Văn học Việt Nam là nền văn học có bề dày lịch sử lâu đời với nhiều thể loại văn học khác nhau. Mà trong đó không thể không nhắc tới bản hùng ca Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt. Ngoài ra tác phẩm còn giúp nâng cao chỉ khí đấu tranh của dân tộc và làm nhục chí của đối thủ. Cảnh báo không cho kẻ thù dám đặt chân xâm lược nước ta kiên quyết bảo vệ đất nước cho đến cùng. Tác phẩm cho ta thấy được tinh thần đấu tranh bảo vệ đất nước, và sau đây cùng tham khảo các bài viết phân tích Nam Quốc Sơn Hà hay nhất nhé!
6 Bài văn phân tích Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt - Bài viết số 6
“Nam quốc sơn hà” được coi là “bài thơ thần” - bởi những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật.
Theo nghiên cứu hiện nay có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ. Nhưng nổi tiếng nhất phải kể đến truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy sang xâm lược nước ta. Vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt. Bỗng một đêm, quan sĩ nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát (hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục được tôn là thần sông Như Nguyệt) có giọng ngâm bài thơ này.
Hai câu thơ đầu là lời khẳng định chủ quyền quốc gia, lãnh thổ:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”
Quan niệm của người xưa cho rằng vua là “thiên tử” (con trời). Mọi vật thuộc về quốc gia như đất đai, nhà cửa, của cải… tất thảy đều thuộc về vua. Người có quyền quyết định sinh tử của con người cũng chính là vua. Vì vậy lời khẳng định: Sông núi nước Nam do vua Nam ở là hoàn toàn có cơ sở. Nhưng đặc biệt nhất là cụm từ “Nam đế cư” - hoàng đế nước Nam. Đây vốn là từ dùng để chỉ người đứng đầu của một nước lớn. Việc sử dụng từ trên cho thấy niềm tự tôn dân tộc - Nước Nam cũng là một nước lớn - độc lập về chủ quyền và lãnh thổ. Nếu như thay bằng cụm từ “Nam nhân cư” - người Nam ở sẽ làm mất đi ý nghĩa về lòng tự tôn dân tộc. Không chỉ vậy, người viết còn đưa ra một chân lý không ai có thể chối cãi: “Vành vạch sách trời chia xứ sở”. Chủ quyền lãnh thổ của đất nước ta đã được ghi rõ ở “thiên thư” - sách trời. Nó vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị pháp lý. Điều này khẳng định chủ quyền lãnh thổ của dân tộc ta là một chân lý không thể chối cãi và thay đổi được như trong “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi từng viết:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ, Triệu, Đinh, Lý, Trần, bao đời gây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương…”
Hai câu thơ cuối, người viết đã nêu cao quyết tâm bảo vệ chủ quyền của lãnh thổ quốc gia:
“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Câu hỏi tu từ đưa ra như một lời chất vấn: “Giặc giữ cớ sao xâm phạm đến đây?” nhằm khẳng định lại một lần nữa chủ quyền quốc gia dân tộc. Cũng như lời cảnh báo rằng những kẻ đi xâm lược đất nước của dân tộc khác đều là đang làm trái với ý trời. Để rồi cuối cùng chúng sẽ phải chịu một kết cục hết sức bi thảm. Kẻ đi cướp nước cuối cùng rồi cũng sẽ bị “đánh cho tơi bời”. Chiến thắng luôn thuộc về phe chính nghĩa. Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn hàm súc, giọng thơ đanh thép, hình ảnh mang tính biểu tượng cao, “Sông núi nước Nam” đã thể hiện được ý nghĩa nội dung vô cùng sâu sắc.
Tóm lại, có thể thấy “Sông núi nước Nam” xứng đáng là bản “Tuyên ngôn độc lập” đầu tiên của dân tộc. Bài thơ không chỉ để lại những giá trị về tư tưởng mà còn là giá trị về nghệ thuật.
7 Bài văn phân tích Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt - Bài viết số 7
Được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam, bài thơ thần "Nam quốc sơn hà" của chủ tướng Lí Thường Kiệt đã trở thành một áng thơ văn bất hủ, không chỉ khẳng định được vấn đề về lãnh thổ, chủ quyền, độc lập của dân tộc Việt Nam, mà bài thơ còn thể hiện được tính thần lực, tự tôn dân tộc mạnh mẽ của vị chủ tướng tài ba Lí Thường Kiệt cũng như những người dân Việt Nam nói chung. Bài thơ cũng là lời khẳng định tuyên bố đanh thép của tác giả đối với những kẻ có ý định xâm lăng vào lãnh thổ ấy, xâm phạm vào lòng tự tôn của một dân tộc anh hùng .
Trong cuộc chiến đấu chống quân Tống của quân dân Đại Việt, chủ tướng Lí Thường Kiệt đã đọc bài thơ thần "Nam quốc sơn hà" ở đền thờ hai vị thần Trương Hống, Trương Hát - Là hai vị thần của sông Như Nguyệt. Khi bài thơ thần này vang lên vào thời điểm đêm khuya, lại được vọng ra hùng tráng, đanh thép từ một ngôi đền thiêng liêng nên đã làm cho quân Tống vô cùng khiếp sợ, chúng đã vô cùng hoảng loạn, lo lắng, nhuệ khí của quân giặc bị suy giảm một cách nhanh chóng. Cũng nhờ đó mà quân dân ta có thể tạo ra một chiến thắng lừng lẫy, oai hùng sau đó.
Mở đầu bài thơ, tác giả Lí Thường Kiệt đã khẳng định một cách chắc chắn, mạnh mẽ về vấn đề chủ quyền, ranh giới lãnh thổ của dân tộc Đại Việt, đó là ranh giới đã được định sẵn, là nơi sinh sống của người dân Đại Việt. Lời khẳng định này không phải chỉ là lời khẳng định của tác giả, mà tác giả còn đưa ra những luận chứng sắc sảo, đó là bởi "sách trời" quy định. Tức sự độc lập,chủ quyền về lãnh thổ ấy được trời đất quy định, chứng giám. Một sự thật hiển nhiên mà không một ai có thể chối cãi được:
"Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời"
Sông núi nước Nam là những vật thuộc quyền sở hữu của người Nam, cũng là những hình ảnh biểu tượng không chỉ cho ranh giới, chủ quyền của người nam mà còn khẳng định một cách chắc chắn quyền sở hữu của "sông núi" ấy là của người Nam. Chúng ta cũng có thể thấy đây là lần đầu tiên trong một tác phẩm thơ văn mà vấn đề chủ quyền dân tộc được khẳng định mạnh mẽ, hào sảng đến như vậy. Không chỉ là dân tộc có chủ quyền, có lãnh thổ mà dân tộc ấy còn có người đứng đầu, người quản lí, làm chủ người dân của quốc gia ấy, đó chính là "vua Nam". Chủ quyền ấy, lãnh thổ cương vực ấy không phải do người Nam tự quyết định lựa chọn cho mình, người dân nơi ấy chỉ sinh sống, làm ăn sinh hoạt từ rất lâu đời, do sự định phận của "sách trời", đó là đấng cao quý vì vậy mọi sự quy định, chỉ dẫn của "trời" đều rất có giá trị, đều rất đáng trân trọng.
"Rành rành" là dùng để chỉ sự hiển hiện, tất yếu mà ai cũng có thể nhận biết cũng phân biệt được. "Rành rành định phận ở sách trời" có nghĩa vùng lãnh thổ ấy, chủ quyền ấy của người Nam đã được sách trời ghi chép rõ ràng, dù có muốn cũng không thể chối cãi, phủ định. Như vậy, ở hai câu thơ đầu, tác giả Lí Thường Kiệt không chỉ đưa ra luận điểm là lời khẳng định hào sảng, chắc chắn về vùng lãnh thổ, ranh giới quốc gia và chủ quyền, quyền làm chủ của nhân dân Đại Việt với quốc gia, dân tộc mình mà tác giả còn rất tỉnh táo, sắc sảo khi đưa ra những luận cứ đúng đắn, giàu sức thuyết phục mà còn đưa ra một sự thật mà không một kẻ nào, một thế lực nào có thể phủ định, bác bỏ được nó. Giọng văn hào hùng, mạnh mẽ nhưng không giấu được niềm tự hào của bản thân Lí Thường Kiệt về chủ quyền của dân tộc mình.
Từ sự khẳng định mạnh mẽ vấn đề chủ quyền của dân tộc Đại Việt, Lí Thường Kiệt đã lớn tiếng khẳng định, cũng là lời cảnh cáo đến kẻ thù, đó chính là cái kết cục đầy bi thảm mà chúng sẽ phải đón nhận nếu biết nhưng vẫn cố tình thực hiện hành động xâm lăng lãnh thổ, gây đau khổ cho nhân dân Đại Việt:
"Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh cho tơi bời"
Sự thật hiển nhiên rằng, "Sông núi nước Nam" là do người Nam ở, người Nam làm chủ. Nhưng lũ giặc không hề màng đến sự quy định mang tính tất yếu ấy, chúng cố tình xâm phạm Đại Việt cũng là xúc phạm đến sự tôn nghiêm của đạo lí, của luật trời: "Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm" hành động ngông cuồng, phi nghĩa này của bọn chúng thật đáng bị phê phán, thậm chí đáng để trừng phạt bằng những hình thức thích đáng nhất. Và ở trong bài thơ này, tác giả Lí Thường Kiệt cũng đã đanh thép khẳng định cái kết cục đầy bi đát, ê chề cho lũ cướp nước, coi thường đạo lí: "Chúng bay sẽ bị đánh cho tơi bời". Với tất cả sức mạnh cũng như lòng tự tôn, tính chính nghĩa của dân tộc Đại Việt thì lũ xâm lăng chỉ có một kết cục duy nhất, một kết quả không thể tránh khỏi "bị đánh cho tơi bời".
Như vậy, bài thơ thần "Nam quốc sơn hà" là một bài thơ, một bài thơ mang tính chính luận rõ ràng, sâu sắc, một bản tuyên ngôn hùng hồn, mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam. Bài thơ thể hiện lòng tự hào của người Việt Nam về chủ quyền thiêng liêng của dân tộc, về sức mạnh vĩ đại của người dân trong công cuộc đánh đuổi ngoại xâm.
8 Bài văn phân tích Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt - Bài viết số 8
Cuối năm 1076, quân Tống kéo sang xâm lược nước ta. Dưới quyền thống lĩnh của Thái uý Lí Thường Kiệt, quân Nam chặn giặc tại phòng tuyến sông Cầu, và đến tháng 3 năm 1077, đánh tan quân giặc. Truyền thuyết kể rằng, để khích lệ ý chí chiến đấu của quân ta và làm tan rã tinh thần quân giặc, Lí Thường Kiệt cho đọc bài thơ sau đây giữa đêm khuya trên bờ sông cầu.
Mở đầu là câu thơ khẳng định quyền độc lập tự chủ của dân tộc:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
(Sông núi nước Nam, vua Nam ở)
Nam quốc là nước Nam, xưng là quốc để xóa sạch ấn tượng bị trị trong thời kì Bắc thuộc. Từ thế kỉ X, Ngô Quyền đã đánh đuổi quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, thiết lập một nhà nước độc lập, tự chủ, nhưng bọn phong kiến phương Bắc vẫn xem đất nước ta là một quận, huyện thuộc Trung Quốc, như đã sắc phong Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ quận vương. Cho nên vào. thời Lí, việc xưng Nam quốc, Nam đế có ý nghĩa lịch sử đặc biệt.
Câu thơ nhấn mạnh một chân lí đơn giản, hiển nhiên nhưng đầy chiều sâu lịch sử sau mười thế kỉ đấu tranh của dân tộc ta, thể hiện tinh thần độc lập tự chủ, tinh thần bình đẳng dân tộc.
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
(Biên giới rõ ràng có ghi tại sách trời.)
Tiệt nhiên là rành rành, có đạo lí chính đáng không thể di dịch được; định phận là danh phận đã được xếp đặt, không thể xáo trộn được. Chủ quyền của vua Nam trên đất nước là việc có ghi sẵn trong sách trời. Thiên thư định phận cho nước Nam có bờ cõi riêng, đó là điều tiệt nhiên, là chân lí hiển nhiên.
Nếu câu thơ đầu nhấn mạnh chân lí do con người quy định, thì câu thứ hai mang tính chất thần linh chủ nghĩa, một niềm tin gần như tuyệt đối trong thời phong kiến, ý thơ như báo trước thế thắng bại giữa ta và địch. Ta sẽ thắng chẳng những do tài sức chính mình, mà còn do ý trời. Địch sẽ bại vì hành động phi nghĩa của chúng.
Chân lí Nam quốc sơn hà được củng cố thêm bằng sức mạnh siêu nhiên thiên thư định phận, nhằm khẳng định niềm tin chiến thắng của ta.
Bài thơ là quyết tâm bảo vệ đất nước, khẳng định thất bại tất yếu của địch:
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
(Sao mà bọn giặc lại tới xâm phạm?)
Như hà là làm sao, nghịch là trái ngược, lỗ là bọn mọi rợ. Đây là một câu hỏi bao hàm thái độ vừa ngạc nhiên, vừa khinh bỉ. Ngạc nhiên vì chúng tự xưng là thiên triều sao lại làm trái mệnh trời; khinh bỉ vì chúng tự phụ là một nước có văn hiến hàng đầu, là Trung Hoa, tinh hoa của mọi dân tộc, sao lại hành động như kẻ mọi rợ, ỷ mạnh hiếp yếu.
Tư thế của ta vững vàng: Ta giữ gìn biên cương, bảo vệ đất nước với đầy đủ danh phận, rõ ràng chính nghĩa. Chúng là giặc, làm trái lòng trời, làm điều càng rõ phản nghịch. Giọng thơ hùng hồn, lời thơ dõng dạc tố cáo dã tâm của giặc, vừa sỉ vả, miệt thị bọn xâm lược với tư thế kẻ bề trên nắm lẽ phải trong tay, mắng bọn ngu xuẩn, tham lam đáng khinh miệt.
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
(Lũ bây hãy xem sẽ ôm lấy thất bại, hư hỏng)
Nhữ đẳng là cùng một lũ bây, khan tức khán là xem, thủ là nhận lấy, bại là hỏng, thua, hư là trông không, không vào đâu cả. Câu thơ là câu trả lời, nhưng không trả lời trực tiếp mà báo trước cho chúng biết số phận thua trận tan tành không manh giáp của chúng.
Câu thơ cuối cùng nối tiếp mạch thơ của ba câu trên. Không thông được chân lí của nhân gian, cũng không hiểu thiên lí của trời đất, dẫn quân xâm lăng nước người, chúng bay rồi chống mắt xem sự bại vong, tan tác một cách nhục nhã.
Bài thơ khẳng định quyền độc lập, tự chủ của dân tộc ta từ nghìn năm trước. Quyền độc lập, tự chủ này được phát triển cụ thể trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi (Mỗi bên hùng cứ một phương...), và trong Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập...)
Truyền thống lịch sử ấy xác định một chân lí: dân tộc ta luôn luôn chống ngoại xâm để bảo vệ độc lập, tự chủ trên tư thế chính nghĩa. Bọn phong kiến phương Bắc đã mười lăm lần xâm lược nước ta, gần đây là thực dân Pháp rồi đế quốc Mĩ, nhưng cuối cùng chúng cũng thất bại, bị đánh đuổi ra khỏi bờ cõi. Quả thật tinh thần quật khởi chống xâm lược ấy được phát huy từ tinh thần Nam quốc sơn hà Nam đế cư vậy.
9 Bài văn phân tích Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt - Bài viết số 9
Bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt gắn liền với chiến thắng sông Cầu năm 1076 của quân dân Đại Việt đánh bại giặc Tống xâm lược.
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách Trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
Hai câu thơ đầu nói về núi sông nước Nam, đất nước Việt Nam là nơi Nam đế cư (vua Nam ở). Hai chữ Nam đế đối sánh với Bắc đế; Nam đế hùng cứ một phương chứ không phải chư hầu của Thiên triều. Vua Nam là đại diện cho uy quyền và quyền lợi tối cao cho Đại Việt, cho nhân dân ta. Núi sông nước Nam thuộc chủ quyền của Nam đế, có kinh thành Thăng Long, có nền độc lập vững bền. Không những thế, núi sông nước Nam đã được định phận, đã được ghi rõ ở sách Trời, đã được sách Trời chia xứ sở, nghĩa là có lãnh thổ riêng, biên giới, bờ cõi riêng.
Hai chữ sách Trời (Thiên thư) trong câu thơ thứ hai gợi ra màu sắc thiêng liêng với bao niềm tin mãnh liệt trong lòng người. Vần thơ vang lên như một lời tuyên ngôn về chủ quyền thiêng liêng của Đại Việt:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách Trời
(Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư).
Từ nhận thức và niềm tin ấy về sông núi nước Nam, Lý Thường Kiệt lên án hành động xâm lược đầy tội ác, tham vọng bành trướng phi nghĩa của giặc Tống. Âm mưu, hành động xâm lược của chúng đã làm trái ý trời, đã xúc phạm đến dân tộc ta. Câu hỏi kết tội lũ giặc đã vang lên đanh thép, đầy phẫn nộ:
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
(Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?).
Vị anh hùng dân tộc đã nghiêm khắc cảnh cáo lũ giặc phương Bắc và chỉ rõ chúng sẽ bị nhân dân ta đánh cho tơi bời, chúng sẽ chuốc lấy thất bại nhục nhã:
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
(Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư)
Hai câu 3, 4 với giọng thơ đanh thép hùng hồn đã thể hiện tinh thần đoàn kết chiến đấu của nhân dân ta quyết tâm giáng trả quân Tống xâm lược những đòn chí mạng để bảo vệ sông núi nước Nam. Chiến thắng sông Cầu (sông Như Nguyệt) năm 1076 là minh chứng hùng hồn cho ý thơ trên. Triệu Tiết, Quách Quỳ cùng hơn 20 vạn quân Tống đã bị quân dân Đại Việt đánh bại, quét sạch khỏi bờ cõi.
Nam quốc sơn hà là bài ca yêu nước chống xâm lăng. Bài thơ đã khẳng định chủ quyền dân tộc, ca ngợi sức mạnh chiến đấu để bảo vệ đất nước Đại Việt. Với nội dung ấy, bài thơ Nam quốc sơn hà mang ý nghĩa lịch sử như một bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
10 Bài văn phân tích Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt - Bài viết số 10
Suốt hơn một ngàn năm Bắc thuộc, nhân dân ta phải sống trong cảnh khát khao mơ ước mong có được một cuộc sống hạnh phúc, tự do. Vì thế chúng ta có thể hình dung niềm hạnh phúc sẽ lớn dần mức nào khi nước Đại Việt ta có được chủ quyền, có tự do và độc lập. Lịch sử đã ghi danh thế nhưng trong văn học, phải đợi đến gần một trăm năm sau đó, khi bài thơ Nam Quốc sơn hà ra đời, chúng ta mới có một tuyên ngôn chính thức về chủ quyền và ý chí tự lực tự cường của dân tộc chúng ta. Bài thơ từ đó đến nay đã vang vang suốt hàng ngàn năm lịch sử:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Nguyên bài thơ được coi là của tướng quân Lý Thường Kiệt, một người con vĩ đại của đất Thăng Long. Thế nhưng cho đến ngày nay, câu trả lời cho câu hỏi tác giả bài thơ là ai vẫn đang còn bỏ ngỏ. Chỉ biết rằng bài thơ ra đời khi cuộc giao tranh giữa quân ta với quân đội của Tống triều đang ác liệt. Bài thơ được ngân lên trong ngôi đình của Trương Hống và Trương Hát vì thế mà nó trở thành lời hịch khích lệ lòng quân quyết tiến để tiêu diệt giặc thù. Bài thơ mở đầu trang trọng và vô cùng đanh thép:
Núi sông nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Câu thơ khẳng định một chân lý không thể đổi thay “Sông núi nước Nam" là nơi Vua nam ở. Chữ cư ở trong nguyên bản không chỉ hiểu là ở mà còn phải biểu là vua Nam có quyền làm chủ trên chính mảnh đất này. Nam đế cũng chẳng thua kém gì Bắc đế. Nước đã có vua nghĩa là đã có độc lập, có chủ quyền. Và mỗi người phải có trách nhiệm gìn giữ non sông.
Hơn thế nữa, chủ quyền của sông núi nước Nam còn được thiên thư định phận rõ ràng. Nó là một chân lý khách quan, trên đã thuận ý trời dưới lại hợp lòng người vì thế mà không ai có thể thay đổi được, Hai câu thơ là lời tuyên ngôn đanh thép khẳng định ý chí, niềm tin về độc lập chủ quyền và về tinh thần tự cường dân tộc của nước Đại Việt chúng ta. Có thể nói hai câu thơ đầu đã tiếp thêm lòng căm thù và ý chí quyết tâm cho lời tuyên ngôn tiếp theo:
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ
Hành động xâm lược dã man, tàn bạo của quân giặc chắc chắn là trái với đạo trời. Hành động ấy là phi nghĩa vì thế mà chúng bay chắc chắn sẽ phải chuốc lấy bại vong". .Nếu hai câu thơ đầu là lời khẳng định chân lý về độc lập chủ quyền thì lời khẳng định chân lý về độc lập chủ quyền thì hai câu thơ sau là lời khẳng định niềm tin chiến thắng. Có niềm tin ấy bởi chúng ta có tinh thần đoàn kết, có truyền thống yêu nước lâu bền. Chúng ta lại có ngọn cờ chính nghĩa và có cả những người con ưu tú, anh hùng luôn chiến đấu mưa lược và dũng cảm trong những cuộc chiến tranh để bảo vệ và gìn giữ sự tồn vong của đất nước, quê hương.
Nam Quốc sơn hà là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn và sắc sảo. Nó xứng đáng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên ngợi ca lòng yêu nước, ngợi ca niềm tự hào dân tộc, đồng thời cũng biểu thị ý chí, sức mạnh và tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
bài viết cùng người đăng