" Người lái đò sông Đà" là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm là thành quả đẹp đẽ mà tác giả đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền núi rừng Tây Bắc, gửi gắm trong tác phẩm là tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên miền sông núi hùng vĩ đó." Người lái đò sông Đà" cho ta nhận diện một Nguyễn Tuân mới mẻ mong muốn được hòa nhịp với thiên nhiên, đất nước. bài viết dưới đây là "Top 10 bài văn phân tích Người Lái Đò Sông Đà mà dân khối D phải xem ngay" cùng tham khảo để có những bài văn mẫu thật hay và cùng cảm nhận tâm hồn của tác giả.
1 Bài phân tích số 1
Người lái đò hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngày hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình - cảnh vượt thác.
Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một:
"Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn..."
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. "Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất", người lái đò "phá luôn vòng vây thứ hai". Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động "tấn công": “Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.
Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành đại diện của con người. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: “Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ. Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo”.
Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có Nguyễn Tuân. Với cảnh vượt thác, ông lái đò hiện lên mang đầy đủ những vẻ đẹp trên.
2 Bài phân tích số 2
Một tác phẩm văn học lớn, có giá trị sống mãi trong lòng người đọc thì tác phẩm đó phải xây dựng được những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, hội tụ đầy đủ tài năng và tâm huyết của người nghệ sĩ. Nhân vật ông lái đò trong tùy bút "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân là một nhân vật như thế.
Dưới ngòi bút thần kỳ của Nguyễn Tuân, bức tranh thiên nhiên sông Đà hiện lên vô cùng hung bạo, trữ tình có vị trí quan trọng làm nên một tấm phông rất phù hợp để hình tượng người lao động ở trên núi rừng Tây Bắc nổi lên với hai phẩm chất, đó là chất anh hùng và chất nghệ sĩ mà tiêu biểu là ông lái đò rất gan dạ, dũng cảm gần hai mươi năm chiến đấu với thác đá trong nước sông Đà để tồn tại. Tay lái của ông được miêu tả là "tay lái ra hoa". Ông lái đò hiện lên trong những trang văn của Nguyễn Tuân đầy ấn tượng với những nét về ngoại hình đúng là một con người của sông nước: Ông gần bảy mươi tuổi nhưng rất chắc khỏe "thân hình gọn quánh như chất sừng, chất mùn", "tiếng nói ào ào như sông nước". "hai tay dài lêu nghêu như cái sào lái đò", "hai chân khuỳnh khuỳnh như đang kẹp chặt cái cuống lái trong tưởng tượng"... Chỉ vài nét phác họa tài hoa mà nhà văn như chạm khắc hình tượng ông lái đò như là một anh hùng trên sông nước, vĩnh viễn đọng lại vào trái tim bạn đọc để dự báo về nhân vật cả cuộc đời gắn với nghề lái đò và mức độ tay nghề đã đạt đến mức nghệ sĩ.
Có lẽ bao tình cảm đam mê, yêu quý sông Đà của Nguyễn Tuân được gửi gắm vào nhân vật ông lái đò, nên nhà văn đã để nhân vật của mình gắn bó với sông Đà đến mức máu thịt, hiểu và yêu dòng sông đến mức thuộc lòng từng tên thác tên ghềnh hơn một nghìn tên dù dễ hay khó đều hội tụ lắng đọng thành một dòng chảy trong trái tim của ông lái đò hay chính là trái tim của Nguyễn Tuân. Ông thuộc dòng sông như thuộc một "bản trường ca, thuộc đến từng dấu chấm dấu phẩy, dấu chấm than và từng đoạn xuống dòng". "Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước". Chính vì thế mà ông lái đò đã khuất phục, chế ngự được sự hung bạo của dòng sông Đà. Ông không phải thần thánh mà chỉ là một người lao động bình thường bằng xương bằng thịt nhưng với trí dũng song toàn nên ông vẫn chiến thắng thiên nhiên nghiệt ngã để tồn tại lao động sáng tạo trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
Tính cách của ông lái đò được cụ thể qua những cuộc giao tranh dữ dội với nước, sóng, gió và đá qua ba thạch trận. Trước hết là trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn tượng với những câu văn tả đá được nhân hóa như một đội quân: "đá tảng, đá hòn", "đá tiền vệ" đã bày ra thạch trận với năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh. Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng một loạt động từ trùng điệp để tô đậm sức mạnh của đội quân đá: "mai phục", "nhổm cả dậy", "đứng ngồi nằm tùy theo sở thích", "ăn chết", 'canh cửa", "hất hàm'... Cộng hưởng với những động từ là những tính từ làm nổi bật tính hung bạo: "ngỗ ngược", "nhăn nhúm", "méo mó"... Tất cả làm nổi bật thế và lực của đá sông vừa đông vừa mạnh hung tợn, ghê sợ tạo thành thế không cân sức với ông lái đò chỉ có một mình đơn phương độc mã để gieo vào lòng người đọc bao phấp phỏng, hồi hộp. Bên cạnh đá là nước, "phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá", tạo nên âm thanh dữ dội tăng thêm không khí chiến đấu ác liệt. Sóng nước biết tung ra các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà, đánh khuýp quật vô hồi, đá trái, thúc gối… Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyên bác tài hoa của mình để kho ngôn từ phong phú sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh vực của sự sống, tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân sự thể thao, quân sự cũng được huy động với tần số đậm đặc để cực tả đá nước sông Đà. Đây chính là nghệ thuật vẽ mây đẩy trăng để gián tiếp ca ngợi chí dũng song toàn của ông lái đò. Ở chặng này, nhà văn ca ngợi ông lái đò có sức chịu đựng phi thường "ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái"... chỉ huy ngắn gọn kín đáo và ông đã chiến thắng "phá song trùng vi thạch trận thứ nhất".
Ở trùng vi thạch trận thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử "dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh", "bốn năm thủy quân không ngớt khiêu khích"... Những động từ mạnh vẫn tiếp tục tuôn chảy không ngớt trên những trang văn cộng hưởng với phép tu từ so sánh nhân hóa rất độc đáo giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng, sông nước tăng thêm sức mạnh đến đỉnh điểm của Đà giang để tiếp tục tôn lên tư thế hào hùng của ông lái đò.
Ông lái đò "không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật", "ông đò nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc hết quy luật phục kích của lũ đá" nên ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình thế "cưỡi lên thác sông Đà như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, chặt đôi thác để mở đường tiến". Những động từ mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc vào cuộc chiến của sóng nước tạo ra trạng thái say như say sóng, để từ đó tôn vinh lên những nét đẹp của ông lái đò đó là mưu trí, dũng cảm, kiên cường.
Nếu ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai Nguyễn Tuân cực tả vẻ đẹp trí dũng song toàn và phẩm chất anh hùng của ông lái đò thì ở chặng thứ ba này Nguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy tay lái ra hoa của ông lái đò. Nguyễn Tuân miêu tả "bên phải, bên trái đều là luồng chết" khiến ông lái đò phải vận dụng tài năng nghề nghiệp của mình, nâng thuyền của mình lên mặt nước như nghệ sĩ lái mô tô bay trong không trung để "xuyên qua mặt nước"... những động từ mạnh "vút" hay "xuyên" lặp đi lặp lại nhấn mạnh tốc độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng với nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được độ nhanh mạnh vừa cảm nhận được độ khéo léo của con thuyền trong hướng đi luồn lách tránh đội quân đá đông đúc. Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình.
Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng ông lái đò trong tùy bút "Người lái đò sông Đà" với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong nghề.
3 Bài phân tích số 3
Tố Hữu đã từng viết:
"Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng"
Sau cuộc chiến thắng Điện Biên lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu với hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo lời kêu gọi của Đảng, miền Bắc dấy lên phong trào tình nguyện, đến những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế, để hàn gắn vết thương chiến tranh. Họ trở lại nhiều hơn cả những nơi xưa vốn là chiến trường. Tây Bắc được xem là một miền đất hứa. Hàng loạt con người mới của xã hội chủ nghĩa nô nức đến miền Tây của Tổ quốc. Họ ra đi đầy ắp tiếng hát, đầy sông đầy cầu. Sự thật cuộc sống bước vào văn chương như một quy luật tất yếu bởi nhà văn là thư kí trung thành của thời đại. Nếu Nguyễn Khải có tập truyện "Mùa lạc", Nguyễn Huy Tưởng có tác phẩm "Bốn năm sau", Chế Lan Viên có "Tiếng hát con tàu" thì Nguyễn Tuân có tập tùy bút "Sông Đà" gồm mười lăm bài kí sáng tác năm 1958 - 1960 khi nhà văn đi thực tế trên mảnh đất Tây Bắc. Linh hồn của tập tùy bút là bài kí "Người lái đò sông Đà". Thành công của Nguyễn Tuân trong tác phẩm này là xây dựng được hình tượng Người lái đò sông Đà tiêu biểu cho vẻ đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa. Điều đó được thể hiện qua cảnh vượt thác của ông lái đò.
Thác đá sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Quả vậy, trong vòng thứ nhất, con sông Đà bố trí chiến trận với “bốn cửa tử, một cửa sinh”. Nhà văn còn miêu tả: “Mặt hòn đá nào trông cũng “ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó”. Đối chọi với thác đá là “thạch trận dàn bày vừa xong thì cũng là lúc con thuyền vụt tới”. Câu văn đã cho thấy được một tâm thế sẵn sàng đương đầu với chiến trận của ông lái đò. Nhưng thác đá sông Đà rất khôn ngoan, nó không đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Bị tấn công nhưng ông lái đò không hề nao núng hay hoảng sợ. Ông đã đề ra chiến thuật phòng ngự để giữ sức cho vòng đấu tiếp theo. Chính vì vậy “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính phải miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, còn “mặt méo bệch đi”. Nhưng ông lái đò vẫn nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.
Ở vòng vây thứ hai, sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử hơn, “bố trí cửa sinh lệch về phía hữu ngạn” nhằm lừa con thuyền rơi vào cửa tử. Nguyễn Tuân còn phải bình luận về chiến trận lúc bấy giờ: “Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Đối diện với thế trận mới, ông lái đò không tỏ ra nao núng. Người lái đò với kinh nghiệm hơn mười năm vượt thác tràn đầy tự tin. “Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Như một vị huấn luyện viên giàu kinh nghiệm, ở trận này ông lái đò quyết định đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Ông “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ. Nhưng đúng là một đối thủ đáng gờm, con sông Đà đáp trả chẳng hề thua kém. “Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Vẫn còn nhớ mặt kẻ thù quen thuộc, ông lái đò “tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối cùng, những cửa tử đã bị bỏ lại hết phía sau, chỉ nghe thấy tiếng thác đá không ngừng khiêu khích.
Đến vòng trận cuối cùng, con sông Đà tung ra đòn quyết định. Ở vòng này ít cửa hơn nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan”. Dù vậy, vị thuyền trưởng ấy vẫn vững vàng chỉ huy sáu bơi “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa”, chọc thủng hàng phòng ngự của quân địch. Lúc này đây con thuyền “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Kết thúc trận thủy chiến với phần thắng nghiêng về ông lái đò. Khi đọc đến người đọc như được thở phào nhẹ nhõm vì chiến thắng của người lái đò sông Đà.
Để có thể khắc họa một cách sinh động cảnh vượt thác của Nguyễn Tuân đã sử dụng tài năng của một bậc thầy ngôn từ với việc kết hợp những từ ngữ chuyên môn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau: văn chương, thể thao, quân sự, võ thuật… Cùng với đó là việc sử dụng nhiều động từ mạnh để miêu tả sự hung bạo của con sông cũng như tài năng của ông lái đò.
Có thể khẳng định rằng bài kí "Người lái đò sông Đà" đã bộc lộ toàn bộ sở trường, phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Người ta yêu Nguyễn Tuân vì Nguyễn Tuân rất có tài. Người ta trọng Nguyễn Tuân vì ông là một người nghệ sĩ của cái đẹp, người nghệ sĩ của hai chữ "thiên lương" trong sáng. Nguyễn Tuân thực sự là một tài năng lớn, là một nhân cách lớn mà như Nguyễn Minh Châu đã nói: "Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ".
4 Bài phân tích số 4
Nguyễn Tuân nổi tiếng trong đời và trên văn đàn trước hết như một con người của chủ nghĩa “xê dịch” và ưa viết về những chuyện “xê dịch”. Những cái gì gây nên cảm giác mạnh là nguồn sống của văn ông. Ông đến với sông Đà như đến với một người bạn tương đắc. Sự dữ dội, mãnh liệt và thơ mộng tuyệt vời của nó thu hút ông hết sức mạnh mẽ. Không phải ngẫu nhiên mà ông dốc toàn bộ tài hoa ngôn ngữ của mình ra để tái hiện nó và làm truyền lan đến người đọc niềm thán phục, ngưỡng mộ sâu sắc đối với sông Đà và người lái đò sông Đà (cũng là cảnh và người Việt Nam rất đỗi đáng yêu, đáng quý).
“Người lái đò Sông Đà” là tác phẩm xuất sắc nhất được trích trong tập tùy bút “Sông Đà (1960). Nó để lại dấu ấn sâu sắc về một con sông vùng Tây Bắc hung bạo, trữ tình, nhưng trước hết, điều ám ảnh nhất vẫn là hình tượng người lái đò “một tay lái ra hoa”, một chiến binh đẹp như truyền thuyết hiên ngang trên thác dữ.
Đi vào thế giới đời thường để tìm đề tài, nhưng Nguyễn Tuân thường hướng ngòi bút của mình chạm đến những cái dị biệt độc đáo. Cái mà ông đã cảm nhận và viết thành văn là những cái rất đỗi bình thường nhưng đồng thời lại rực rỡ và sáng chói cực đỉnh, một sự phi thường giữa cuộc sống tường như không thể có những sự kiện, những địa danh, nhũng nhân vật... như vậy. Có thể dễ dàng nhận thấy điều này trong thế giới nhân vật mà Nguyễn Tuân đã sáng tạo. Đó là một cụ Kép, lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, thấp thoáng giữa vườn lan “nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự hoa thơm cỏ quý” (Hương Cuội). Một cụ ông, triết nhân ngồi tính bước đi của thời gian, và “nhận thấy có một mùi thơm và một vị triết lý” trong hương thơm của một chén trà (Chén trà sương). Rồi khi đọc “Chữ người tử tù” với người hùng Huấn Cao, viết thư pháp trong ánh đuốc bừng sáng trong ngục tối, mang “những cái hoài bão tung hoành của một đời con người”... giữa đêm giao thời của sự sống và chết.
Trung thành với quan niệm sáng tạo, với mô típ riêng của mình như vậy, Nguyễn Tuân trong một chuyến đi thực tế tại vùng sông Đà Tây Bắc, nhãn quan ông đã bắt gặp được mẫu hình và hồn văn ông đã tìm được tiếng rung khi diện kiến một người lái đò người Thái (Tây Bắc) và cuộc mưu sinh của ông. Và từ đây, bút văn của Nguyễn Tuân đã xây dựng được hình tượng người lái đò sông Đà ẩn chứa tính cách vừa dữ dội của một chiến binh chinh phục thiên nhiên hung dữ, vừa là con người cực kì tài hoa mang cốt cách nghệ sĩ.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, người lái đò hùng dũng, oai phong như chạm khắc trên nền hình ảnh sông Đà réo sóng hung dữ bạo liệt. Dường như nhà văn không bỏ sót một chi tiết nào cần miêu tả về nhân vật chính của mình. Mỗi chi tiết đều gợi được sự liên tưởng về cái phi thường hiện ra sừng sững thuyết phục. Bước vào “cái tuổi bảy mươi”, “đầu tóc bạc trắng”, “thân hình ông lái đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch”. Nước da ánh lên chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng”. Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Ngoại hình của người lái đò còn được miêu tả gắn với những dấu tích trên thân thể và mỗi dấu tích là một thành tích, một sự kiện lịch sử của cuộc đời ông lão đã thầm lặng lập lên. Trên ngực của ông nổi lên một số “củ nâu” thương tích trên “chiến trường Sông Đà” một thứ “huân chương lao động siêu hạng”. Khó có thể trộn lẫn nhân vật được miêu tả này với những người bảy mươi tuổi khác, làm nghề nghiệp khác. Một ngoại hình gắn với sức lực phi thường với cuộc sống chèo đò vượt thác đã thấm vào trong máu thịt và thể hiện ra trong từng động tác ngay khi cuộc sống đang diễn ra bình thường, ông lái đò là hình ảnh một người lao động mà sông nước đã in dấu vào trong từng chi tiết ngoại hình. Điều quan trọng là thông qua cách miêu tả này nhà văn đã ngầm gửi một thông điệp tới người đọc là nhân vật của ông mang sự khác thường ở chỗ nó không chỉ ở ngoại hình mà còn ở ý chí, nghị lực hướng tới, mà ở đây tuổi tác không làm mất đi sức sống mạnh mẽ và lòng yêu mến gắn bó với công việc.
Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có sáu mái chèo đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ. chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh. Chính quãng thời gian thử thách, đối mặt với thiên nhiên và sinh tử ấy đã tạo thành tri thức và tính cách trong ông lão: trí nhớ ông được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở. sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến của những cái chấm than chấm câu và những đoạn xuống dòng. Nhờ có tri thức ấy mà ông lão đã chiến thắng sự hung dữ của sông Đà và trong âm vang “chiến trận” ấy người lái đò lại trở thành vị tướng đối mặt với hung dữ và chiến thắng nó bằng những mẹo mực rất “nhà binh”; ông lái đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá. Sự rèn luyện lao khổ và vượt gian nan đã biến người lái đò thành con người có kĩ năng kĩ xảo lao động tuyệt hảo tới mức tác giả ngợi ca như nghệ sĩ điêu luyện với “tay lái ra hoa” đã từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh từ với “lũ đá nơi ải nước”. Và những dòng văn của Nguyễn Tuân đã khắc họa thật sinh động hình ảnh của một con người gắn bó với lao động, yêu nghề sông nước, từng trải và giàu kinh nghiệm.
Cái hay của những tình tiết miêu tả là tái hiện được ông lão lái đò và dòng sông dữ thô ráp thành tràn đầy chất nghệ sĩ trong trường thiên anh hùng ca chiến trận sông nước thiên nhiên. Rõ ràng, yếu tố hiện thực đã được nghệ sĩ hóa tràn đầy chất thơ kiêu dũng. Và chính vì vậy tạo ra sức hút cho người đọc và sự khác biệt của Nguyễn Tuân.
Cuộc sống của người lái đò sông Đà là một cuộc chiến đấu giành giật sự sống từ tay tử thần rình rập nơi những con thác luôn ẩn tàng nồi hiểm nguy, vẻ đẹp dữ dội này trong phẩm chất người lái đò. được nhà văn tập trung bút lực miêu tả qua những tình tiết vượt thác. Thông qua những tình tiết này, Nguyễn Tuân đã dựng lên hình ảnh tài hoa nghệ sĩ chan hòa xuyên thấm vào với vẻ đẹp kiêu hùng của hình ảnh chiến sĩ. Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò gắn sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn kinh nghiệm thủy chiến. Và đồng thời song hành với bản lĩnh chiến đấu, tinh thần dũng cảm phi thường. Xuôi theo dòng văn, người đọc cảm nhận rất rõ nét hình ảnh người lái đò lúc nào cũng ngạo nghễ vươn lên trên cái nền thiên nhiên hung dữ ghê rợn. Thiên nhiên ác hiểm cố nhấn chìm số phận của con người, dập vùi họ đây họ đến chỗ chết, nhưng con người luôn quật cường và chiến thắng không chỉ bằng cơ bắp mà bằng cả trí tuệ bằng tình yêu công việc, nhờ đó hình ảnh được khắc họa trở lên tỏa sáng, sừng sững.
Ở trùng vây thứ nhất, bọn đá sông mở ra năm cửa trận hình đánh lừa con thuyền, có bốn cửa tử và một cửa sinh, cửa sinh lại nằm lập lờ ở phía tả ngạn. Ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới”. Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra. Những hòn đá “bệ vệ oai phong lẫm liệt” được nước thác “reo hò làm thanh viện” chúng liều mạng xông vào mà “đá trái” mà “thúc gối vào bụng và hông thuyền... Có lúc chúng đội cả thuyền lên”. Lúc này ông lái đò ở tư thế bị động, đối mặt với thiên nhiên. Tuy bị động nhưng cũng rất hiên ngang như một tướng soái. Nguy hiểm là vậy nhưng ông lái đò vẫn bình tĩnh “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”. Ngay cả lúc bị con thủy quái này đánh miếng đòn hiểm nhất “bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Đối phương tung ra liên tiếp những binh chủng nước, mặt sóng sôi sùng sục như có lừa châm vào đầu sóng. Ông đò cố nén vết thương “hai chân vần kẹp lấy cuống lái” dù mặt méo bệch đi vì đau đớn nhưng tiếng chỉ huy của ông vẫn sắc lạnh, tỉnh táo, đưa con thuyền thoát khỏi nguy hiểm và tiến nhanh vào vòng vây thứ hai. Ở vòng vây thứ nhất, một con thuyền rất mong manh trước một đổi phương đông đảo, ranh ma. Tuy bị động nhưng ông đò đã chiến thắng bằng sự bình tĩnh, khôn ngoan và mưu trí.
Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đã phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Bọn đá sông mở ra thêm nhiều cứa trận vô cùng hiểm trở, bổ trí nhiều cửa tử hơn và chỉ có một cửa sinh nhưng nằm lập lờ phía hữu ngạn: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Trên sông đá sông Đà đã thay đổi chiến thuật, không phải là tư thế của đô vật nữa mà là tư thế của hùm beo vồ mồi, một tư thế hiểm độc của thú dữ. Ông lái đò bắt đầu cuộc tấn công bằng cách “nắm chặt được cái bờm sóng đúng luồng rồi” ông cho con thuyền “phóng nhanh vào cửa sinh mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Ông đò đã chuyển từ tư thế bị động sang chủ động. Nếu dòng thác là hùm beo thì ông lái đò đã có được tư thế của “Võ Tòng đả hổ, cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Đây là một tư thế đứng trên đầu kẻ thù. vẫn chưa chịu thua, “bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định lôi con thuyền vào tập đoàn cửa tử”, ông đò nhớ mặt bọn này nên đứa thì “ông tránh mà rảo bơi chèo lên”, đứa thì bị ông “đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối cùng ông thắng còn bọn đá tướng thất bại thảm hại đưa cái mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Một dãy dài những động từ, tính từ được Nguyễn Tuân sử dụng để tả tư thế chiến thắng của ông đò: “rảo bơi chèo”, “đè sấn lên”, “chặt đôi ra”... Những từ ngữ ấy đã thể hiện được phẩm chất chiến sĩ của người lái đò trên chiến trường sông Đà. Ở vòng vây thứ hai, ông đò đã chiến thắng bằng sự mưu trí. dũng cảm, sự am hiểu tường tận về con sông.
Trùng vây thứ ba là một không gian của trận địa để nhằm tiêu diệt đối phương: bên phải bên trái đều là “luồng chết cả”, cái luồng sống nằm ở giữa ngay con thác. Bên cạnh đó là cách thức bố phòng tấn công như trong chiến trận: “bọn đá hậu vệ” canh cửa hòng “bắt chết” cái thuyền. Trên cái phông nền chiến trận cẩn mật và đầy thách thức ấy, ông lái đò hiện lên như vị tướng cầm quân với chiến thuật tài ba. ông mưu trí phóng thăng con thuyền, chọc thủng cửa giữa đỏ. Thuyền vút qua công đá cánh mở’ cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cừa trong cùng. Chiếc thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Dường như tác giả tập trung cao độ bút lực vào đoạn văn này. Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Lối ngắt nhịp gãy vụn ra đã diễn tả tình thế gay go, quyết liệt và khẩn trương. Để tả tốc độ thuyền lao đi, tác giả không dùng từ “vươn” mà dùng từ "vút”, lặp lại nhiều lần, kết hợp với hình ảnh so sánh: “thuyền như một mũi tên tre” để diễn tả tốc độ cực lớn của chiếc thuyền. Từ “tự động”, đã biểu đạt khá chính xác sức phản ứng linh hoạt, nhạy bén, điêu luyện của ông đò. Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân ngôn ngữ thật hùng hậu, đa dạng, biến ảo thần kỳ với liên tục những phép tu từ vô cùng sinh động: so sánh ngầm, nhân hóa, cường điệu... Câu chữ tuôn chảy ào ạt, điệp điệp trùng trùng tạo ra một bức tranh chiến trận hoành tráng về không gian, ấn tượng về hình ảnh hiểm nguy, gay cấn về tình huống... Kết hợp với phong cách sử dụng nhiều loại hình nghệ thuật, trong đoạn viết này Nguyễn Tuân đã cho ta thấy cách viết của ông như kịch bản phim và qua bàn tay đạo diễn, nó tạo ra sự sống động hồi hộp âu lo, thán phục... với biết bao cảm xúc nảy nở trong lòng người đọc. Ở vòng vây này, ông đò đã chiến thắng không chỉ bằng sự mưu trí, dũng cảm mà hơn thế bằng tay lái điêu luyện thành thục “tay lái ra hoa”. Con thuyền lướt nhanh trên đầu sóng, sóng của Sông Đà và sóng của ngôn ngữ Nguyễn Tuân. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng, hình ảnh bừng sáng: ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song toàn, quyết liệt và quyết đoán, uyển chuyển linh hoạt như một nghệ sĩ xử lý tình huống với trái tim khát khao chinh phục... đã lập thành hào quang chiến thắng.
Đối với người lái đò, hiểm nguy trên dòng sông cũng chính là một phần trong cuộc sống thường nhật của ông, được ông chấp nhận như một tất yếu; tác giả đã làm cho hình ảnh người lái đò lấp lánh hơn, giàu chất nghệ sĩ hơn từ công việc đối mặt với hiểm nguy đã trở thành bình thường. Khi vượt qua gian nguy, sóng nước lại tan xèo xèo trong trí nhớ sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, và toàn bàn về cá anh vũ cá dầm xanh... Cũng chẳng thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thẳng vừa qua. Giọng văn thanh thoát, nhẹ nhàng ta lại thấm thía thêm vẻ đẹp của người lái đò Sông Đà. Họ anh hùng biết bao trong lao động nhưng cũng thật khiêm nhường, bình dị biết bao trong cuộc sống đời thường. Chất trữ tình bên lửa cháy và có cả những câu chuyện đời thường ở quá khứ ở phía trước nhưng tuyệt nhiên không có hồi ức về hiểm nguy mà tất cả đều lãng mạn ngọt ngào. Điều ấy như một thứ khí chất, một tính cách cấu thành con người ông lái đò. Nó khác biệt với người bình thường mỗi khi đối mặt nguy hiểm vẫn phải toan tính âu lo; và khi vượt qua rồi vẫn cảm thấy bất an vẫn hồi hộp mỗi khi nhớ về. Cái phi thường trở thành cái bình thường, chất chiến sĩ hòa quyện với phong thái tài tử nghệ sĩ. Từ đó mà tôn cao thêm tầm vóc của người lao động. Và tụ lại trong con người ông lái đò một phẩm chất kép: phong thái nghệ sĩ và tính cách người anh hùng sông nước. Con người mà trái tim nghệ sĩ đập thầm lặng nhưng mạnh mẽ trong cơ thể thép, ý chí thép.
Văn chương phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Đặc điểm cơ bản của hình tượng văn chương là sự thống nhất giữa tính cá biệt, cụ thể và khái quát. Và vì điển hình là khái niệm xác định chất lượng hình tượng, cho nên một hình tượng văn chương có tính khái quát cao và tính cụ thể đến mức độc đáo thỉ hình tượng trong đó trở thành điển hình. Soi chiếu vào thực tiễn qua Người lái đò Sông Đà người đọc có thể đánh giá Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công một hình tượng điển hình.
Người lái đò trước hết đã thể hiện cái “cá biệt” rất rõ nét, đó là một con người cụ thể làm nghề lái đò chuyên vượt thác sông Đà ở Lai Châu. Hành động của nhân vật trong không gian, thời gian xác định với những hành động suy nghĩ rất riêng không trộn lẫn. Tuy nhiên, bối cảnh viết truyện vào năm 1958, xu thế văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa giai đoạn này đang tập trung vào chủ đề xây dựng cuộc sống mới và con người mới. Ngòi bút văn chương của Nguyễn Tuân đã rất tinh tế khi xây dựng được một điển hình về con người mới âm thầm tồn tại lao động chống lại thiên nhiên hung dữ mưu sinh và tô đẹp cuộc sống. Chính vậy, hình ảnh ông lái đò đã mang tính phổ quát (đặc điểm thứ hai của hình tượng), để trở thành hình tượng điển hình. Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân là con người vô danh, nhưng ông thực sự đáng tôn vinh, vì có những phẩm chất của con người lao động chân chính. Và vẻ đẹp của con người lao động, con người vô danh được coi là khám phá của Nguyễn Tuân khi viết về cuộc sống mới, con người mới. Qua hình tượng nhân vật trong tác phẩm có thể hình dung trên các miền đất thiên nhiên hung dữ có hàng nghìn hàng vạn những con người quả cảm và nghệ sĩ như người lái đò dòng sông cuối trời Tây Bắc họ có mặt sống và chiến đấu trên khắp mọi vùng đất Tổ quốc Việt Nam.
Sáng tạo hình tượng người lái đò, Nguyễn Tuân đã thể hiện thái độ yêu mến, tự hào và cảm phục trước những con người lao động bình dị nhưng tiềm ẩn “chất vàng mười” quý giá của Tổ quốc và vùng Tây Bắc. Cũng bằng hình tượng nhân vật người lái đò, Nguyễn Tuân đã mang đến thông điệp: chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa, nó có ngay trong cuộc sống đời thường ở những vùng khuất lấp.
5 Bài phân tích số 5
Nguyễn Tuân là một nhà tuỳ bút lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và đạt được sự cân bằng giữa hai thời kỳ lịch sử trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Qua cái mốc ấy, tư tưởng và phong cách của ông tất nhiên có những biến đổi nhất định. Nhưng dù biến đổi thế nào, vẫn trên một căn bản thống nhất của một cái tôi rất Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác, thích cảm giác mạnh, suốt đời say mê đi tìm và diễn tả cái đẹp. Người lái đò Sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà - một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tuỳ bút Nguyễn Tuân ngày càng giàu thêm chất khí. Nghĩa là tư liệu rất phong phú, bề bộn, nhất là tư liệu về địa lí, lịch sử, dân tộc học. Nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, những tư liệu ấy trở thành hình tượng sống động, thành những sinh thể, những nhân vật có linh hồn. Vì vậy bài tuỳ bút không chỉ có một nhân vật mà hai nhân vật: người lái đò và con sông Đà.
Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập với nhau - như tác giả nói - "hung bạo và trữ tình". Lúc trở mặt hung bạo, nó cứ như là "kẻ thù số một" của con người. Nhưng lúc trữ tình thì lại đầy chất thơ, rất đỗi dịu dàng, thân thiết, giống như một người tình, một "cố nhân" gặp thì mừng vui, xa thì nhớ nhung, lưu luyến.
Hai nét tính cách này đã khơi đúng vào cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Tuân - một cây bút vốn luôn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã viết rất hay về đèo cao, dốc thẳm, về gió, về bão, về thác nước dữ dội, nếu không phải là về vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh, của người, của viên ngọc trai đáy biển, của bầu trời trong trên đỉnh núi Mèo, về hoa thuỷ tiên nở đúng đêm giao thừa, về sắc đẹp đổ quán xiêu đình, nghiêng thành nghiêng nước của nàng Kiều,... Về tính cách hung bạo của con sông Đà thì từ xa xưa ông cha ta đã diễn tả bằng biểu tượng Sơn Tinh - Thuỷ Tinh: "Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen".
Nguyễn Tuân thì không thể dùng lối huyền thoại như thế, ông phải dựng lên những bức tranh chân thực về những cảnh tượng hùng vĩ và dữ dội của con sông Đà khiến người đọc cũng phải rùng mình sởn gáy như đứng trước cảnh thực. Ông đã tung ra biết bao chữ nghĩa đắt giá, biết bao thủ pháp có sức diễn tả mãnh liệt để quyết một phen thi tài với Tạo hoá.
Chẳng hạn, ông dùng thủ pháp liên tưởng, so sánh để diễn tả đoạn sông bị chẹt giữa hai vách đá dựng thành cao vút "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". Và đây nữa, ông tả cái hút nước ghê gớm "giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn [...]. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". Dùng thủ pháp văn học như thế ông vẫn chưa cho là đủ. Nguyễn Tuân còn chuyển sang sử dụng kĩ thuật đặc tả của điện ảnh. Ông tưởng tượng ra một anh quay phim điên rồ nào đấy, ngồi vào một cái thuyền thúng cho nó hút xuống đáy cái hút nước khủng khiếp kia cả người lẫn máy thu hình: "Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre - plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim ký sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn".
Sức tưởng tượng của Nguyễn Tuân đến thế thật là đã được đẩy lên đến mức kì khu, kì quái do cái động lực bướng bỉnh: không chịu lùi bước trước Tạo hoá.
Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà thực sự trở thành một loài thuỷ quái khổng lồ. Tiếng gầm gào của nó qua những con thác dữ, từ xa nghe đã dễ sợ: "tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo". Khi đến gần, tiếng nó bỗng "rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng".
Con thuỷ quái không chỉ hung hãn. Nó còn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với ông lái đò, nó đã trổ ra đủ mưu ma chước quỷ để lừa người ta vào thế trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt sông thì đánh phục kích. Dụ được vào sâu thì đánh khuýp vu hồi. Giáp lá cà thì giở đủ ngón hiểm ác: đòn âm, đòn dương, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng, lật nửa người, bóp chặt hạ bộ,... Vừa đánh vừa hò la vang trời dậy đất để áp đảo tinh thần đối phương,...
Nhưng vượt qua được con thác dữ thì sông nước lại trở nên rất đỗi êm ả thanh bình. Nguyễn Tuân gọi thế là tính cách trữ tình của con sông Đà. Sông Đà lúc này lại như một tiên nữ giáng trần. Nó "tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo". Đẹp biết bao khi được ngắm nhìn những làn mây mùa xuân bay trên sông Đà. Nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa: mùa xuân là dòng xanh ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ như da mặt người say rượu... Cảm hứng dạt dào, nhà tuỳ bút cũng muốn trở thành thi sĩ. Ông thấy "lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước". Từ những chạm khắc gân guốc, bạo khỏe, từ những màu sắc gây ấn tượng dữ dằn, Nguyễn Tuân chuyển sang những đường nét thanh thoát, dịu dàng thơ mộng. Quả thật nhiều khi ông đã đạt tới khả năng gợi tả của ngôn ngữ thơ, nghĩa là nói được những điều khó nói bằng văn xuôi: ấy là cái mà ông gọi là "màu nắng tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu" - thoáng hiện lên trên sóng nước sông Đà; ấy là cái bâng khuâng ngẩn ngơ của dòng nước lững lờ trôi xuôi như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Có một cái gì tựa như nỗi thương nhớ mênh mang mơ hồ của thi sĩ Tản Đà gửi "một người tình nhân chưa quen biết" - "Dải sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình".
Nói chung qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông Đà thường đậm đà màu sắc cổ điển: "Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: "Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương ?". Có thể gọi đấy là những dòng thơ văn xuôi của nhà tuỳ bút.
Trên cái nền của con sông vừa "hung bạo" vừa "trữ tình" ấy hiện lên lừng lững hình tượng người lái đò sông Đà. Thực ra ông lái này chủ yếu xuất hiện trong cuộc vật lộn với một con thác dữ, nghĩa là ở cái phía hung bạo của sông Đà. Giả sử tác giả đặt ông ta trong khung cảnh khác - khung cảnh thơ mộng trữ tình - chắc hẳn ông sẽ trở thành một anh chàng Trương Chi si tình trong cổ tích. Nhưng ở đây, đối đầu với con sông dữ, với một loài thuỷ quái, ông lái đò nhất thiết phải trở thành một dũng sĩ kiên cường - một nhân vật sử thi trong thiên trường ca leo ghềnh vượt thác...
- người lái đò sông đà
- nhà văn
- nguễn tuân
- tác giả
- thành quả đẹp đẽ
- núi rừng
- tây bắc
- tâm hồn của con người lao động
- thiên nhiên
- đất nước
- top 10 bài phân tích người lái đò sông đà
- bài văn phân tích
- bài văn mẫu
- tâm hồn tác giả
- con người lao động và chiến đấu
- sông núi
- hùng vĩ
- sông núi hùng vĩ
- hòa nhịp với thiên nhiên
- bài văn mẫu hay
- hòa nhịp đất nước
- dân khối D.