét, tài năng không có tội cũng bị vùi dập không thương tiếc. Hai câu thơ toát lên sự thương xót của nhà thơ cho tài năng và nhan sắc của nàng Tiểu Thanh. Nàng phải chết khi tuổi còn quá trẻ, sáng tác của nàng bị vợ cả tiêu hủy gần hết chỉ còn "phần dư". Dù sống cách nàng 300 năm, nhưng Nguyễn Du bằng tấm lòng thương cảm có thể thấu hiểu những bất công mà nàng phải chịu. Câu thơ cũng thể hiện quan niệm "tài mệnh tương đố" của Nguyễn Du. Trong sáng tác của ông, ta thường bắt gặp những phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng lại gặp nhiều ngang trái, éo le như nàng Đạm Tiên, nàng Kiều. Bởi vậy Nguyễn Du cũng đúc kết thành những câu thơ mang tính khái quát cao:

"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Hay:

"Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?"

(Văn chiêu hồn - Nguyễn Du)

Điểm mới mẻ của bài thơ "Đọc Tiểu Thanh kí" là nhà thơ đã mang đến tiếng nói nhân đạo độc đáo. Điều đó thể hiện ở hai câu 5 và 6 của bài thơ:

"Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư"

(Mối hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)

Nguyễn Du tự coi mình cùng hội cùng thuyền với những người tài hoa bạc mệnh và thốt lên đầy chua xót. Câu hỏi tại sao những con người tài hoa hay gặp nhiều trắc trở, truân chuyên dường như không lời đáp, phải chăng những người tài hoa luôn tự mang trong mình cái "án" bạc mệnh? Trong kiệt tác "Truyện Kiều", nhà thơ từng thốt lên "Tài tình chi lắm cho trời đất ghen", rồi lên "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen". Nếu được sống trong một xã hội khác, thì những người tài sắc vẹn toàn như nàng Tiểu Thanh có lẽ đã không phải chịu nhiều bất công, không bị vùi dập như vậy. Câu thơ thể hiện khát khao của nguyễn Du về những người có tài có tình sẽ được trân trọng.

Khép lại bài thơ là tâm trạng đầy ngậm ngùi, chua xót của Nguyễn Du :

"Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?"

(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ ai người khóc Tố Như?)

Tiểu Thanh đã xa cách cuộc đời được 300 năm, nhưng vẫn còn có người thấu hiểu và đồng cảm với nàng. Nhà thơ đã tự hỏi lòng mình, liệu sau 300 năm nữa có còn ai hiểu được ông hay không? Một câu hỏi đầy sức ám ảnh như xoáy vào tâm can người đọc khi nghĩ đến số phận của những người tài hoa sau một thời gian dài sẽ ra sao? Khép lại bài thơ là niềm mong mỏi có được tri kỉ giữa cuộc đời này của đại thi hào. Thực tế thì cho đến ngày nay, đã qua ba thế kỉ nhưng chúng ta vẫn luôn nhớ đến tên tuổi Nguyễn Du cùng những kiệt tác của ông. Đó là minh chứng cho thấy dù có qua bao thời gian thì tài năng và giá trị của những người tài hoa vẫn luôn được trân trọng, yêu mến. Chính điều này làm nên giá trị nhân văn cao cả cho bài thơ.

Với tám câu thơ chữ Hán thất ngôn bát cú, ngôn từ trang trọng, tinh tế, Nguyễn Du đã lên án, tố cáo mạnh mẽ sự bất công của xã hội phong kiến với những phụ nữ tài sắc vẹn toàn. Bài thơ mang đến cho người đọc sự đồng cảm xót xa trước số phận hồng nhan bạc mệnh của người phụ nữ. Từ đó, mỗi người chúng ta biết trân trọng, yêu mến, có ý thức giữ gìn trước những giá trị tài năng, sáng tạo của người xưa và nay.

9 Bài văn phân tích Độc Tiểu Thanh kí số 9
Vote
0%

5

by Chanh 28-02-2021

Cái đẹp và cái tài từ rất lâu vẫn luôn là chuẩn mực sống và niềm khao khát của con người trong xã hội. Tuy nhiên với Nguyễn Du, ông luôn có một nỗi thấu cảm và thương xót cho những kiếp người hồng nhan bạc mệnh ở mọi thời đại. Điều này được thể hiện rất rõ qua tác phẩm Độc Tiểu Thanh Kí viết về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn nhưng lại có cuộc sống đau khổ và không trọn vẹn.

Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX. Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Gia đình là nơi ảnh hưởng rất lớn đến phong cách sáng tác của Nguyễn Du.

Nguyễn Du có điều kiện tiếp nhận truyền thống văn hóa quý báu của quê hương, gia đình và nhiều vùng văn hóa khác nhau thuận lợi cho sự tổng hợp nghệ thuật. Ông sống trong thời đại xã hội phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng và khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi, đỉnh cao là phong trào Tây Sơn.

Nguyễn Du đã trực tiếp sống, chứng kiến và trải qua một thời kỳ lịch sử đầy biến động của dân tộc. Điều đó đã được ghi lại trong các sáng tác của ông, đặc biệt là tấm lòng nhân đạo. Không chỉ nổi tiếng với “Truyện Kiều” mà ông còn là nhà thơ sáng tác bằng chữ Hán điêu luyện với những tác phẩm nổi bật đặc sắc.

Khi phân tích Độc Tiểu Thanh Kí, ta thấy đây là một trong những tác phẩm được nhiều người biết đến của Nguyễn Du. Được lấy cảm hứng từ Phần dư (phần bị đốt còn sót lại), Độc Tiểu Thanh Kí đã khắc họa rõ nét về cuộc đời của nàng Tiểu Thanh có tài có sắc nhưng lại làm vợ lẽ người khác và sống một cuộc sống đau buồn, đầy những nỗi uất ức. Bản thân cuộc đời Tiểu Thanh đã làm cho Nguyễn Du nảy sinh mối đồng cảm vô hạn trước số phận nghiệt ngã và tiếng lòng ấy được bật lên thành lời thơ.

Thân phận của nàng Tiểu Thanh giỏi giang tài sắc nhưng lại có một số phận nhiều khổ đau cùng với những suy ngẫm sâu sắc của Nguyễn Du là những nét chính khi phân tích Độc Tiểu Thanh Kí. Để có thể phân tích Độc Tiểu Thanh Kí một cách sâu sắc, người đọc cần đi theo mạch xúc cảm của toàn bài, theo trình tự của thể thơ thất ngôn bát cú đường luật.

Cảm nhận hai câu đề khi phân tích “Độc Tiểu Thanh Kí”. Mở đầu bài thơ là tiếng thở dài của tác giả với những biến thiên dâu bể của cuộc đời:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”

(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)

“Hoa uyển” trong câu đầu là vườn hoa, là tượng trưng cho quá khứ và quãng thời gian thanh xuân tươi đẹp. “Tẫn thành khư” là tất cả hóa thành bãi hoang tàn, là sự biến hóa của thời gian trước dòng đời tấp nập. Khi phân tích Độc Tiểu Thanh Kí, ta thấy ở ngay câu đầu tiên, Nguyễn Du đã mượn hình ảnh của không gian nơi Tiểu Thanh từng sống để nói lên cảm nhận của chính ông về những biến đổi của thời gian.

Tây Hồ là nơi cảnh đẹp hữu tình nhưng lại hóa gò hoang vắng, heo hút vì có một người con gái đã mãi mãi chôn vùi tuổi thanh xuân của mình ở đây. Sự biến thiên dâu bể của cuộc đời không sao có thể đoán định được, cảnh đẹp ngày xưa nay chỉ còn là phế tích, chỉ còn lại dấu ấn về một thời đã qua. Cảnh cũ vẫn còn đây mà người xưa giờ nơi nào. Tâm tư ấy khiến ta nhớ đến hai câu thơ của bà huyện Thanh Quan

“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”

(Thăng Long thành hoài cổ – Bà huyện Thanh Quan)

Mọi chuyện ngỡ cứ như vừa xảy ra hôm qua. Đau xót thay mọi chuyện chỉ còn là quá khứ. Cảnh cũ vẫn còn đây nhưng người xưa giờ nơi nào. Phân tích Độc Tiểu Thanh Kí, người đọc dễ dàng nhận thấy từ “độc” có nghĩa duy nhất, đơn độc. Còn cụm “Nhất chỉ thư” là một quyển sách, một tập giấy còn sót lại. Trong không gian điêu tàn, Nguyễn Du xuất hiện với dáng vẻ thẩn thờ và đồng thời cũng thể hiện sự lắng sâu trầm tư trong những nét cô đơn.

Một mình nhà thơ ngậm ngùi đọc những tập sách về cuộc đời nàng Tiểu Thanh tội nghiệp. Một mình đối diện trước sự bất lực của nàng Tiểu Thanh về số phận của chính mình. Phân tích Độc Tiểu Thanh Kí, người đọc nhận ra sự tồn tại của con gái tài sắc một thời chỉ được biết đến qua một tập sách, phần dư còn sót lại khiến ông không thể không bật lên những nỗi xót thương cho nàng.

Xưa Tiểu Thanh luôn cô độc đến lúc mất, nay Nguyễn Du cũng viếng nàng một mình bên khung cửa thể hiện sự thông hiểu sâu sắc của Nguyễn Du với nàng Tiểu Thanh. Câu thơ là sự đồng cảm giữa hai tâm hồn cô đơn. Thời gian và không gian không thể ngăn cách được tấm lòng “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.

Hai câu tiếp theo đã làm sáng tỏ cho cảm giác buồn thương ngậm ngùi. Đó là sự tiếc thương cho số phận bi kịch của nàng Tiểu Thanh. Sắc đẹp và tài năng đến thế nhưng lại chết trong cô độc, điều đó khiến người đời cảm thấy xót xa.

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”

(Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)

“Văn chương” và “chi phấn” đều là những hình ảnh ẩn dụ gợi nhiều suy nghĩ. “Son phấn hữu thần liên tử hậu” là son phấn có thần chắc phải xót xa về những việc sau khi chết hay chính son phấn có thần sau khi chết khiến người ta vẫn còn thương tiếc. “Văn chương vô mệnh lụy phần dư”- tập thơ của nàng Tiểu Thanh nói riêng và văn chương nói chung, là văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở hay văn chương không có số mệnh nhưng người ta vẫn bận lòng về những gì còn sót lại.

Người đọc nhận ra rằng tác giả có thể mất đi hay bị lãng quên nhưng sức sống của tác phẩm vẫn còn mãi trong lòng độc giả. “Chi phấn – son phấn”, là tượng trưng cho nhan sắc và dung mạo của người con gái. Hình ảnh “son phấn”, “văn chương” được gắn với những từ ngữ chỉ cảm xúc, số phận của con người như “hận”, “vô mệnh” tạo nên sự độc đáo trong bài thơ. Làm hiện rõ thái độ thương xót dù son phấn hay văn chương nếu có hồn cũng sẽ vô cùng uất hận, tiếc thương cho nỗi uất hận và khổ tâm của Tiểu Thanh.

Vì ghen tuông của người vợ cả, Tiểu Thanh phải sống một cuộc đời thương tâm, sống cô lập và lấy văn chương nói lên nỗi lòng của chính mình để rồi ra đi ở cái độ tuổi rực rỡ nhất của một người con gái. “Chi phấn” và “văn chương” đều giống nhau ở hai điểm là đều có số phận thảm thương là bị vùi dập và đốt dở nhưng lại mang sức sống trường tồn. Ở đây đồng thời cũng là hình ảnh tượng trưng cho nàng Tiểu Thanh.

Tuy nàng không còn nhưng nhan sắc và tài năng của nàng vẫn luôn được người đời ca tụng và thương tiếc “Thác là thể phách còn tinh anh”. Từ số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khái quát nên được cái nhìn tổng quan về những con người trong xã hội phong kiến:

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư”

(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)

Câu thơ vang lên mang nhiều thanh trắc tạo cảm giác trầm lắng xuống mỗi câu thơ như nỗi uất ức không thể thốt lên thành lời được. “Cổ kim hận sự” là những nỗi hận từ xưa đến nay. Những nỗi hận không chỉ Tiểu Thanh mà còn là lời chung của vô vàn những số phận tài hoa bạc mệnh khác.

“Thiên nan vấn” khó mà hỏi trời. Câu nói chung của những con người tài hoa ấy khó để hỏi trời hay do chính trời cao cũng không có lời giải đáp. Lời uất hận của Tiểu Thanh cũng chính là lời bộc bạch, tâm sự của nhà thơ. Phân tích Độc Tiểu Thanh Kí, người đọc nhận thấy Nguyễn Du khóc cho Tiểu Thanh cũng chính là khóc thương cho chính số phận cay đắng, đau khổ của chính mình.

Thương thay cho những tấm hồng nhan bị người đời ghẻ lạnh, những con người đã hiểu rất rõ về giá trị của bản thân nhưng lại phải bất lực trước sự chông gai trên đường đời. Câu thơ phản ánh cho người đọc thấy rõ sự khắc nghiệt của xã hội đối với những người tài hoa và mong muốn khát khao hạnh phúc của họ. Như những câu thơ đau đớn mà Nguyễn Du từng viết trong Truyện Kiều

“Lạ gì bỉ sắc thư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Câu thơ cũng chính là lời tâm sự của nhà thơ. Nguyễn Du tự cảm thấy mình là người cùng hội cùng thuyền với nàng Tiểu Thanh. Khóc cho Tiểu Thanh cũng chính là khóc cho số phận mình, cho số phận cay đắng của những người tài hoa mệnh bạc. Khép lại bài thơ là những suy tư về thời thế, là câu hỏi cho những mệnh tài hoa:

“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”

(Không biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)

“Tam bách” là danh từ phiếm chỉ số nhiều, con số ước lệ về một quãng thời gian rất dài. Ngược lại với “tam bách”, “hà nhân” lại là từ phiếm chỉ số ít. Ghép lại cả hai câu thơ là một câu hỏi tu từ thể hiện nỗi xót xa, ngậm ngùi khi hỏi về tương lai. Ba trăm năm trước những vần thơ của nàng Tiểu Thanh vẫn còn khiến người đời thương cảm.

Ông vẫn có thể khóc cho những dòng thơ về nàng Tiểu Thanh một cách chân thành từ trái tim đồng điệu. Tiểu Thanh còn có ông tìm đến làm tri kỉ để giải đi nỗi oán giận bằng giọt nước mắt thấu hiểu. Liệu rằng ba trăm sau sẽ có ai khóc cho những dòng thơ về cuộc đời ông như hôm nay ông đã khóc cho Tiểu Thanh? Câu hỏi của Nguyễn Du xoáy sâu vào tâm hồn của người đọc về sự lẻ loi trước dòng đời xô bồ, phũ phàng.

Cuộc đời của một con người tài hoa, “có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng trải suốt nghìn đời” luôn đối mặt với sự lẻ loi. Ông luôn khao khát được kiếm cho mình một tấm tri kỉ giữa dòng đời vạn biến. Như nhạc sĩ Vũ Thành An đã từng có chung nỗi niềm cô đơn, thể hiện rõ sự xa lạ giữa xã hội, con người

“Triệu người quen có mấy người thân
Khi lìa đời có mấy người đưa”

Tác giả đã vận dụng thành công thể thơ thất ngôn bát cú kết hợp với việc sử dụng chữ Hán trang trọng, giản dị. Phân tích Độc Tiểu Thanh Kí, ta thấy bài thơ đã thể hiện rõ nét những cảm xúc cùng những suy tư trăn trở của Nguyễn Du về số phận bất hạnh của người phụ nữ có tài năng văn chương trong xã hội phong kiến.

Không chỉ nói về số phận của nàng Tiểu Thanh mà ta còn bắt gặp nỗi niềm ấy trong những sáng tác khác của Nguyễn Du. Đó còn là Thúy Kiều, Đạm Tiên, là cô Cầm,.. Điểm chung giữa họ đều là những người phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng đều rơi vào hoàn cảnh ngang trái. Nguyễn Du không ngợi ca tài sắc của họ mà còn cảm thông sâu sắc cho những số phận bất hạnh ấy Điều đó cũng nói lên một phương diện quan trọng trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là nỗi xót xa cho những giá trị tinh thần bị chà đạp..

Độc Tiểu Thanh kí đã để lại trong lòng người đọc những thương xót về số phận của nàng Tiểu Thanh có sắc đẹp lẫn tài năng nhưng bất hạnh. Đồng thời Nguyễn Du cũng lên án về xã hội phong kiến tàn ác chà đạp lên những người tài và nỗi thương xót sâu sắc của Nguyễn Du đối với số phận tài hoa bạc mệnh. Tiếng lòng ấy của ông vẫn còn vang vọng mãi trong tâm khảm mỗi người về sự đau xót bất lực của con người trước trò đùa của con tạo xoay vần. Đến mãi đến ngày hôm nay, vượt qua mọi quy luật băng hoại của thời gian, những trang viết của Nguyễn Du vẫn làm rung động lòng người

“Tiếng thơ ai vọng đất trời
Nghe như non nước vọng vào nghìn thu
Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thơ như tiếng mẹ ru những ngày”

(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)

10 Bài văn phân tích Độc Tiểu Thanh kí số 10
Vote
100%

5

by Chanh 28-02-2021

Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, ông được xem là một cây đại thụ trong nền văn học Việt Nam. Ông là nhà thơ chuyên hướng ngòi bút về cuộc đời và số phận của con người "tài hoa, bạc mệnh" đặc biệt là những người phụ nữ như: nàng Thúy Kiều trong Truyện Kiều, nàng Ca Nhi trong Long thành cầm giả ca, nàng Tiểu Thanh trong độc Tiểu Thanh kí,... Những Tác phẩm thơ ca của ông đã được người đời ví như một Kim Tự Tháp vĩ đại đứng sừng sừng giữa một vùng sa mạc khô cằn rộng lớn. Những điều bí ẩn và kì diệu của công trình vĩ đại ấy đến giờ vẫn chưa được khám phá hết.

Bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí là một bài thơ nổi tiếng bằng chữ Hán, được in trong Thanh Hiên thi tập, thể hiện lòng nhân ái và sự đồng cảm của nhà thơ về nàng Tiểu Thanh tài sắc nhưng phận bạc.

Tiểu Thanh - một cô gái tài sắc vẹn toàn nhưng chỉ mới 16 tuổi nàng đã phải nếm trải những sóng gió, bất hạnh của cuộc đời. Cuối cùng nàng cũng vùi chôn trong nấm mồ khi đang độ xuân xanh tuổi trẻ. Phần tinh hoa để lại cho đời cũng tiêu tan chỉ vì cái lòng ghen tuông ích kỷ, tàn ác của người vợ cả. Sự biến đổi đau thương ấy của cuộc đời nàng như được hiện hữu trong cảnh vật:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chí thư.

Vườn hoa cạnh Tây Hồ khi xưa là một địa danh nổi tiếng với những cảnh đẹp ở Trung Quốc. "hoa uyển" và " khư " là hai khái niệm đối lập nhau cùng với từ "tẫn" như muốn nói đến cảnh đẹp Tây Hồ khi xưa đã biến mất, trở thành gò hoang lụi tàn. Núi Cô Sơn cạnh Tây Hồ – nơi đã giam giữ nàng Tiểu Thanh khi xưa đẹp thế mà giờ đã trở nên thanh vắng, lạnh lẽo. Chỉ còn lại tấm mồ của người con gái bạc mệnh Tiểu Thanh và một tờ giấy tàn "nhất chỉ thư"- chính là tập sách duy nhất còn sót của Tiểu Thanh - Tiểu Thanh ký.

Câu thơ chính là tiếng thở dài của tác giả trước lẽ "biến thiên dâu bể" của cuộc đời và niềm thổn thức của một tấm lòng nhân đạo lớn: vạn vật đều phải thay đổi theo thời gian, còn Tiểu Thanh cũng vậy, dần bị dòng thời gian vùi lấp trong quên lãng. "độc điếu" - chỉ sự cô đơn, đơn độc khi Nguyễn Du một mình vượt qua cả không gian, thời gian trở về quá khứ khóc thương cho số phận của nàng Tiểu Thanh thông qua "nhất chỉ thư".

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.

"Son phấn", "văn chương" là những hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho sắc đẹp và tài năng của nàng Tiểu Thanh. Nguyễn Du đã mượn hình ảnh của hai vật này để nói lên sự ganh ghét, đố kị của người vợ cả, người đời. Nhắc lại tấm bi kịch của cuộc đời nàng – một cuộc đời đơn độc, lẻ loi. Nhà thơ đã thổi hồn vào son phấn để chúng cất lên tiếng nói thương cảm, xót xa cho số phận bất hạnh, son phấn "có thần" chắc chắn phải xót xa vì những việc sau khi chết.

Cũng Như những đóa hoa đã tàn nhưng hương hoa vẫn còn đọng lại, tỏa hương đâu đó trong không gian, người đời sẽ mãi thương xót cho những phận nữ nhi " hồng nhan bạc mệnh". Còn "văn chương"- chỉ là một vật vô tri, vô giác, không có số mệnh mà cũng bị đốt dở bởi sự mỏng manh, chóng tàn của nó - "lụy phần dư",ấy vậy nó như có linh hồn, cố gắng chống chọi lại sự vùi dập của số phận.

Dù có bị thiêu đốt, nhưng những gì còn sót lại đã khiến người đời cảm thấy sót xa. Ông đã lên tiếng thương cảm cho số phận của những người phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng không được trân trọng trong xã hội xưa và đồng thời cũng thay họ nói lên những nỗi uất hận ngàn đời.

Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư.

"Cổ kim hận'' là những nỗi oan khuất mà những kẻ tài hoa từ xưa đến nay vẫn phải gánh chịu cay lắm, xót lắm, mà đành kêu trời chứ biết làm thế nào bây giờ? "Oan này còn một kêu trời không xa." - Truyện Kiều. Luôn có những câu hỏi đặt ra nhưng mãi không ai có câu trả lời, huống hồ gì đó là nỗi oan của những con người tài sắc vẹn toàn như Tiểu Thanh, có hỏi trời trời không tỏ, có hỏi đất đất không hay.

Câu thơ như tiếng kêu thương rung động đất, trời. Ông tự xem mình là người cùng một hội với Tiểu Thanh - những con người tài hoa bạc mệnh đã vướng phải cái án "phong vận" kì lạ. Cuộc đời của Tiểu Thanh đã soi sáng tâm hồn của Nguyễn Du, ông thấm thía nỗi đau của khách văn chương đa tài đa nạn. "ngã tự cư" – Nguyễn Du với nỗi đau biết mình không tránh khỏi cái sự nghiệt ngã của người cùng hội cùng thuyền giữa biển đời sóng gió. Đau đớn tận đáy lòng, ông không khỏi kêu lên tiếng than của một trái tim đầy ắp nỗi sầu nhân thế

Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Nguyễn Du là một bậc tài tử trong đời, Tiểu thanh lại là một khách hồng nhan. Mặc dù cách nhau đến 300 năm nhưng ông vẫn cảm thấy giữa mình và người con gái ấy có một nét tương đồng. "Tài tử gian nan, hồng nhan bạc mệnh.", Tiểu Thanh ra đi để lại một " nhất chỉ thư", một mảnh giấy tàn thế mà 300 năm sau còn có Nguyễn Du thương xót cho số phận nàng. Câu hỏi tu từ được Nguyễn Du sử dụng với hàm ý như muốn đang thắc mắc rằng liệu 300 năm sau có ai còn nhớ đến ông như khi ông nhớ đến nàng Tiểu Thanh.

Ông băn khoăn, mong đợi người đời sau cũng đồng cảm, thương cảm đến ông. Hai câu thơ trên chính là tâm trạng cô đơn của ông ở nơi "đất khách quê người" trong những tháng ngày đi sứ, ông càng cảm mình thấy bơ vơ, không một kẻ tri kỉ, một mình ôm mối hận của kẻ tài hoa bạc mệnh: "Người đời ai khóc Tố Như chăng?". Ngày 1/11/1965, trong dịp lễ kỉ niệm ngày sinh của Nguyễn Du, nhà thơ Tố Hữu đã có dịp đi qua vùng quê của ông và đã viết lên dòng thơ:

"Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân
Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều..."

(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)

"Đọc Tiểu Thanh ký" là bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú. Nó phản ánh rõ ràng về một xã hội đầy rẫy sự bất công và tàn độc. Đồng thời, Nguyễn Du cũng đã khéo léo mượn hình ảnh của nàng Tiểu Thanh để bày tỏ những nỗi niềm trong tận đáy lòng của ông về số phận bất hạnh của người phụ nữ có tài văn chương trong xã hội phong kiến vướng phải. Tất cả điều đó đã nói lên một phương diện quan trọng trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du: xót xa cho những giá trị tinh thần bị chà đạp.

Trên đây là một số bài phân tích Độc Tiểu Thanh kí được sưu tầm, hy vọng qua đây bạn có thể có những góc nhìn và cảm nhận rõ hơn phần nào về tác phẩm này!

Tears in Heaven