Đơn vị quân đội là hình thức biên chế một tập thể binh lính thành từng nhóm đặc biệt, có tổ chức. Tùy theo số lượng, các đơn vị có thể rất nhỏ như tiểu đội (9-10 lính) cho đến rất lớn như Cụm tập đoàn quân (lên đến hơn 80 vạn quân). Việc biên chế đơn vị này hết sức quan trọng trong quân đội, vì đây là cơ sở trong bố trí chiến thuật, chiến lược, triển khai công việc phục vụ mục đích. Tuy vậy, rất nhiều người đã và đang không rõ về các đơn vị trong quân đội. Vậy bài viết này sẽ cung cấp cho các bạn những thông tin đầy đủ và dễ hiểu nhất cho các bạn. Mời các bạn đón đọc.
6 Trung đoàn
Trung đoàn (tiếng Anh: Regiment) là một đơn vị trong quân đội có quy mô nhỏ hơn sư đoàn nhưng lớn hơn tiểu đoàn, thường gồm hai đến năm tiểu đoàn, được chỉ huy bởi một đại tá hay trung tá. Tùy theo từng nước và nhiệm vụ, một trung đoàn hiện đại có thể tương tự như một lữ đoàn. Quy mô của cả trung đoàn và lữ đoàn từ 1.000 đến 3.000 lính, tùy theo nhánh và cách thức tổ chức. Các trung đoàn và các lữ đoàn hợp lại thành sư đoàn.
Một trung đoàn bộ binh của Quân đội Nhân dân Việt Nam (ký hiệu là e; ví dụ: e102/f308) bao gồm:
- Trung đoàn bộ: chỉ huy trung đoàn, các bộ phận vệ binh, trinh sát, thông tin liên lạc
- 3 tiểu đoàn bộ binh
- 3 đại đội hỏa lực: chống tăng, cối, phòng không
- Một số đại đội công binh, quân y, thông tin,...
Tổng quân số trung đoàn bộ binh khoảng 1500 đến 3000 người.
Trung đoàn tăng thiết giáp thường gồm 2-4 tiểu đoàn chiến đấu, 1 tiểu đoàn kỹ thuật hậu cần (bao gồm kỹ thuật xe máy, xăng dầu, quân khí, đạn dược quân nhu), 1 đại đội công binh cầu phà, từ 60 đến 80 xe tăng thiết giáp. Nếu tác chiến trên một hướng hoặc 1 địa bàn độc lập, một trung đoàn xe tăng được biên chế bổ sung từ 2 đến 3 đại đội hoặc 1 tiểu đoàn phòng không.
Trung đoàn pháo binh, cao xạ thường gồm 2-3 tiểu đoàn, từ 24-36 khẩu.
Trung đoàn tên lửa đất đối không gồm 4 tiểu đoàn hỏa lực và 1 tiểu đoàn kỹ thuật, từ 12 đến 24 dàn phóng, 24 đến 48 đạn trên bệ và 1 đến 2 cơ số đạn dự trữ.
Trung đoàn chiến đấu của Không quân Nhân dân Việt Nam gồm 3 đến 5 đại đội bay, 1 tiểu đoàn chỉ huy, dẫn đường và đảm bảo tác chiến điện tử, 1 tiểu đoàn kỹ thuật, 1 tiểu đoàn hậu cần, từ 20 đến 30 máy bay chiến đấu.
7 Lữ đoàn
Lữ đoàn (tiếng Anh:brigade) là một đơn vị biên chế của quân đội, thấp hơn cấp sư đoàn, cao hơn cấp tiểu đoàn, ngang cấp trung đoàn nhưng thường đông hơn với quân số từ 3500 đến 9000 tùy theo quân đội từng nước.
Lữ đoàn trong quân đội nhân dân Việt Nam thường bao gồm các lữ đoàn bộ binh và lữ đoàn binh chủng.
+ Lữ đoàn bộ binh đủ quân có quân số chiến đẩu khoảng 3.500 người. Trong lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam, ít tổ chức biên chế lữ đoàn bộ binh, chỉ có một số đơn vị từng tồn tại như Lữ đoàn 52 (quân khu 5), lữ đoàn 82 (quân khu 2)....Trong một số trường hợp, trung đoàn bộ binh được biên chế thêm 1 tiểu đoàn và một số đơn vị binh chủng để trở thành lữ đoàn. Đến nay, hầu hết các lữ đoàn bộ binh thông thường đã giải thể. Trong tổ chức của Hải quân và Quân khu, có một số đơn vị cấp lữ đoàn hỗn hợp thành phần cả bộ binh, pháo binh, ra đa, phòng không. thiết giáp được tổ chức để bảo vệ vùng hải đảo, đổ bộ bờ biển như lữ đoàn 950 quân khu 9 bảo vệ Phú Quốc, Lữ đoàn 242 của quân khu 3 bảo vệ vùng quần đảo Đông Bắc, Lữ đoàn 146 của Hải Quân bảo vệ Trường Sa, Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 147, 101. Tổ chức của lữ đoàn bộ binh thông thường bao gồm:
- Lữ đoàn bộ: Bộ Chỉ huy lữ đoàn (5 người: Lữ đoàn trưởng, Chính ủy, 2 Lữ đoàn phó, 1 Phó Chính ủy). Các phòng trực thuộc: Tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật. Khác với cấp sư đoàn, Phòng trực thuộc Lữ đoàn chỉ có các trợ lý, không tổ chức thành các Ban
- 4 tiểu đoàn bộ binh
- 1 tiểu đoàn pháo, thông thường là hỏa lực mang vác.
- 1-2 đại đội súng máy phòng không đến 1 tiểu đoàn phòng không
- Có thể biên chế thêm 1 đại đội - 1 tiểu đoàn tăng - thiết giáp
- Các đại đội binh chủng đảm bảo chiến đấu: công binh, thông tin, trinh sát, quân y, vệ binh, vận tải
+ Lữ đoàn binh chủng thường bao gồm 3-4 tiểu đoàn chiến đấu, 1-2 tiểu đoàn kỹ thuật phục vụ chiến đấu. Hầu hết các đơn vị binh chủng trực thuộc quân chủng, quân khu, quân đoàn, binh chủng đều được tổ chức thành cấp lữ đoàn. Tuy nhiên, một số đơn vị binh chủng tuy mang phiên hiệu lữ đoàn, nhưng thực chất biên chế tổ chức chỉ như 1 trung đoàn như Lữ đoàn hóa học 86. Tổ chức 1 lữ đoàn tăng thiết giáp gồm 80-100 xe, Lữ đoàn pháo binh, cao xạ gồm 4-5 tiểu đoàn, 40-50 khẩu.
8 Sư đoàn
Sư đoàn (tiếng Anh:division) là một đơn vị có quy mô tương đối lớn trong quân đội, nhỏ hơn quân đoàn, lớn hơn trung đoàn thường có khoảng mười ngàn đến hai mươi ngàn lính. Trong lục quân các nước một sư đoàn bao gồm các trung đoàn hay các lữ đoàn. Các sư đoàn lại tạo thành một quân đoàn. Trong chiến tranh hiện đại, một sư đoàn thường là các đơn vị chiến đấu hợp thành lớn nhất có khả năng tác chiến độc lập, tự cung cấp, đảm bảo cho các hoạt động của mình.
Sư đoàn trong Quân đội Nhân dân Việt Nam
- Sư đoàn bộ binh cơ giới
Gồm 3 trung đoàn bộ binh cơ giới, 1 trung đoàn pháo binh, 1 trung đoàn phòng không, 1 tiểu đoàn xe tăng, 1 tiểu đoàn pháo phản lực và các tiểu đoàn công binh, thông tin, trinh sát, vận tải....
- Sư đoàn Không quân
Tương đương với Liên đoàn bay (Group) của Anh, Không đoàn bay (Wing) của Mỹ.
Sư đoàn không quân gồm một số trung đoàn không quân.
- Sư đoàn Phòng không
Sư đoàn phòng không gồm một số trung đoàn cao xạ và tên lửa đất đối không
9 Quân đoàn
Quân đoàn (tiếng Anh: Corps) là một đơn vị có quy mô lớn trong quân đội trên cấp sư đoàn và dưới cấp tập đoàn quân, một đơn vị của lục quân bao gồm các đơn vị binh chủng hợp thành (như pháo binh, bộ binh, tăng - thiết giáp,...) hoặc là một bộ phận, một nhánh của quân đội (như Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ hay còn gọi là Quân đoàn Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, hay Thủy quân lục chiến Hoàng gia Anh). Quân đoàn là cấp cao nhất trong phân cấp của QĐNDVN.
QĐND Việt Nam có các Quân đoàn chủ lực 1, 2, 3 và 4. Mỗi Quân đoàn có 3-5 sư đoàn bộ binh và các đơn vị thiết giáp, công binh, pháo binh, phòng không, thông tin. Bài viết điểm lại lịch sử phát triển của Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4.
Sau Quân đoàn chủ lực 1 và 2, các Quân đoàn 3 (hay còn gọi là Binh đoàn Tây Nguyên) và Quân đoàn 4 (hay còn gọi là Binh đoàn Cửu Long) lần lượt được thành lập vào năm 1974 và 1975
Trong lục quân nhiều nước, quân đoàn được hợp thành từ các sư đoàn, thường gồm hai đến năm sư đoàn, được chỉ huy bởi một thiếu tướng hay một trung tướng. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai, do phạm vi hoạt động rộng lớn của chiến trường, các quân đoàn được kết hợp ở trong các đơn vị lục quân, tạo thành các tập đoàn quân. Trong khối NATO, số của một quân đoàn có thể dùng các số La Mã để biểu thị (ví dụ Quân đoàn XXX, Quân đoàn XX), trong khi số của một sư đoàn thường viết bằng các số Ả Rập (ví dụ Sư đoàn Bộ binh số 4 của Hoa Kỳ). Một số nước có cách ký hiệu khác.
10 Quân đội nhân dân Việt Nam
Bài hát Vì nhân dân quên mình - bài hát truyền thống của QĐNDVN
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Nhà nước Việt Nam xem đây là quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, sẵn sàng chiến đấu hy sinh "vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân". Ngày truyền thống là ngày 22 tháng 12 hàng năm. Quân kỳ của Quân đội nhân dân Việt Nam là quốc kỳ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thêm dòng chữ "Quyết thắng" màu vàng ở phía trên bên trái. Theo Mười lời thề danh dự của quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam thì Quân đội nhân dân Việt Nam có nhiệm vụ không ngừng nâng cao tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa, tinh thần quốc tế vô sản, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Tên gọi "Quân đội nhân dân" là do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt với ý nghĩa "từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ". Quân đội nhân dân Việt Nam thường được viết tắt là Quân đội nhân dân hoặc Quân đội nhân dân Việt Nam. Việc lấy tên là "Quân đội nhân dân" với mục đích thể hiện đây là đội quân có nguồn gốc nhân dân, bảo vệ tính mạng, tài sản và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ nền độc lập thống nhất và bản sắc dân tộc.[4] Tên gọi qua các thời kỳː[5]
- Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tháng 12 năm 1944)
- Việt Nam Giải phóng quân (tháng 5 năm 1945)
- Vệ quốc đoàn (tháng 11 năm 1945)
- Quân đội Quốc gia Việt Nam (tháng 5 năm 1946)
- Quân đội nhân dân Việt Nam (Từ năm 1950, chính thức từ tháng 9 năm 1954).
Khẩu hiệu của Quân đội nhân dân Việt Nam là:
“Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.”
Previous post
next post
bài viết cùng người đăng