Thông báo mới! TOP SHARE

Top 10 dàn ý và bài văn hay phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt

  • 950 views
  • 3 likes
  • Add Favorite
  • Be a liked
  • Báo lỗi
  • Tài trợ

by Chanh 11-06-2022

Nhân vật bà cụ Tứ là một trong những nhân vật quan trọng trong mạch truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Bà cụ Tứ - mẹ nhân vật Tràng, là hình ảnh tiêu biểu khắc họa chân dung người nông dân nghèo trong thời gian cực kỳ khó khăn ở những năm 1945. Cái khó bao trùm lúc bấy giờ có lẽ cũng khó lòng làm mờ đi những phẩm chất bên trong người mẹ ấy, thể hiện rõ trong sự quan tâm lo lắng cho con trai Tràng và những diễn biến tâm lý hết sức sâu sắc bên trong nhân vật. Với tài năng của nhà văn hiện thực tài hoa cùng sự đồng cảm lớn cho nhân vật và người nông dân nghèo lúc bấy giờ, nhà văn Kim Lân đã rất tinh tế khi thể hiện diễn biến tâm lý bà cụ Tứ vào một mạch rất tự nhiên, hợp lí. Để hiểu hơn về diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt, hãy cùng đến với những bài phân tích được chọn lọc và sưu tầm dưới đây bạn nhé!

6 Bài phân tích số 4
Vote
0%

3

by Chanh 11-06-2022

Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Trong tác phẩm ta không chỉ nhớ về anh cu Tràng và chị vợ nhặt mà còn nhớ đến bà mẹ tảo tần, chịu nhiều vất vả. Bà cụ Tứ là hình ảnh bà mẹ nông dân Việt Nam trước 1945. Ở nhân vật này, Kim Lân không chú ý vào hành động mà đi sâu vào khai thác tâm trạng nhân vật, qua đó khẳng định tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của ông.

Diện mạo của bà cụ Tứ chỉ được tác giả phác họa bằng vài chi tiết “dáng đi lọng khọng, đôi mắt nghèn dử, vừa đi vừa húng hắng ho”. Nhưng chừng ấy cũng đã đủ để cho người đọc hình dung về một bà mẹ nhân dân lam lũ, vất vả đã bị cái đói cái nghèo đeo bám suốt cả cuộc đời.

Nhưng ngòi bút tập trung đi sâu miêu tả tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt là ở hai thời điểm: trong buổi tối cô vợ nhặt về nhà và buổi sáng hôm sau. Qua hai thời điểm đó đã cho thấy tài năng miêu tả tâm lí bậc thầy của Kim Lân.

Khi bà cụ Tứ nhìn thấy cô con dâu, bà ngạc nhiên đến mức ngỡ ngàng vì chưa bao giờ bà thấy con trai bà mong ngóng bà về đến vậy. Sự ngạc nhiên tạo nên tâm lí phấp phỏng khi bà theo anh cu Tràng vào nhà và thấy một người đàn bà lạ ngồi trong nhà. Đến lúc này sự ngạc nhiên của bà đã lên đến đỉnh điểm, bà tự hỏi: “Quái, sao lại có người đàn bà ngồi trong ý nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u”. Sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến mức bà không tin nổi vào mắt mình, phải dụi mắt để cho đỡ nhoèn.

Sau khi được anh con trai giải thích, tâm trạng bà ngổn ngang, rối bời. Bằng trái tim yêu thương của người mẹ, lòng bà dâng lên tình yêu thương con sâu sắc. Bởi bà hiểu người ta chỉ lấy vợ lấy chồng khi cuộc sống yên ổn, nhưng con bà lại lấy vợ vào thời điểm cái đói diễn ra ác liệt nhất. Cùng với đó bà nghĩ tủi cho phận người mẹ nghèo khi không làm tròn trách nhiệm lo lắng cho hạnh phúc của con. Tất cả những nỗi lòng ấy được dồn trong cái cúi đầu nín lặng. Sau tình yêu thương bà chuyển sang xót xa, lo lắng “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau vượt qua cơn đói khát này được không?”. Nạn đói đang hoành hành, những lo lắng của bà là hoàn toàn hợp lí. Từ lòng yêu thương, lo lắng cho con, tấm lòng nhân hậu của người mẹ còn chuyển sang người vợ nhặt. Dù Tràng không giới thiệu chi tiết, tỉ mỉ nhưng với kinh nghiệm sống của mình và hiểu đám cưới vội vã của người con dâu. Bà nhìn cô với ánh mắt đầy cảm thông, yêu thương: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”. Như vậy bà không chỉ là hiện thân của tình mẫu tử thiêng liêng mà còn là hiện thân của tấm lòng bao dung, vị tha, sẵn sàng giúp đỡ những người có số phận bất hạnh, éo le.

Dù trong lòng ngập tràn nỗi xót xa, nhưng bà vẫn luôn nói nhưng điều vui vẻ, hạnh phúc với người con dâu mới: “ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Câu nói vừa xóa đi cái ngượng ngùng cho người con dâu vừa là sự chào đón đầy ấm áp, nhân từ bà dành cho thành viên mới của gia đình. Dù miệng nói ra những điều phấn khởi, vui vẻ nhưng ám ảnh về cái đói, cái chết vẫn là quá lớn. Bởi vậy, khi chìm vào thế giới của riêng mình bà vẫn không khỏi lo lắng, xót xa, và không nén nổi thành dòng nước mắt chảy ròng ròng.

Trong buổi sáng hôm sau, Kim Lân tiếp tục đi sâu khai thác tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt nhấn mạnh vào niềm tin, khát vọng tương lai. Cùng với sự thay đổi của Tràng và cô vợ nhặt, bà cụ Tứ cũng có sự thay đổi rõ ràng. Tràng đã cảm nhận thấy người mẹ của mình có dáng vẻ khác hẳn mọi khi, không phải sự nhếch nhác, khổ sở mà thay vào đó là dáng điệu nhẹ nhõm, tươi tỉnh. Bà dậy sớm cùng con dâu quét dọn nhà cửa. Những hành động tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn lao, nó thể hiện sự vun đắp, chăm lo của người mẹ cho hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ.

Để tạo niềm tin và hi vọng vào tương lai cho vợ chồng Tràng, trong bữa cơm ngày đói bà lão toàn nói những chuyện sung sướng sau này. Sự tính toán của bà về việc mua lấy đôi gà để ngoảnh đi ngoảnh lại đã có đàn gà, khiến cho đôi vợ chồng có niềm tin vào tương lai. Nhưng dù dùng những câu chuyện vui, lạc quan thì bà lão vẫn không thay đổi được hiện thực là nồi cháo kia chỉ đủ cho mỗi người ăn hai lưng là hết. Và để vượt qua cái đói, bữa cơm đón cô dâu mới có thêm cả nồi cháo cám. Bưng nồi cháo cám ra, phản ứng tâm lí của bà vô cùng đáng thương, bà lật đật, lễ mễ, khuấy khuấy cùng với giọng nói đầy phấn khởi, để giấu bớt đi phần khắc nghiệt của hiện thực là bát cháo cám nghẹn ứ ở cổ. Những hành động đó của bà thật cảm động và đáng trân trọng.

Không phải ngẫu nhiên mà trong ba nhân vật, Kim Lân lại để một bà cụ gần đất xa trời nói về tương lai, nhưng điều tốt đẹp, sau đó còn ẩn chứa thông điệp: Dù thế nào cũng phải giữ lấy niềm tin và hi vọng. Đồng thời cũng là sự ngợi ca của tác giả trước sức sống khỏe khoắn, mãnh liệt của tâm hồn Việt. Người mẹ nghèo nhưng tính cách bao dung, nhân từ đã gieo mầm sự sống, hạnh phúc lứa đôi. Có thể coi bà cụ Tứ là điểm kết tinh của tác phẩm, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.

Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của mình để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi vợ chồng trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu bà mẹ Việt Nam. Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.

7 Bài phân tích số 5
Vote
0%

3

by Chanh 11-06-2022

Kim Lân với phong cách viết giản dị, gần gũi với đời sống của nhân dân nên ông được xem là nhà văn của làng quê Việt Nam. Những sáng tác của ông luôn chạm vào trái tim người đọc cảm xúc ấm áp, thân quen nhất. Truyện ngắn “Vợ nhặt” ra đời giữa bối cảnh đất nước ta đang lầm than, nạn đói hoành hành. Tác giả đã khắc họa thành công nhân vật bà cụ Tứ, một người mẹ khắc khổ nhưng tràn đầy tình yêu thương.

Bà cụ Tứ không xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm, bà chỉ xuất hiện khi anh cu Tràng dẫn vợ vừa nhặt được về nhà. Có lẽ khoảnh khắc này người đọc sẽ bắt đầu nhận ra được người mẹ nghèo này có thái độ, tình cảm như thế nào dành cho con.

Bà cụ Tứ hiện lên là người đàn bà khắc khổ, nghèo đói với cái dáng “lòng khòng”, “khập khiễng bước từ ngoài cổng bước vào”. Với một loạt từ dùng để chỉ hình dáng và cử chỉ của bà như “hấp háy mắt”, “lập khập bước đi”, “lễ mễ” đã gợi lên trong lòng người đọc hình ảnh người mẹ già không còn khỏe mạnh và tinh anh nữa. Giữa xóm ngụ cư nghèo đói, giữa sự tan tác, hoang sơ của cảnh vật và con người, hình ảnh người mẹ này hiện lên khiến người đọc không khỏi xót xa.

Mặc dù bà chỉ xuất hiện khi Tràng dẫn vợ về nhà nhưng lại ám ảnh đến người đọc khi đã gấp trang sách lại. Vì Kim Lân đã để cho bà xuất hiện với những nét tính cách và tình cảm yêu thương, cảm thông, chịu thương chịu khó hết mực. Bà là một người mẹ vĩ đại và tuyệt vời.

Khi thấy một người đàn bà lạ xuất hiện trong nhà mình, tâm trạng của bà thất thường, không yên và luôn tự hỏi là ai. Khi biết được sự tình, bà cũng không lớn tiếng, cũng không xua đuổi. Bà chỉ lặng lẽ như chính cuộc đời của mình như vậy. Bà thương con mình, thương cho người đàn bà lạ kia. Một tình thương sâu thẳm và bao la. Bà chỉ lo “không biết chúng nó có sống nổi qua ngày không”. Nỗi lòng của người mẹ nặng trĩu âu lo khi cái nghèo dồn dập và cái tình người thì vẫn còn đong đầy. Thấy con lấy vợ, bà cũng mừng, nhưng bà lại tủi vì “người ta có gặp lúc khó khăn đói khổ này mới lấy con mình, con mình mới có vợ được". Một sự nghiệt ngã đến đau lòng khiến bà càng yêu thương con tha thiết hơn, và thương thêm người đàn bà lạ nghèo khổ, tiêu điều kia.

Bà cụ Tứ còn là một người rất hiểu chuyện, không hề than vãn bất cứ điều gì. Bà chỉ nhẹ nhàng bảo “Vợ chồng chúng mày lo mà làm ăn, rồi trời thương. Ai giàu ba họ, ai khó ba đời bao giờ đâu”. Dù hiện thực nghiệt ngã, cái đói cứ đeo bám nhưng bà vẫn động viên, an ủi hai vợ chồng trẻ. Đó là điều mà không phải người mẹ nào cũng có thể can đảm nghĩ, can đảm động viên con như thế. Chính tấm lòng này của người mẹ khiến cho Tràng và người vợ mới thêm nhẹ lòng, không bị ràng buộc và khó khăn quá nhiều. Khi đó chúng ta mới thấy được tình người le lói giữa cảnh đời u tối như thế này thật đáng trân trọng biết bao nhiêu. Bà là một người mẹ tuyệt vời, dù cuộc đời này không được tốt đẹp như bà vẫn mong.

Hình ảnh bà cụ Tứ “xăm xăm trong vườn” vào buổi sáng đầu tiên sau khi anh cu Tràng lấy vợ khiến người đọc vỡ òa. Dù chỉ là một hình ảnh nhỏ, rất bình dị thường ngày nhưng lại khiến cho khung cảnh ảm đạm suốt bao ngày qua trở nên thông thoáng, nhẹ nhõm và trong lành hơn. Nói đúng hơn, bà cũng đang vun vén và xây đắp cho hạnh phúc của con mình. Đặc biệt hình ảnh “nồi cháo cám" xuất hiện ở bữa cơm đầu tiên Tràng dẫn vợ về không những khiến vợ chồng Tràng nghẹn ứ ở cổ mà còn khiến người đọc không thể cầm nổi nước mắt. Hóa ra trong cái nghèo đói rình rập như vậy, chỉ một bát cháo “đắng chát” cũng đủ nhen nhóm lòng người như vậy. Thực sự đây là hình ảnh mang tính chất nghệ thuật và có sức ám ảnh lớn. Cũng giống như “bát cháo hành” trong truyện Chí Phèo thì “nồi cháo cám" trong truyện ngắn “Vợ nhặt” đều là những hình ảnh neo giữ thật sâu trong tâm trí người đọc.

Tâm trạng và nụ cười niềm nở của bà cụ Tứ trong buổi sáng hôm đó thực sự đã tràn niềm vui, sự ấm áp sang đôi vợ chồng trẻ. Bà còn bảo “Cháo cám đấy. Ngon đáo để. Trong xóm mình khối nhà còn không có mà ăn”. Sự vui vẻ của người mẹ nghèo làm bừng sáng lên không khí tăm tối những ngày qua. Thực sự chỉ tấm lòng của những người mẹ mới có thể khiến cho con cái yên lòng. Anh cu Tràng và thị thực sự là những người hạnh phúc, dù đói nghèo vẫn còn dai dẳng.

Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh bà cụ Tứ bằng những chi tiết rất đời thường nhưng lại khiến cho người đọc có một sự nhìn nhận khác về người nông dân trong hoàn cảnh đất nước đói kém. Bà là người khiến nhiều người khác khâm phục và ngưỡng mộ.

8 Bài phân tích số 6
Vote
0%

3

by Chanh 11-06-2022

Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc viết về người nông dân của nhà văn Kim Lân. Bằng ngòi bút nhân đạo của mình, người nghệ sĩ ấy không chỉ khắc họa những hình ảnh chân thực đến mức xót xa về người nông dân mà qua đó còn nói lên niềm cảm thương sâu sắc trước số phận bấp bênh, khốn cùng của họ. Trong tác phẩm, cả ba nhân vật Tràng, Thị và mẹ Tràng đều có những nỗi niềm riêng, những khổ tâm riêng, song sau tất thảy trong tâm hồn họ vẫn ánh lên những vẻ đẹp đáng được trân trọng. Nhân vật bà cụ Tứ- mẹ Tràng là nhân vật có tâm lí diễn biến khá phức tạp được nhà văn diễn tả rất thành công.

Bà cụ Tứ trước hết là một người đàn bà, nghèo khổ, góa chồng, sống cùng con trai ở xóm Ngụ Cư, cậu con trai tên Tràng, dù đã lớn những anh cu khá ngờ nghệch, lại xấu xí, thô kệch. Hai mẹ con sống với nhau, cùng nhau trải qua những gian khổ của cuộc sống thiếu thốn xã hội những năm 1945. Bà chưa bao giờ dám nghĩ anh cu Tràng con mình sẽ có vợ dù lòng bà rất muốn có một người con dâu bởi bà biết con mình thế nào, hoàn cảnh của gia đình ra sao.

Khi anh cu Tràng dắt vợ về chờ đợi mẹ trong căn nhà rách nát ấy, lúc về tới nhà, thấy một người đàn bà đang ngồi ở đầu giường của cậu con trai, bà rất ngạc nhiên. Và càng ngạc nhiên hơn khi nghe tiếng chào mẹ từ miệng người đàn bà ấy. Anh cu Tràng biết mẹ chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra bền cất tiếng “ Kìa nhà tôi nó chào u….Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”. Tiếng nói ấy, lời khẳng định ấy được cậu con trai của bà thốt ra, bà vẫn chưa thể tin được đây là sự thật, cố nhìn cho kĩ người đàn bà vẫn đang ngồi nơi đầu giường: “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu”. Hóa ra con bà đã có vợ, một đứa vừa xấu, vừa nghèo như cu Tràng lại có kẻ nhận theo về ư? Lòng bà vẫn chưa hết ngạc nhiên, còn đong đầy những câu hỏi thắc mắc pha lẫn tò mò.

Khi dần hiểu ra mọi chuyện, biết Tràng nhặt được người đàn bà kia về làm vợ, bà chỉ biết “cúi đầu nín lặng” mà thôi. Xót thương biết bao cho số kiếp của con trai bà, bà nhớ về người chồng năm xưa của mình, nhớ về người con gái bà từng có những đã qua đời, bà càng thương, càng tủi, càng xót xa. Là một người mẹ, bà thương con vô bờ, bà biết con trai mình từ nay cũng đã yên bề gia thất, có mừng đấy chứ, nhưng mừng thì ít mà lắng lo thì nhiều. Bà trách phận mình làm mẹ lại chẳng thể cho con lấy một ngày ấm êm, cũng chẳng có gì lo cho con khi con lấy vợ. Bà cũng nặng lòng biết bao khi người chết vì đói thì nhiều, mạng sống mỏng manh như sợi tóc treo ngàn cân, nhà thì thiếu thốn, khốn khó mà con trai lại lấy vợ lúc này. Rồi bà khóc vì thương con, thương cô con dâu mới , hai đứa rồi sẽ ra sao, có chăng vượt qua được kiếp nạn đọa đày này. “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”. “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá!...” “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Làm sao có thể nói hết những yêu thương mà tấm lòng bà cụ dành cho con, những lời dịu dàng, chân thành được thốt lên từ trái tim ấm áp và sâu tận tâm can của người mẹ khiến ta không khỏi nghẹn lòng. “Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”.

Là một người từng trải, bà hiểu được rằng nếu không có nạn đói xảy ra, chắc gì con mình đa có vợ, đói khát thế, người ta mới tìm đến con mình. Dẫu vậy, thứ hạnh phúc nhỏ bé mà anh Tràng có được vẫn mang đến cho bà, cho gia đình nhỏ sự ấm áp. Dù biết phía trước còn những gập ghềnh, bà vẫn động viên con, khuyên lơn con. Bà dặn con phải sống yêu thương, thuận hòa, đùm bọc san sẻ nhau vượt qua cơn hoạn nạn. Trong lời dặn dò ấy, chứa chan cả một niềm tin rồi mai sẽ khác, rồi tương lai sẽ lại bình yên: “Rồi ra may mà ông giời cho khá…” ai giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói toàn: chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này".

Trong buổi sáng sau ngày cô con dâu về, bà cố gắng dậy thật sớm, nhổ sạch vườn cỏ trước nhà, quét dọn lại nhà cửa, vườn tược. Hơn ai hết, bà xem công việc ấy như một sự yêu quý và trân trọng của mình dành cho người con dâu mới đến, bà đón con trong niềm vui để con đỡ tủi phận mà an lòng. “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa”. Bữa sáng đầu tiên đã con dâu là một nồi cháo cám, dù là một món ăn chát đắng những bà vẫn cố mỉm cười vui vẻ để động viên con. Đu nghèo khó đến thế, nhưng trong bữa ăn của buổi sáng hôm ấy ta vẫn cảm nhận được không khí gia đình đầy ấm áp, tình cảm mẹ con vẫn dạt dào.

Nhân vật bà cụ Tứ lấp lánh trong tác phẩm những đức tính cao đẹp của người phụ nữ, người mẹ Việt Nam. Đó là sự đảm đang, lòng nhân hậu, vị tha, tình thương yêu con vô bờ bên và sự kiên cường trong ý chí. Trong gian nan, giữa ngàn sự chết chóc, trăm vạn mối lo toan, bà vẫn lạc quan, vẫn không nuôi hy vọng và niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp.

Bằng cách kể chuyện hấp dẫn, sự thấu hiểu tâm lý, lòng người đã giúp nhà văn đi sâu vào từng ngõ ngách tâm hồn của nhân vật, để khi đọc những trang văn viết nên từ ngòi bút ấy, ta được sống với những cảm xúc cùng nhân vật để cùng hạnh phúc, cùng lo lắng, cùng khóc, cùng cười. Thật cảm ơn Kim Lân đã dành cho những người nông dân lam lũ một tình yêu thương vô bờ và bền chặt đến vậy.

9 Bài phân tích số 7
Vote
0%

3

by Chanh 11-06-2022

Có một lí do khiến người đọc “rất mệt” khi đọc các tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Kim Lân… bởi họ viết hay quá, cuốn quá, đời quá và “gắt” quá. Mỗi khi đọc một trang văn, ta lại như sống cùng nhân vật, cùng nhân vật đi qua những niềm vui, niềm hạnh phúc và cả nỗi đau đáu, bi ai. Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên như một điển hình về người đàn bà tuy sống trong cảnh nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con vô bờ bến.

Kim Lân Kim Lân (sinh 1 tháng 8 năm 1920 – mất 20 tháng 7 năm 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Văn Kim Lân mang đậm dấu ấn cá nhân. Kim Lân đặc biệt thành công trong việc tái hiện không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân thời kỳ đó. Các tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân gồm có “Nên vợ nên chồng” (1955), “Làng” (1948), “Vợ nhặt” (in trong tập truyện ngắn “Con chó xấu xí” năm 1962)…

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nói về tác phẩm, Kim Lân viết: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người." Nhân vật bà cụ Tứ chính là điển hình cho “những con người ấy”.

Trước hết, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên là một người phụ nữ tuy nghèo hèn, tuy lớn tuổi vẫn phải nhọc nhằn suy tính mưu sinh. Ta nhận biết được điều này thông qua một vài chi tiết rất nhỏ: “Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng…”. Từ “lọng khọng” khiến người đọc có cảm giác như một bà lão dáng dấp nhỏ bé, không còn nhanh nhẹn, bước từng bước chậm chạp, nhọc nhằn đang bước ra từ bóng tối mịt mùng. Giữa không gian xóm ngụ cư tồi tàn, con người “tối sầm” vì đói khát, không khí “vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người chết đói” cộng hưởng với cái “lầm bầm tính toán” khiến ta rợn người. Có thể tính toán gì nữa đây trong cái cảnh “không còn gì để mất” này? Do đó, bà cụ Tứ bước tới mang theo cả “bầu trời” thê lương đến não lòng.

Tiếp theo, Kim Lân còn xây dựng lên nhân vật bà cụ Tứ giàu tình thương, đức hi sinh, luôn mong muốn có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn. Bà cụ Tứ là người mẹ luôn biết thấu hiểu cho đưa con trai – cu Tràng, hết lòng mong cho con được hạnh phúc. Điều này thể hiện rõ qua diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ trong suốt câu chuyện. Lúc đầu, thấy anh Tràng dắt về một người đàn bà lại, cụ Tứ “đứng sững lại”, “ngạc nhiên”. Rồi càng ngạc nhiên hơn, khi người đàn bà kia “chào mình bằng u”. Sống quá nửa đời người, chỉ giây lát bà cụ Tứ như dần hiểu ra mọi chuyện, mắt bà nhoèn đi. Một câu hỏi lớn xuất hiện trong đầu bà cụ Tứ: giữa nạn đói khủng khiếp này, ăn còn chẳng đủ làm sao mà nuổi nổi nhau đây? Bà hiểu cả, hiểu khao khát có một mái ấm gia đình của cu Tràng, nhưng hiện thực phũ phàng không cho Tràng có cơ hội có một đám cưới đàng hoàng như bao người. Của hồi môn là vài câu hò với mấy bát bánh đúc, cô vợ là người đàn bà “nhặt” về, thế nhưng, sau những giây phút ngập ngừng suy tính, bà cụ Tứ cũng “mừng lòng” đón nhận. Đó chẳng phải minh chứng cho khao khát hạnh phúc gia đình của bà cụ Tứ đó sao? Bà cụ Tứ không chỉ thương con, mà còn là người giàu lòng nhân ái, thương người cùng cảnh. Bà đón nhận một người đàn bà dưng về dù “không biết có nuôi nổi nhau không”.

Cuối cùng, bà cụ Tứ còn là một người luôn sống lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Cảnh buổi sáng hôm sau rực nắng vàng xua tan mọi âm u, chết chóc. Cả gia đình cùng nhau sửa sang ngôi nhà, rọn vườn, quét sân… Trong bữa ăn ngày đói, mâm cháo cám “đắng chát” mừng con dâu mới phơi bày hiện thực “cái đói ngay trước mắt”. Ba con người, ba mảnh đời. Một kẻ ngờ nghệch. Một người rẻ rúng được “nhặt” về. Một bà lão “gần đất xa trời”. Thế nhưng, họ say sưa nói chuyện tương lai. Bà cụ Tứ hào hứng kể những dự tính sắp tới

Như vậy, thông qua nhân vật bà cụ Tứ, Kim Lân đã nói lên khát vọng, ước mơ cao đẹp từ đó bày tỏ lòng trân trọng những phẩm chất tốt đẹp ở con người. Đó cũng chính là biểu hiện của tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Một lần nữa, Nam Cao lại thành công trong xây dựng diễn biến tâm lí nhân vật sinh động, chân thực, nói lên phong cách văn chương độc đáo của riêng mình.

Tôi chợt nhớ tới câu nói trong tác phẩm “Cố hương” của Lỗ Tấn: “Trên thế gian này làm gì có đường mòn. Người ta đi mãi thì thành đường thôi…” Cũng đi trên “con đường mòn” phê phán hiện thực, viết về thể tài người nông dân như Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Cống Hoan… nhưng Kim Lân lại có bước đi của riêng mình.

10 Bài phân tích số 8
Vote
100%

3

by Chanh 11-06-2022

Truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối, với nạn đói khủng khiếp năm 1945. Kim Lân không miêu tả kĩ cái hiện thực tàn khốc của nạn đói lúc bấy giờ mà tập trung thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu sau cái bề ngoài xơ xác vì đói khát của những người nghèo khổ. Trong cảnh ấy, họ vẫn nhen nhúm niềm tin và hi vọng vào tương lai tươi đẹp. Trong "Vợ nhặt" xuất hiện ba nhân vật: Tràng, bà cụ Tứ và người vợ nhặt, thì bà cụ Tứ - mẹ anh Tràng đã gây được nhiều thiện cảm đối với người đọc hơn cả bởi tấm lòng nhân hậu, vị tha, đức hi sinh rất đáng trân trọng của bà.

Kim Lân đã để cho bà cụ Tứ xuất hiện ở giữa tác phẩm, thế nhưng bà cụ Tứ đã trở thành nhân vật trung tâm của tác phẩm. Khi miêu tả bà cụ Tứ, ngòi bút Kim Lân chân thực trong từng hình ảnh và từng chi tiết. Bà cụ Tứ hiện lên là một bà mẹ có số phận bất hạnh vì chồng bà chết sớm, đứa con gái út cũng mất sớm, bà chỉ còn lại một đứa con trai duy nhất làm nghề kéo xe bò và anh ta là người dở hơi. Chính vì vậy, hai mẹ con sống trong một căn nhà tồi tàn, rúm ró ở xóm ngụ cư và người con trai đang có nguy cơ ế vợ. Nỗi đau khổ, tủi nhục suốt đời đè nặng lên thân phận đã tạo nên tính cách của bà. Chân dung nhân vật bà cụ Tứ được tác giả giới thiệu dần dần. Bắt đầu là "tiếng người húng hắng ho", rồi một bà lão với cái dáng "lọng khọng" từ đầu ngõ "vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng". Tính từ "lọng khọng" rất dân dã và giàu chất tạo hình giúp người đọc hình dung ra cái dáng gầy gò, xiêu vẹo của bà mẹ già bởi gánh nặng cuộc đời, bởi cái đói nghèo. Và chính cái nghèo khó cũng làm trên khuôn mặt bà hiện lên một nét "bủng beo u ám". Qua miêu tả ngoại hình bà cụ Tứ, mà chúng ta thấy được, đó là người mẹ có cuộc đời khổ cực, bất hạnh.

Kim Lân rất khéo léo dẫn dắt để người đọc cùng suy nghĩ, cùng hòa vào những nét tâm trạng buồn vui của bà cụ Tứ. Tác giả đặt bà cụ Tứ vào một hoàn cảnh hoàn toàn bất ngờ. Giữa những ngày đói kém khủng khiếp năm 1945 "người chết như ngả rạ" và "không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người", rồi thứ tiếng "gào lên từng hồi thê thiết" của những con quạ đậu trên "mấy cây gạo ngoài bãi chợ", thì đứa con trai của bà cụ bỗng dưng "nhặt" được vợ trong một lần kéo xe thóc bò của liên đoàn lên tỉnh và dẫn về nhà giới thiệu với mẹ mình. Chính những điều đó đã tác động rất mạnh khiến cho bà cụ Tứ xuất hiện nhiều nét tâm trạng đan xen. Những nét tâm trạng của bà thể hiện ở hai thời điểm chiều hôm trước và sáng hôm sau rất khác nhau, nhưng những tâm trạng của bà đều là sự nhìn nhận và suy ngẫm về chuyện lấy vợ của Tràng.

Chiều hôm trước, bà cụ Tứ mang một tâm trạng ngạc nhiên khi từ ngoài ngõ đi vào, thấy thái độ khác thường của Tràng "reo lên như một đứa trẻ" và "lật đật chạy ra đón mình" thì bà lão theo con vào trong nhà với tâm trạng "phấp phỏng". Đó là biểu hiện của sự lo lắng, của sự hồi hộp bởi bà không biết có sự gì sẽ đợi mình ở trong nhà. Khi đến giữa sân, nhìn thấy người đàn bà thì bà cụ ngạc nhiên "đứng sững lại" - một biểu hiện nữa của sự ngạc nhiên và đó là "sự ngạc nhiên hơn". Điều đó chứng tỏ sự ngạc nhiên trong bà càng lúc càng nhiều, sự ngạc nhiên sau lớn hơn sự ngạc nhiên trước. Tác giả đã dùng ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng băn khoăn, thắc mắc của bà cụ lúc này. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà: "Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia ? Sao lại chào mình bằng u ? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ ?" Một loạt các câu hỏi ấy chính là sự lục tìm trong trí óc của mình để tìm câu trả lời cho thỏa đáng. Nhưng bà cụ vẫn chưa tìm thấy câu trả lời, vì thế mà bà đổ lỗi cho cặp mắt của mình, không tin vào mắt mình "bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải". Bà lão "nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào" nên bà quay sang dò hỏi con trai với sự ngạc nhiên không hiểu của chính mình. Khi người đàn bà trông thấy bà cụ về, cất tiếng chào "U đã về ạ", thì kể cả tiếng chào ấy - một lời chào thân mật cũng không làm bà hiểu ra. Bà vẫn băn khoăn, phân vân đoán định và một câu hỏi nữa đặt ra: "Ô hay, thế là thế nào nhỉ ?" rồi bà lão "băn khoăn ngồi xuống giường". Mãi đến khi Tràng vừa giới thiệu, vừa giải thích "đây là nhà tôi" rồi "chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng qua nó cũng là cái số cả" thì bà lão mới bắt đầu hiểu ra. Khi hiểu ra thì bà lão "cúi đầu nín lặng". Cái tư thế "cúi đầu nín lặng" của bà cụ Tứ hàm chứa biết bao suy nghĩ, tâm sự, nỗi niềm và những tâm sự, nỗi niềm ấy khó có thể nói thành lời.

Dường như qua tư thế đó, người đọc dần dần nhận ra nội tâm phong phú bên trong cái vẻ tưởng chừng như già nua, lẩm cẩm của bà. Trong bà cùng một lúc xuất hiện cả con người lí trí và con người tình cảm. Con người lí trí không chỉ giúp bà hiểu ra là con trai bà đã có vợ mà nó còn giúp cho bà hiểu ra những khó khăn, đói nghèo mà Tràng phải chịu đựng; rồi lại giúp bà hiểu ra chính số phận bất hạnh của đời bà khiến cho con bà sống trong hoàn cảnh trớ trêu như vậy. Còn con người tình cảm của bà tỏ ra rất "xót thương cho số kiếp đứa con mình". Sự ai oán, sự xót thương đó vừa hướng tới chính mình, vừa hướng tới con bà, vừa thể hiện nỗi đau của bản thân, vừa mang tình thương tới người con trai. Bởi vậy cho nên bao cảm xúc của bà lão vừa tội nghiệp, lại vừa nhân hậu biết bao!.

Cảm xúc trong bà càng lúc càng cụ thể hữu hình: "Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì...". Đọc câu văn này, chúng ta có cảm giác như trái tim người mẹ khốn khổ đang rung lên đau đớn, xót xa. Cảm xúc của người mẹ hàm chứa sự so sánh giữa người ta với con mình trong hoàn cảnh dựng vợ gả chồng cho con. Lối so sánh ấy làm nổi bật không phải chỉ sự thiếu thốn, khó khăn trong gia đình bà mà dường như còn hàm chứa sự trách móc của bà với chính bản thân. Một sự ai oán cho bản thân bà ! Đó cũng chính là sự biểu hiện của sự day dứt trong lòng bà. Nhưng tất cả đều là biểu hiện của lòng nhân ái à lòng thương con rất tha thiết.

Cảm xúc xót thương còn được thể hiện qua sự lo lắng của bà hướng tới các con: "Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được con đói khát này không". Vừa tủi phận mình, vừa thương con khiến cho "trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt". Bà lão kìm nén xúc động, cố nuốt những giọt nước mắt mặn đắng vào cõi lòng vốn đã chất chứa đầy đau khổ của một đời tủi cực. Nhưng giọt nước mắt vẫn cứ lặng lẽ rỉ ra từ dôi mắt đục mờ của người mẹ già tội nghiệp. Đoạn văn không chỉ là những câu trần thuật đơn thuần mà mỗi câu văn đều rưng rức cảm xúc xót thương của tác giả.

Diễn biến câu chuyện đã lên tới đỉnh điểm. Cái sắc xảo, tinh tế trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Kim Lân được thể hiện khá đậm nét. Cả ba nhân vật đều có chung một tâm trạng căng thẳng. Tràng và người "vợ nhặt" chờ đợi người mẹ già nua lên tiếng. Bà cụ Tứ hiểu ra câu chuyện thì sự đau buồn của bà khiến cho bà lão "khẽ thở dài" vì bà muốn giấu đi nỗi buồn khổ và sự lo lắng của chính mình. Bà lão tạm thời bứt ra khỏi tâm trạng triền miên của cảm xúc suy tư để hướng về người vợ nhặt, để "đăm đăm nhìn người đàn bà" khi thị "cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt". Bà lão không chỉ nhìn người con dâu bằng thị giác mà còn hướng tới con dâu bằng cả tấm lòng. Vì thế bà lão nghĩ: "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được...". Trong suy nghĩ đó của người mẹ hướng tới hai đối tượng "người ta" và "con mình". "Người ta" trở thành người mang ơn và "con mình" là người chịu ơn. Điều đó đã chứng tỏ người mẹ già không hề coi thường, khinh bỉ người vợ nhặt, mà còn cảm thông, trân trọng, mặc dù đó là người đàn bà rách rưới, nghèo đói và không gia đình. Từ tâm tình dành cho người vợ nhặt, bà lão lại nghĩ về bổn phận người làm mẹ, để tiếp tục day dứt "chẳng lo lắng được cho con...". Bà đã phó thác, trông chờ số phận vào sự may rủi: "May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo cho hết được". Hoàn cảnh thật bi đáp khốn cùng ! Mặc dù lo lắng, mặc dù đau buồn nhưng dường như người mẹ đã chấp nhận "nàng dâu mới" tự lúc nào. Sau khi "khẽ dặng hắng một tiếng", bà lão "nhẹ nhàng" nói với "nàng dâu mới": "Ừ, thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...". Một sự chấp nhận tự nguyện của người mẹ trong tâm trạng vui mừng. Hai tiếng "mừng lòng" mà bà lão nói với các con thật chất phác, chân tình biết bao ! Lời nói mộc mạc ấy đã đem lại sự xúc động và yên tâm cho người vợ nhặt đáng thương kia. Sự chấp nhận của bà cụ Tứ khiến anh Tràng "thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi".

Bà mẹ nghèo khổ, nhân hậu đã thấu hiểu cảnh ngộ và tâm trạng của người phụ nữ xa lạ bỗng dưng trở thành "con dâu" của mình. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm ở đoạn này một lần nữa diễn tả tinh tế tâm trạng phức tạp của nhân vật bà cụ Tứ. Cảm xúc như những đợt sóng cứ cuộn lên trong lòng người mẹ, khiến người đọc xót xa. Chao ôi, người mẹ thật tội nghiệp!. Tình thương con, ý thức trách nhiệm của người mẹ khiến cho bà phải lo cưới vợ cho con bằng tất cả khả năng, dẫu chỉ là lời nói...

Khi đã nhận "nàng dâu mới" thì bà cụ Tứ tiếp tục tâm sự, từ tốn dặn dò các con mình: "Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau". Trong lời tâm sự của bà, có lời thú nhận rất chân thật là "nhà ta thì nghèo". Từ cái lí do ấy thì bà mẹ đã nhắc nhở các con "Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn". Tuy nhắc nhở vậy, bà còn động viên các con mình bằng một câu nói rất quen thuộc trong dân gian: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời?". Lời động viên đó thể hiện niềm lạc quan của người mẹ nghèo trong hoàn cảnh khốn cùng. Hơn nữa, bà lão còn gieo cho các con niềm tin vào tương lai. Quả là một
lời động viên đáng quý, giúp cho các con bà có thể vượt qua giai đoạn khó khăn này. Tâm trạng của bà cụ Tứ lẫn lộn buồn vui, lo lắng. Trong lòng bà cụ vẫn luôn ám ảnh bởi cái nghèo, cái khổ khiến cho bà lão "đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài".

Trong lòng bà còn ám ảnh bởi cả sự bất hạnh về thân phận của bà. Bởi vậy, trong kí ức của bà lão "nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình". Tất cả đã hiện về như một cuốn phim dài bất tận, như một tấn bi kịch của cuộc đời bà. Từ những cảm xúc đó, tâm trạng lo lắng lại một lần nữa hiện về trong bà, bà lo cho các con: "Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...". Mặc dù lo lắng nhưng bà vẫn cố gắng gần gũi với người con dâu bằng lời mời thân mật: "Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân". Lời mời ấy đã rút ngắn khoảng cách giữa người mẹ và "con dâu" và cũng đã an ủi người "vợ nhặt" ít nhiều. Lời mời của người mẹ thể hiện tình thương, sự chấp nhận "nàng dâu mới" của bà. Nổi bật hơn cả vẫn là tấm lòng thương xót của
bà cụ Tứ với người con dâu mới: "Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ đã là con dâu trong nhà rồi". Bà lão tiếp tục tâm sự với người vợ nhặt bằng những lời thân mật: "Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...".

Trong lời nói của bà cụ chứng tỏ bà là người rất hiểu đời và hiểu người. Bà hiểu rằng khi cưới xin cho con thì phải có vài ba mâm cỗ trước trình tổ tiên, ông bà, sau mời làng, mời xóm. Bà cũng hiểu được lòng người, hiểu được sự bao dung của mọi người, họ sẽ thông cảm cho cảnh nghèo của bà mà không chấp nhặt, tính toán. Bà cũng hiểu ra đạo lí tạo nên gắn kết vợ chồng chính là sự hòa thuận. Nói đến đây thì bà cụ "nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng". Những giọt nước mắt của bà cụ Tứ chất chứa bao tình thương hướng tới các con. Giọt nước mắt của bà là biểu hiện của tấm lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo. Nó rất đáng quý hơn bao những vật chất tầm thường mà bà giành cho các con.

Tâm trạng của bà cụ Tứ vào chiều hôm trước là sự đan xen cảm xúc lo lắng, vui mừng, xót xa, buồn tủi, thế nhưng vào buổi sáng của ngày hôm sau, thì tâm trạng bà luôn tràn ngập một niềm vui. Niềm vui ấy được thể hiện trên khuôn mặt của người mẹ: "bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cai mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Niềm vui còn được thể hiện qua hành động của bà: "xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa" với ý nghĩ "thu xếp của nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn". Bà không vui sao được khi con trai bà đã thành gia thất. Bà cũng vơi đi một mối lo âu bấy lâu cứ canh cánh bên lòng và trong bữa ăn đầu tiên của ba mẹ con, dẫu chỉ có "rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo" nhưng bà "toàn nói chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này". Câu chuyện người mẹ già kể cho các con vào bữa cơm đầu tiên sau ngày cưới, mặc dù đó vẫn chỉ là chuyện làm ăn, chuyện gia cảnh nhưng trong câu chuyện của bà không còn có quá khứ mà chỉ có tương lai. Câu chuyện của bà thật giản dị ! Đó là chuyện mua gà, nuôi gà, có đàn gà con mà người mẹ nói với Tràng: "Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà con mà xem...". Chính câu chuyện vui của bà mẹ đã làm cho cuộc sống trở nên vui vẻ và đầm ấm hơn rất nhiều. Tuy vậy, trong bữa ăn càng lúc càng trở nên nghèo nàn khiến cho "câu
chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn". Thế nhưng, bà lão lại "lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút" và bà lão khen "chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Dường như bà lão cố xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng quên đi tình cảnh khốn khổ bằng thái độ tươi tỉnh. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy là tấm lòng người mẹ đang thổn thức lo âu. Bà lão "đãi" nàng dâu mới món ăn đặc biệt gọi là "cháo khoán", nấu bằng cám, khen "ngon đáo để" và so sánh "xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy". Qua đó, bà động viên các con, để các con bà có thêm sức mạnh tinh thần để vượt qua "tao đoạn" ngặt nghèo, khó khăn này. Chi tiết này làm cho chúng ta cũng phải cảm động rơi lệ bởi tình thương, tấm chân tình đáng quý của bà.

Kết lại đoạn văn là giọt nước mắt của người mẹ nhưng bà lão "ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc".

Cái tài của Kim Lân là cứ nhẹ nhàng mà luồn lách ngòi bút động đến nơi sâu thẳm của tâm hồn. Ông đã diễn tả thật sâu sắc và tinh tế tâm lí của bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ mà hiểu biết, yêu thương con hết lòng và yêu thương cả những mảnh đời oái oăm, tội nghiệp bằng một tấm lòng nhân ái sâu xa. Bà đã cố gắng xua đi cái ám ảnh đen tối đáng sợ của thực tại và nhen núm niềm tin, niềm vui cho các con. Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ vì đói khát ấy vẫn nung nấu một ý chí sống mãnh liệt.

Trong văn học Việt Nam, ngoài tình phụ tử như của Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao thì tình mẫu tử trong đoạn trích "Trong lòng mẹ" của nhà văn Nguyên Hồng thật đáng chân trọng. Người mẹ vì phải thoát khỏi cổ tục nghiệt ngã mà tha hương cầu thực nhưng vẫn yêu thương, hi sinh vì con mình. Hay người đàn bà hàng chài không tên trong tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu là người mẹ phải chịu sự hành hạ, đánh đập dã man của người chồng nhưng lại giàu tình thương, lòng bao dung, vị tha, giàu đức hi sinh, luôn sống vì con, hi sinh cho hạnh phúc của con. Và bà cụ Tứ cũng là một người mẹ nhân hậu, giàu đức hi sinh, hết lòng yêu thương con.

Qua truyện ngắn "Vợ nhặt", nhà văn Kim Lân đã dựng lên hình ảnh chân thực và cảm động về một người mẹ nghèo khổ hết lòng vì con. Ngòi bút tinh tế, sắc xảo của tác giả đi sâu phân tích diễn biến tâm lí phức tạp của bà cụ Tứ và thể hiện qua từng lời nói, ánh mắt, trong suy nghĩ, hành động và sự lo xa cho tương lai các con. Phải là người có vốn sống phong phú, thấu hiểu và thông cảm, yêu mến và chân trọng những người nghèo khổ thì Kim Lân mới có thể diễn tả một cách chân thực và tài tình đến vậy.

Truyện ngắn "Vợ nhặt" không đơn thuần là những trang văn mà là những trang đời thấm đẫm nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nỗi lo cho hiện tại và le lói niềm tin vào tương lai của bà mẹ nghèo. Hình ảnh bà cụ Tứ khiến người đọc rung động sâu sắc trước tấm chân tình tha thiết của người mẹ già. Người mẹ già ấy chính là ánh sáng le lói trong bối cảnh bi thảm của những kiếp người nghèo khổ. Nhân vật bà cụ Tứ đã làm cho giá trị nhân đạo của tác phẩm trở nên thấm thía, cảm động hơn rất nhiều. Bà cụ Tứ đã đọng lại trong lòng người đọc bao suy nghĩ và rung động sâu xa

Trên đây là một số dàn ý và bài văn phân tích chi tiết diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt. Hy vọng với những nội dung được chọn lọc và sưu tầm này sẽ giúp ích cho bạn trong quá trình tìm hiểu tác phẩm bạn nhé!

Tears in Heaven