Thông báo mới! TOP SHARE

Top 15 bài văn mẫu phân tích tác phẩm Tràng giang hay nhất mà các bạn học sinh không thể bỏ qua

  • 757 views
  • 11 likes
  • Add Favorite
  • Be a liked
  • Báo lỗi
  • Tài trợ

by Toàn Trần 02-08-2023

Dòng sông từ lâu đã trở thành một đề tài quen thuộc trong thi ca Việt Nam. Từ văn học trung đại đến văn học hiện đại với mỗi thời kỳ dòng sông lại mang trên mình những dáng vẻ riêng biệt. Và đến với giai đoạn Thơ Mới ta lại bắt gặp một dòng sông hiền hoà, thơ mộng nhưng lại vắng vẻ, đìu hiu gợi nên một nỗi buồn, nỗi cô đơn qua bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận. Bài thơ là tiếng lòng không chỉ của nhà thơ mà còn là của cả một lớp tri thức trẻ thời bấy giờ. Để có thể hiểu hơn về bài thơ cũng như có thêm ý tưởng phân tích dưới đây là top 15 bài mẫu phân tích tác phẩm “Tràng giang” hay nhất mà các bạn học sinh không thể bỏ qua.

11 Bài văn phân tích Tràng giang - Bài mẫu 11
Vote
0%

11

by Toàn Trần 02-08-2023

Mỗi ai khi đi xa đều mang trong mình chút hình chút bóng thân thương của dòng sông quê hương. Đặc biệt đối với các nhà thơ, nhà văn, dòng sông quê luôn là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn, thôi thúc các nhà thơ không thể kìm lòng mà phải viết. Một dòng sông “nước gương trong soi tóc những hàng tre” trong thơ Tế Hanh, một con sông Đà trong tùy bút Nguyễn Tuân, một dòng sông Hương êm đềm trong văn Hoàng Phủ… Và chỉ khi đến với “Tràng giang” của Huy Cận, ta mới thấy hết được những gì đẹp nhất, thơ nhất nhưng cũng chứa chan tình quê trong cảm thức của tác giả.

Mang trong mình cả cái tài, cái tâm lẫn cái tầm, Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn. Tuy am hiểu nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại, hồn thơ ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Suối nguồn thơ ca truyền thống đã rót vào tâm hồn Huy Cận những giai điệu du dương, khiến cho tiếng thơ – những khi đạt đến độ thuần thục – rất dễ đi vào lòng người. Thể thơ lục bát truyền thống, thể thơ năm chữ của dân ca Nghệ Tĩnh – trong tay Huy Cận – vừa mộc mạc chân tình vừa lắng đọng, hàm súc; sắc thái biểu hiện được phát huy rõ rệt. Chất suy nghĩ bàng bạc khắp các tứ thơ.

Hình ảnh thơ Huy Cận thường không sắc sảo, gây ấn tượng mạnh mà thâm trầm, khơi gợi; như len nhẹ, như ngấm sâu vào tâm hồn và trí tuệ người đọc. Những bức tranh thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường rất ít đường nét, giản ước theo bút pháp cổ điển, gợi nhiều hơn tả. Do đó, có thể nói: ấn tượng không gian có được – trước hết – nhờ phong vị Ðường thi. Nhà thơ Xuân Diệu có lần từng nhận xét: “Thơ viết về đất nước, thiên nhiên và quê hương là một điểm mạnh của Huy Cận. Dường như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc sâu xa, cao đẹp nhất của tâm hồn mình”. Và “Tràng giang” đã thể hiện sâu sắc điều đó.

“Tràng giang” là bài thơ tuyệt bút in trong tập “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Theo tác giả cho biết, vào một buổi chiều thu 1939, khi còn là sinh viên trường Đại học Canh nông, Huy Cận đứng ở bờ nam bến Chèm, ngắm dòng sông Hồng mênh mông, lòng dào dạt xúc động mà viết bài thơ này. Đó là những cảm nhận về tràng giang và một nỗi buồn man mác dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ đứng trước cảnh: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Có thể nói nhan đề của một bài thơ chính là cửa ngõ, là điểm xuất phát để người đọc có thể lần mò theo đó khám phá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Và bài thơ “Tràng giang” cũng vậy, ý nghĩ, nỗi niềm thầm kín được gửi trọn trong nhan đề vẻn vẹn hai từ “Tràng giang”.

“Tràng giang” hay còn gọi là “trường giang” là một từ hán việt ý chỉ con sông dài. Nhưng tác giả lại lấy tên “Tràng giang” chứ không phải “Trường giang”. Bởi vốn dĩ “Trường giang” chỉ có ý nghĩa chỉ con sông dài đơn thuần như thế; nhưng ngược lại “Tràng giang” vừa nói con sông dài mênh mông, vừa nói lên tâm trạng, nỗi niềm của chính tác giả. Vần “ang” kéo dài ra như nỗi niềm của Huy Cận chưa bao giờ vơi khi đứng trước con sông rộng lớn mênh mông này.

Bước vào thế giới của Tràng giang, ta như lạc vào một miền sông dài trời rộng đầy cuốn hút:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Câu thơ đầu mở ra với sóng. Không ồn ào, mạnh mẽ mà là “sóng gợn”. Động từ “gợn” vừa miêu tả tư thế, vừa miêu tả tâm thế. Bởi lẽ, “gợn” trước hết gợi đến những chuyển động vô cùng nhỏ, chậm rãi của sóng. Tuy là một động từ nhưng thực chất “gợn” gợi ra cái không khi tĩnh lặng, im ắng của thiên nhiên sông nước. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh của nhà thơ sao thật tài tình. Chi tiết hé mở hoàn cảnh thiên nhiên, nhưng cũng mở ra không gian tâm trạng của nhà thơ. Ta thấy ở đó tâm thế của một con người mang trong mình sự sâu lắng, mà cũng đượm buồn.

Sóng không chỉ là sóng sông mà còn là sóng lòng, sóng tâm đang nhẹ nhàng từng gợn nhỏ, thấm cái “buồn điệp điệp” toát ra từ cảnh và dội vào lòng thi nhân. Từ láy "điệp điệp” không chỉ vẽ lên những đợt sóng gợn liên hồi của sông nước mà còn là dòng sông tâm trạng của nhà thơ, sóng lòng từng đợt từng đợt cuộn vào nhau. Đặc biệt hơn, ngay ở câu đầu, tác giả đã nhắc lại nhan đề bài thơ không phải không có dụng ý. “Tràng giang” là con sông vừa dài vừa rộng, gợi ra không gian rộng lớn, choáng ngợp. Đặt giữa cái nền ấy là một con người lẻ bóng, nhỏ nhoi đang đưa cặp mắt buồn theo mấy con sóng lăn tăn tít tắp đến tận chân trời.

Điều này càng tô đậm thêm nỗi lòng của Huy Cận, một thi sĩ sẵn sàng buồn mọi lúc mọi nơi. Nỗi buồn của người lữ thứ dừng chân trên quán chật đèo cao, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn, buồn khi nắng xuống, khi chiều lên, thậm chí là buồn khi không còn thấy những dấu chân trên đường.

Nếu như câu thơ đầu chập chùng sóng vỗ thì đến những câu tiếp theo đã thấp thoáng bóng dáng của con thuyền. “Con thuyền xuôi mái nước song song” hay cũng chính là con thuyền trôi vô định, trôi song song dòng nước, cho con sóng đưa đi. Hình ảnh đó gợi cho tôi một tâm thế buông xuôi, phó mặc cho dòng đời, sự đời đưa đẩy của thi nhân. Cùng với nỗi “buồn điệp điệp” trên, câu thơ càng làm sáng tầng ý nghĩa sâu sắc này.

Có thể nói, câu thơ thứ ba là một sáng tạo tài tình của tác giả. Theo lẽ thường, nước đẩy, thuyền trôi. Thuyền trôi theo dòng nước. Nói cách khác, thuyền và nước không bao giờ tách rời nhau, ngược chiều nhau. Nhưng với Huy Cận thì “thuyền về, nước lại”. Hai thế đối lập gợi ra cái vô lí trong logic nhưng thực chất, xét ở bề sâu, bề sau, bề xa, ta càng hiểu được hơn nỗi lòng của người lữ khách miền sông nước.

Phải chăng đó là mặc cảm chia lìa trong cảm nhận của Huy Cận khi đứng trước sông dài trời rộng? Cũng như Hàn Mặc Tử khi còn nằm trên giường bệnh, nhìn ra xa mà thấy “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Đó là nỗi buồn đầy ám ảnh trong mặc cảm chia li. Thế nên Huy Cận “sầu trăm ngả”. Nỗi sầu to lớn mà không gì có thể bù đắp được.

Toàn bộ nỗi lòng của nhà thơ cuối cùng được kết đọng cả trong hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng”. Thơ ca từ cổ chí kim, nỗi buồn được cắt nghĩa dưới vô vàn hình hài góc cạnh khác nhau. Có cái nỗi buồn khi thấy “cây ngô đồng, vàng rơi vàng rơi thu mênh mông” (Bích Khê), có cái nỗi buồn trước “rặng liễu đìu hiu” (Xuân Diệu), lại có cái buồn khi nghe thấy tiếng gà gáy não nùng trong thơ Lưu Trọng Lư. Nhưng có lẽ, buồn trước một cành củi khô thì chưa bao giờ xuất hiện trong kho tàng văn học Việt Nam. Củi chỉ những kiếp người nhỏ bé, bất hạnh, cũng trôi lênh đênh vô định trong dòng chảy của cuộc đời. Vậy nên, “củi một cành khô lạc mấy dòng” là điều không thể tránh khỏi.

Khổ thứ hai tiếp tục cái mạch thơ của khổ đầu:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Điều đầu tiên gây ấn tượng trong lòng độc giả là phép đảo ngữ. Từ láy “lơ thơ” được đặt lên đầu câu, nối tiếp sau đó là “cồn nhỏ gió đìu hiu”. Một câu mà xuất hiện liên tiếp ba tính từ chỉ sự xơ xác, nhỏ bé, lẻ loi của tạo vật. Đìu hiu, hay cũng chính là cái buồn không ai chia sẻ đang dậy sóng trong tác giả.

Thay vì là bức tranh thiên nhiên như khổ một, khổ thơ thứ hai lại tái hiện cuộc sống sinh hoạt hàng ngày mà tiêu biểu nhất là hình ảnh chợ chiều thời điểm vãn. Chợ vốn dĩ miêu tả cảm giác đông đúc, ấm no, tràn đầy sức sống, đúng như Nguyễn Trãi từng miêu tả: “Lao xao chợ cá làng Ngư Phủ”. Đủ để thấy cái vui tươi nhộn nhịp của một phiên chợ. Huy Cận không như thế, ông chọn cho mình thời điểm vãn chợ như một tín hiệu nghệ thuật đặc sắc. Chợ vãn là khi “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía…” (Thạch Lam). Chi tiết gợi ra cái hoang tàn, xơ xác, hiu quạnh, heo hút của làng quê miền sông nước, cũng là gợi mở cái buồn vô hạn trong lòng thi nhân.

Hai câu cuối là một sáng tạo nghệ thuật tiêu biểu cho cái hồn thơ đậm phong vị Đường thi của Huy Cận. Câu trước, câu sau đối nhau, niêm luật sử dụng chặt chẽ cùng các động từ, tính từ đối nhau từng cặp: lên – xuống, dài – rộng như mở thêm cho không gian. Sông nước đã rợn ngợp nay càng rộng lớn hơn nhiều lần. Sông nước mở ra theo chiều cao, chiều sâu, chiều dài, chiều rộng. Không gian như đang giãn nở từ từ theo mọi chiều kích. Đọc câu thơ ta thấy như mọi vật đang chuyển động ra xa hơn, cao hơn, rộng hơn, sâu hơn. Và ở chính giữa bức tranh ấy, ta thấy tâm điểm vẫn là bóng dáng nhỏ bé tưởng chừng đơn độc, hiu quạnh giữa vũ trụ. Nỗi buồn, nỗi sầu của thi nhân vì thế mà nhân lên gấp bội lần.

Khổ thơ thứ ba vẫn tiếp tục mạch cảm xúc về sự hờ hững, mất hết liên lạc giữa các sự vật. Con mắt nhà thơ nhìn vào bèo, những sinh thể nhỏ nhoi, yếu đuối giữa mặt nước mênh mông.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Cảnh mênh mang, buồn bã, trống vắng của Tràng giang được nhân lên mấy lần phủ định. Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ, là biểu hiện của sự giao nối của con người và cuộc sống, thường gợi lên không khí tấp nập, thân tình, gợi nhớ quê hương: “Chiếc cầu là nơi hò hẹn của đôi ta - Đêm trăng sáng trên cầu anh thổi sáo - Đêm trăng sáng chân cầu em giặt áo - Nhịp cầu nối những bờ vui” (Nhịp cầu nối những bờ vui). Nhưng ở đây, không một chiếc cầu bắc nối đôi bờ, nghĩa là tuyệt nhiên không một dấu vết của sự sống hay một cái gì gợi đến tình người, lòng người muốn gặp gỡ lại qua đôi bờ hoang vắng.

Hai bờ sông cứ thế chạy dài về phía chân trời như hai thế giới cô đơn, xa lạ, không bao giờ gặp nhau, không chút niềm thân mật của những tâm hồn đồng điệu. Cảnh "tràng giang" nay chỉ còn “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Bức tranh thật đẹp nhưng tĩnh lặng và buồn đến nao lòng.

Trên mặt nước ấy xuất hiện hình ảnh cánh bèo lẻ loi, đơn độc, gợi đến thân phận “cánh bèo mặt nước” (Nguyễn Du), sự tan tác, chia lìa, phiêu bạt:

Phận bèo bao quản nước sa

Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh

(Nguyễn Du)

Câu thơ cho ta thấy: Bèo dạt hoa trôi trên dòng tràng giang hay cũng chính là kiếp trôi nổi của con người trong dòng thời gian. Cả bốn câu, mỗi câu một nỗi buồn riêng, kéo nhau như sóng gợn trong lòng Huy Cận.

Không nhìn dòng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

Trong thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ nói về buổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này không có tác dụng hô ứng cho nhau như trong thơ cổ, mà chúng còn có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong buổi chiều muộn, nhưng từng lớp, từng lớp mây trên cao kia vẫn chất chồng lên nhau, tạo thành những núi bạc, nổi bật trên nền trời xanh trong. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết bao! Đó không phải đám mây cô đơn lững lờ trôi giữa tầng không khi chiều về như trong thơ của Hồ Chí Minh. Mây ở đây chất chồng, ánh lên trong nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa trời đất bao la, tựa như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa đất trời này.

Đặt cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập, đã tô đậm thêm nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả không gian:

Lòng quê dờn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

“Lòng quê” hay cũng chính là hồn quê, tình quê trong lòng thi nhân, sự hướng tâm chứ không chỉ đơn thuần là tấm lòng chất phác, quê mùa. Hai từ “dờn dợn” cho ta cảm nhận sóng biển đang ở bên ta, sóng biển cũng biết nhớ thương hay tác giả đang nhớ thương vậy? Hai từ “dờn dợn “còn gợi cho ta thấy được sự lên xuống uốn lượn của sóng biển hay nỗi nhớ trào dâng của nhà thơ khi đứng trước cảnh hoang vắng của một buổi chiều tà. Và nỗi nhớ ấy không chỉ một lần mà là liên tục, nhiều lần nhưng nỗi ấy mới chỉ là “dờn dợn” mà chưa phải là cuồng nhiệt. Câu thơ muốn nói lên lòng nhớ quê hương khi tác giả đứng trước sông nước rợn ngợp.

Câu thơ cuối cùng kết lại toàn bài. Đó chính là điểm nhấn sâu sắc nhất, đóng lại tư tưởng, tình cảm của bài thơ. “Không khói hoàng hôn” nghĩa là không một yếu tố ngoại cảnh nào tác động trực tiếp đến thi nhân nhưng tại sao nhà thơ vẫn nhớ nhà?

Đặt trong thơ ca từ cổ chí kim, Thôi Hiệu đã từng bày tỏ nỗi hoài hương của mình thế này: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” (Hoàng Hạc Lâu). Trước cảnh mà dâng trào nên tình nhớ. Còn ở phần phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận, ta lại thấy không một chút gợi nhớ nhưng tấm lòng nhà thơ vẫn hướng về quê cha đất tổ. Đủ để thấy cái tình quê ấy nó đậm đà biết nhường nào. Đặt trong hoàn cảnh ra đời bài thơ, Huy Cận đứng trước dòng sông quê hương mà vẫn nhớ quê hương, thâm trầm nhưng sâu sắc. Tình cảm ấy, tấm lòng ấy, mấy ai sánh kịp?

Dưới hình thức một bài thơ đậm phong vị Đường thi, kết cấu mạch lạc và cái tài sáng tạo ngôn ngữ, hình ảnh của tác giả, bài thơ hiện lên như một bản hòa ca mà ở đó, các nốt nhạc đều hợp sức tấu lên khúc ca yêu thiên nhiên, đất nước. Nhà phê bình Phan Cự Đệ có lần từng nhận xét: “Các nhà lãng mạn gửi gắm vào trong thơ một tấm lòng tha thiết yêu thiên nhiên đất nước và một sự nâng niu đối với tiếng Việt, lúc bấy giờ bị xem như tiếng mẹ ghẻ, tiếng con đòi…

Tiếng nói trong Thơ mới là tiếng mẹ đẻ yêu thương, phong cảnh trong Thơ mới chính là đất nước Việt Nam mĩ lệ với những vẻ đẹp riêng của từng vùng quê hương (“Quê hương” của Tế Hanh, “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, “Đà Lạt đêm sương” của Quách Tấn, “Chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp, “Chiều xuân” của Anh Thơ…). Cho nên ta có thể dễ dàng thống nhất với Xuân Diệu khi anh viết: “Tràng giang” là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.

Thời gian có thể phủ bụi một số thứ. Nhưng có những thứ càng rời xa thời gian, càng sáng, càng đẹp. “Tràng Giang” của Huy Cận là một bài thơ như thế. Cùng với tấm lòng chan chứa tình yêu quê hương đất nước của nhà thơ, thi phẩm sẽ còn sống mãi với chúng ta cho đến tận muôn đời.

12 Bài văn phân tích Tràng giang - Bài mẫu 12
Vote
0%

11

by Toàn Trần 02-08-2023

Hoài Thanh đã có một nhận định về các nhà thơ mới năm 1930: “Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Mỗi nhà thơ đều có một phong cách riêng làm nên nét độc đáo riêng của mình. Huy Cận là một nhà thơ xuất sắc với lời thơ đượm buồn một nỗi sầu nhân thế. Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ đắc sắc và thể hiện rõ nỗi sầu nhân thế của Huy Cận lúc bấy giờ.

Huy Cận là một trong số những nhà thơ mới trong giai đoạn 1930- 1945. Nếu như Xuân Diệu say đắm trong trường tình thì Huy Cận lại chìm đắm trong nỗi sầu của nhân thế. Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ tiêu biểu và đặc sắc nhất được trích trong tập “Lửa thiêng” (1940). Huy Cận sáng tác bài thơ khi đang đứng ở bờ Nam bến Chèm của sông Hồng, nhìn ngắm cảnh thiên thiên sông nước suy ngẫm về cuộc đời mình mà “tức cảnh sinh tình”. Bài thơ thể hiện sâu sắc vẻ đẹp thiên nhiên cũng như nỗi buồn nhân thế của tác giả.

Ngay từ đầu bài thơ Huy Cận đã đưa chúng ta đến với một nét đẹp cổ điển mà ít ai có, chỉ khi đến với Hay Cận chúng ta mới cảm nhận được. Đó là cách đặt tên nhan đề bài thơ, “Tràng Giang” là sông lớn, sông dài. Nhưng tại sao ở đây tác giả không dùng “Trường Giang” mà lại là “Tràng Giang”? “Tràng Giang” điệp vần “ang” tạo nên một âm thanh vang xa, đồng thời cũng thể hiện một nỗi buồn trải dài xuyên suốt cả bài thơ. “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” lời đề từ cũng đã mở rộng ra trước mắt chúng ta một không gian rộng lớn “trời rộng, sông dài”, một nỗi buồn da diết “bâng khuâng”.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”.

Đến với khổ thơ thứ nhất, chúng ta bắt gặp được những hình ảnh mang tính cổ điển, chỉ có ở trong thơ cổ mới có: “trường giang”, “con thuyền”, “củi một cành khô”…Mở ra cho chúng ta một không gian rộng lớn, “điệp điệp” gợi ra không gian theo chiều rộng, “song song” gợi mở không gian theo chiều dài. Một không gian bao la rộng lớn, nhưng cũng tĩnh lặng lạ thường. Bao chum lên cảnh vật là một nỗi buồn “điệp điệp” một nỗi buồn trải dài khiến hình ảnh con thuyền cũng tĩnh lặng giữa dòng nước “song song”. “Thuyền” và “nước” là hai hình ảnh quen thuộc trong thơ, ngoài đời thực chúng cũng là hai sự vật luôn đi liền với nhau không thể rời nhau, Vậy mà ở đây tác giả lại cho ta thấy một sự chia ly giữa thuyền và nước: “thuyền về” còn “nước lại” gọi sự chia ly, sự xa cách hững hờ. Tâm trạng của thi nhân được bộc lộ rõ nét nhất qua câu thơ cuối cùng: “Củi một cành khô lạc mấy dòng” . “Củi” là một hình ảnh nhỏ bé, mong manh vậy mà lại lênh đênh vô định giữa một không gian rộng lớn của sông nước không biết sẽ trôi dạt về đâu. “Củi” đã bé nay lại càng nhỏ bé hơn khi kết hợp với số từ “một” tác giả như muốn nhấn mạnh thân phận bé nhỏ của chính bản thân mình trôi nổi mênh mông giữa dòng đời. Một nỗi buồn cô đơn về thời thế.

Nỗi buồn của thi nhân càng được tăng thêm, càng được đẩy đến đỉnh điểm khi đến với khổ thơ thứ hai:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng bến cô liêu”.

Bức tranh thiên nhiên sông nước ấy có phần tăng thêm sức sồng khi có thêm những “cồn nhỏ”. Những gò đất nổi lên giữa lòng sông ấy lại chỉ “lơ thơ” thưa thớt gợi lên một sự đơn sơ, hoang vắng, “đìu hiu” cô quạnh khi những làn gió thổi qua. Những cơn gió không ồn ào mà chỉ “đìu hiu” làm cho nỗi buồn của thi nhân như được nhân lên khi đứng trước một không gian tiêu điều.

Chợt có đâu đây có tiếng “chợ chiều”. “Chợ” là nơi mà khi đến đó ta biết được cuộc sống nơi đây có ấm no sầm uất hay không. “Đâu” gợi cho chúng ta cảm giác mơ hồ không biết có phải là có âm thanh đó hay không, tác giả cũng chỉ nghe thấy cảm nhận thấy chứ không được nhìn thấy. Âm thanh ấy cũng mờ mờ ảo ảo, vừa thực mà vừa hư. Tưởng chừng như âm thanh xuất hiện làm con người thêm vui nhưng chính nó lại khiến tác giả thêm cô đơn, lẻ lõi trên chính mảnh đất quê hương mình.

“Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Nỗi sầu không chỉ nhuốm màu vào không gian mà còn trải dài theo thời gian bất tận. Không gian được mở ra theo nhiều chiều vừa cao, vừa sâu, vừa rộng…”Nắng xuống” và “trời lên” tạo nên một sự ngăn cách, chia li theo hai chiều đối nghịch “lên” và “xuống”. Đây là cảm nhận mà chỉ khi đến với con người hiện đại chúng ta mới thấy mới cảm nhận được. Không gian không chỉ được mở rộng theo chiều rộng, chiều cao mà còn theo chiều sâu. Nắng càng xuống thấp, trời càng trở nên cao hơn ngả bóng xuống lòng sông sâu “chót vót”. Tác giả đã sử dụng từ rất đặc biệt, không phải cao “chót vót” mà là “sâu chót vót” vừa tả được độ cao cũng vừa cảm nhận được độ cao ấy. Con người trở nên bó nhỏ cô đơn trước vũ trụ bao la vô tận… “Sông dài, trời rộng” cảnh vật càng rộng lớn, kì vĩ bao nhiêu thì con người càng bé nhỏ bấy nhiêu với hình ảnh “bến cô liêu”- bến đã nhỏ lại còn hiu quạnh. Con người cảm thấy bé nhỏ hơn bao giờ hết.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Đến đây, ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc, gần gũi. Hình ảnh những cánh bèo gợi sự tan tác chia ly, những cánh bèo trôi “hàng nối hàng” vô định không biết trôi dạt về nơi đâu. Đây cũng chính là số phận của những kiếp người nhỏ bé, cô đơn với một cuộc sống bấp bênh. Giữa không gian “mênh mông” rộng lớn, thi nhân cố kiếm tìm một niềm vui nhưng “không một chuyến đò ngang” không có hình bóng cuộc sống của con người. “Không cầu gợi chút niềm thân mật” không có được sự chia sẻ của tình người, tình đời. Điệp từ “không” như càng làm tăng thêm sự buồn bã cô đơn, chỉ có “bờ xanh tiếp bãi vàng” chỉ có một mình thi nhân với thiên nhiên quạnh hiu.Một lần nữa không gian lại được đẩy đến sự tận cùng của sự hoang vắng, cô liêu.

Thi nhân mở rộng thêm tầm nhìn của mình, không còn không gian ở tầm thấp nữa mà được nhìn với tầm cao, tầm xa:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều xa

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Chỉ với bốn câu thơ cuối, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh đậm chất cổ điển với hình ảnh phía xa có hòn núi, những đám mây bay là đà “lớp lớp”. Không phải là một đàn chim mà chỉ duy nhất có một cánh chim lạc đàn nhỏ bé đơn côi “nghiêng cánh nhỏ” dưới “bóng chiều sa”. Cánh chim ấy cô đơn, lạc lõng, nỗi buồn như càng đè nặng lên đôi cánh giữa bầu trời rộng thênh thanh. Nhiên nhiên ở khổ thơ được vẽ ra là một thiên nhiên hung vĩ, tráng lệ không giống với thiên nhiên ở các khổ trước hiu quạnh, vắng lặng.

“Lòng quê dợn dợn vờn con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

“Lòng quê” hay chính là tình yêu thiên nhiên đất nước mà nhà thơ muốn gửi gắm, nó cuộn trào lên “dợn dợn” như sóng nước mênh mông. Tình yêu quê hương bất tận, choáng ngợp như chính con sông “Trường Giang” vậy. “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhớ”, những người con xa quê hương chỉ cần một hình ảnh nhỏ thôi cũng làm họ gợi nhớ đến quê hương mình. Bóng chiều đã ngả đây là lúc con người ta nhiều tâm trạng nhiều cảm xúc nhất, nếu như Thôi Hiệu nhìn thấy khói hoàng hôn thì nhớ nhà “Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói song cho buồn lòng ai” thì đến với Huy Cận ông không cần nhìn thấy “khói hoàng hôn” nhưng vẫn nhớ tới nhà da diết. Đây là sự sáng tạo độc đáo của Huy Cận trong thơ mới.

Bài thơ “Tràng Giang” đã vẽ trước mắt ta những một bức tranh hùng vĩ, với cách nhìn độc đáo vừa gần vừa xa, vừa cao vừa sâu, nhưng bao chùm không gian ấy là một nỗi buồn. Đó không chỉ là nỗi buồn cô đơn lẻ loi của chính tác giả mà còn là nỗi buồn của một thế hệ khi phải sống trong cảnh nước mất nhà tan. Bức tranh mà Huy Cận tạo nên với những hình ảnh gần gũi như sông nước bến thuyền vừa mang một vẻ đẹp vừa cổ kính vừa hiện đại. Điều đó đã tô đậm thêm sự độc đáo trong thơ của Huy Cận.

13 Bài văn phân tích Tràng giang - Bài mẫu 13
Vote
0%

11

by Toàn Trần 02-08-2023

“Dòng sông thơ chở con đò từ ngữ

Ý đẹp, lời hay, triết lí văn chương

Chở bóng tương lai, nẻo về quá khứ

Ngổn ngang hiện tại, đậm nét vui buồn”

Nếu tên tuổi Văn Cao từng gắn liền với dòng sông Lô hùng tráng, Hoàng Cầm gửi nỗi nhớ thương về dòng sông Đuống “nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”, Hoài Vũ mãi là nhà thơ của con sông Vàm Cỏ đêm ngày tha thiết chở nặng phù sa. Đến với hồn thơ bay bổng của Huy Cận, ta không chỉ bắt gặp khung cảnh thiên nhiên rộng lớn bao la, mà ẩn sâu trong đó còn là cái tôi cô đơn bé nhỏ khát khao được hòa nhập với cuộc đời. Và đó chính là “Tràng giang” - bản ngậm ngùi dài của một tâm hồn cô đơn trong cõi mênh mông của trời đất, một thi phẩm thành công với sự kết hợp nhuận nhị giữa cổ điển và hiện đại.

“Tràng giang” (Lửa thiêng – 1940) là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Huy Cận. Bài thơ được lấy cảm hứng vào một buổi chiều mùa thu năm 1939, khi nhà thơ đứng ở bờ Nam bến Chèm nhìn cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước, bốn bề bao la vắng lặng, nghĩ về kiếp người nổi trôi. Vì thế, cảm hứng của bài thơ là cảm hứng không gian, thế giới vừa được cảm nhận bằng sự chiêm nghiệm cổ điển, vừa được cảm nhận bằng tâm thế cô đơn của một cái tôi hiện đại, rất đặc trưng cho thơ mới. Nỗi cô đơn, buồn thương ấy được khởi nguồn từ những câu thơ đầu tiên của dòng sông buồn thương bất tận tràng giang.

Mở đầu cho nỗi ám ảnh, cô đơn trong không gian sông nước bến bờ là một phong cảng thiên nhiên bao la, rộng lớn, heo hút của dòng sông Hồng quen thuộc:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”

Tràng giang gợi hình ảnh một con sông dài như sống Trường Giang của Trung Quốc – con sông gắn liền với cảm hứng vĩnh hằng trong thi ca cổ điển. Huy Cận đã thể hiện được ngòi bút tinh tế của mình qua cách hiệp vần “ang” liên tiếp qua hai tiếng “tràng giang”, tạo nên thanh ngang gợi cảm giác một con sông rộng hiện ra trước mắt người đọc. Hai tiếng “tràng giang” đã tạo nên dư âm vang xa, trầm lắng; mở ra hình ảnh một dòng sông dài đến vô tận, xa đến mênh mông, rộng đến bát ngát như không thể biết đâu là bến bờ.

Trên mặt sông, những lớp sóng gợn nhẹ nhàng, nhấp nhô, nối tiếp nhau điệp điệp không dứt kéo dài đến tận chân trời. Hai chữ “điệp điệp” mang tới một nỗi buồn liên tục, mãi không ngừng như tiếng sóng lòng đang rạo rực trong lòng thi nhân. Đọc câu thơ này, ta bất chợt nhớ đến những vần thơ da diết của Thâm Tâm trong “Tống Biệt Hành”:

“Đưa người ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng”.

Những vần thơ vào buổi chia li từ giã bạn của nhà thơ Thâm Tâm trước cảnh sông mênh mang sóng nước, câu thơ này đã hiện lên hình ảnh dòng sông ngăn cách đôi bờ, ảo vọng và hiện thực bủa vây không gian tĩnh lặng ấy, và với Thâm Tâm, tiếng sóng dội lên hay cũng chính là tiếng lòng đang cuộn trào đó. Từ một điểm nhìn, ta có thể thấy được sự hòa hợp giữa hai hồn thơ trong cùng một khung cảnh.

Câu thơ không chỉ tả ngoại cảnh sông Hồng trong một buổi chiều thu, mà thơ là thư kí của trái tim, là tiếng nói của thân phận con người, là tâm cảnh của thi nhân. Nguyễn Du đã từng viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Có lẽ vì lòng người buồn mà nỗi buồn ấy cũng nhuốm màu lên ngoại cảnh mênh mang. Bởi thế, dòng tràng giang cũng là dòng tâm hồn thi nhân đang đón nhận những nỗi buồn từ ngàn xưa chảy vào tâm khảm. Tất cả là một nỗi buồn khôn tả!

Trên nền không gian bao la, bát ngát của tràng giang, xuất hiện một con thuyền nhỏ nhoi đang xuôi mái, tự buông mình theo sự nổi trôi, không chủ đích bến đỗ ở phương trời nào:

“Con thuyền xuôi mái nước song song”

Chiếc thuyền trôi xuôi đến đâu, nước rẽ thành mấy hàng song song đến đó và rong ruổi về mãi cuối trời. Hai chữ “xuôi mái” gợi sự hờ hững, vô định kết hợp với từ láy “song song” vừa gợi dòng nước chảy thành “hàng nối hàng” vừa gợi ấn tượng về sự chia phôi. Dường như nước và thuyền cứ song song cho đến chân trời, góc bể, vờ không quen biết nhau trong đời.

Thiên nhiên tự thân nó đã là một bài thơ. Tuy nhiên, thiên nhiên không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp mà nó còn gửi gắm trong đó một tình yêu, một khát khao, một suy ngẫm, một triết lý nhân sinh qua lăng kính của con người. Và trong khung cảnh thiên nhiên tĩnh lặng, vô biên của dòng tràng giang ấy, dù con thuyền xuôi mái vô định vẫn có bóng dáng con người với nỗi buồn khôn tả, khôn nguôi. Nhưng nỗi buồn ấy càng thấm sâu, “điệp điệp” trong cõi lòng khi trên dòng tràng giang mênh mông bóng dáng con người, sự sống thưa thớt, mờ nhạt rồi xa dần rồi khuất vắng vào một bến bờ nào đó:

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Theo lẽ thường, thuyền và nước là hai sự vật gắn bó khăng khít không thể tách rời. Nhờ nước mà thuyền trôi nổi, phiêu dạt nay đây mai đó; nhờ thuyền mà dòng nước bớt hiu quạnh, hoang vu. Trong câu thơ này, ta cảm nhận được giữa thuyền và nước có sự hững hờ như không ăn nhập vào nhau. Thi nhân như tự hỏi rằng con thuyền đi đâu, về đâu để dòng nước ở lại trở nên hoang vắng, bơ vơ còn nỗi sầu thì lan tỏa “trăm ngả” trời đất? Nghệ thuật đối lập giữa “thuyền về”, “nước lại” gợi ấn tượng về sự chia lìa. Chỉ một cuộc chia li ngắn ngủi ấy thôi cũng đủ làm trái tim đa sầu và đôi mắt thi nhân “đẫm lệ” buồn thương. Sự đồng nhất giữa cảnh và tình, giữa dòng nước và dòng sầu kết hợp với bổ ngữ trăm ngả có tác dụng khắc họa sâu sắc nỗi buồn tê tái, thấm thía, lan tỏa bốn phương trời đất.

Rồi bất ngờ thay trên dòng chảy mênh mông ấy thi nhân bắt gặp cành củi khô đơn độc, lênh đênh qua bao sông suối, giờ đang lạc lõng giữa mấy dòng tràng giang:

“Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Hình ảnh “củi” gợi sự khô gầy, đứt gãy, cành, thân chia lìa, rơi rụng. Tính từ “khô” gợi sự hao gầy, cạn kiệt sự sống kết hợp với động từ “lạc mấy dòng” gợi sự lạc lõng, vô định, mất phương hướng. Trước hết, đây là hình ảnh tả thực. Vào mùa thu, nước trên thượng nguồn chảy về, cuốn theo dòng nước lũ là những cành củi khô gầy, đứt gãy trôi nổi qua bao thác ghềnh, sông suối. Nhà thơ Xuân Diệu gọi đó là “một chi tiết văn xuôi sống sít”. Huy Cận đã mạnh dạn sáng tạo thành một chi tiết chân thực, còn nóng hổi cảm xúc, không sa vào ước lệ, sáo mòn. Thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa cái hữu hạn với cái vô hạn, giữa cái nhỏ nhoi với cái lớn lao, giữa củi một cành khô đang lạc loài giữa mấy dòng nước trong nỗi sầu trăm ngả đã giúp người đọc hình dung được cảnh tượng một tạo vật thiên nhiên thật sinh động và sắc nét.

Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét rằng:“Lần đầu tiên trong lịch sử thi ca một cành củi khô trôi vào thơ Huy Cận như nỗi cô đơn của một kiếp người trong xã hội cũ”. Không chỉ là sự tả thực theo quy luật tự nhiên, “cành củi” không chỉ gợi lên sự nhỏ bé đơn độc mà lại còn “củi khô” nữa thì lại càng bé nhỏ tội nghiệp hơn. Phải chăng hình ảnh cành củi khô trôi nổi phù du trên sóng nước Tràng giang chính là hình ảnh ẩn dụ để biểu tượng cho kiếp người như thi nhân đang nổi trôi bơ vơ vô định giữa dòng chảy của cuộc đời của một đất nước mất chủ quyền?

Cùng thời với Huy Cận, không ít nhà thơ cũng cảm thấy cô đơn, lạc loài trên chính quê hương mình và hoàn toàn bị mất phương hướng. Vũ Hoàng Chương từng khóc cho thân phận:

“Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỉ

Trót sinh ra lạc ánh sao mờ”

Hay Nguyễn Bính ngơ ngác, bơ vơ:

“Hôm qua dưới bến xuôi đò

Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau

Anh đi đấy, anh về đâu

Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm”

Bởi thế, hình ảnh “cành củi khô lạc mấy dòng” không còn là tâm trạng riêng của Huy Cận mà là nỗi buồn chung của cả một thế hệ sống trong cảnh nước mất, nhà tan. Có thể khẳng định, đây là câu thơ tuyệt bút của Huy Cận. Chỉ một cành củi khô, một chi tiết chân thực sống sít rất đời thường mà hàng ngày ta vẫn hững hờ, vô tình, quên lãng, thi nhân đã hun đúc nên biết bao nhiêu là châu ngọc về thế giới tâm hồn và thân phận con người trong những năm tháng đau thương của lịch sử dân tộc!

Như tiếp nối mạch cảm xúc u sầu, buồn bã ở khổ một, bức tranh tràng giang ở khổ thơ thứ hai được tác giả đưa thêm những nét cụ thể để diễn tả những cái bé nhỏ, cô đơn, xa vắng và nỗi buồn của hồn người thấm sâu vào tạo vật. Ở đây, Huy Cận đã dùng hàng loạt những hình ảnh và từ ngữ gợi buồn. “Cồn” giữa lòng sông vẫn gợi sự trống vắng, đơn độc kết hợp với tính từ “nhỏ” lại tạo cảm giác sự buồn bã và trống trải như nhân lên gấp bội. Hơn nữa, với nghệ thuật đảo ngữ, tính từ “lơ thơ” được đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh thêm sự nhỏ nhoi, thưa thớt, vắng vẻ của không gian tràng giang. Giữa mênh mông sóng nước chỉ có “lơ thơ” một vài cồn cát nhỏ nhoi, hiu quạnh, thưa thớt, lạnh lẽo, thiếu vắng hơi ấm, sự sống của con người. Còn gì buồn hơn bức tranh tràng giang trong cái nhìn ảo não, ngậm ngùi của thi nhân?

Trong chiều thu buồn, cõi tâm linh sâu thẳm của nhà thơ còn cảm nhận thật tinh tế nét đặc trưng của mùa thu với những làn gió đìu hiu nhẹ thổi. “Đìu hiu” là tinh từ miêu tả sự hoang vu, vắng vẻ, buồn bã, thê lương của cảnh vật, xoáy sâu hơn vào nỗi buồn của tạo vật và hồn người. Cách dùng từ của Huy Cận khiến câu thơ như một tiếng thở dài, một niềm than van của bờ sông, bãi cát, một bản ngậm ngùi dài trong cõi mênh mông đất trời. Huy Cận có lần cho biết cặp từ láy “đìu hiu” ông đã học được từ câu thơ ‘Chinh phụ ngâm” của Đoàn Thị Điểm:

“Non kỳ quạnh quẽ trăng treo

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”

Tưởng rằng, bức tranh tràng giang vẫn sẽ đắm chìm trong sự hiu hắt, cô quạnh nhưng đến với câu thơ thứ tiếp theo, bức tranh tràng giang được gợi tả thêm những hình ảnh, âm thanh mới :

“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

Một câu hỏi đươc đặt ra: đâu là ở đâu, chỗ nào? Đây là cách nói đầy sự mơ hồ và không xác định. Ta có thể hiểu câu thơ theo nhiều cách. “Đâu” có nghĩa là đâu có, không có, làm gì có tiếng chợ chiều từ lãng xa vọng lại. “Đâu” cũng có thể hiểu là đâu đó có tiếng xao xác của chợ chiều, nhưng những âm thanh đó quá bé nhỏ, đó là âm thanh của cuộc sống đang tan rã, lịm tắt, mờ nhạt. “Đâu” cũng có thể là sự khát khao tìm kiếm một chút sự nhộn nhịp trong cuộc sống để thi nhân được gác bỏ nỗi buồn hiu quạnh kia sang một bên. Chình hình tượng không gian như thế đã làm nổi bật hơn cái lẻ loi cô độc bơ vơ của nhà thơ, và khiến nỗi buồn nỗi sầu thêm mênh mang thấm thía: “Người thấy lạc loài giữa cái mênh mông của không gian, cái xa vắng của thời gian, lời thơ vì thế mà buồn rười rượi” (Hoài Thanh)

Không gian vụt lớn lên và mở ra đến bao la vô tận. Đây chính là cảm xúc vũ trụ thật mãnh liệt và tinh tế đang bủa vây lấy Huy Cận:

“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Vũ trụ được đẩy lên cao như nâng đỡ tâm hồn thi nhân. Câu thơ “nắng xuống trời lên sâu chót vót” thể hiện một cách nhìn, cách cảm rất độc đáo và sáng tạo. Hai động từ ngược hướng “xuống” và “lên” đem lại cảm giác chuyển động rất rõ rệt. Nắng xuống đến đâu, trời lên đến đó. Và quá trình dịch chuyển của nắng, của bầu trời được hoàn tất bởi cụm từ “sâu chót vót”. “Chót vót” là từ láy độc quyền của chiều cao, Huy Cận không viết cao chót vót mà viết “sâu chót vót”, vì từ sâu vừa gợi độ cao, vừa gợi cái hun hút, thăm thẳm của bầu trời hoàng hôn, từ “chót vót” như “trợ thủ đắc lực” làm tăng thêm cái rợn ngợp của khung cảnh. Đó chính là sự rợn ngợp của hồn người trước cái vô cùng của vũ trụ. Vì thế đọc câu thơ lên ta có cảm giác hồn mình như đang mênh mang cùng thiên địa.

Đến câu thơ sau, không gian tiếp tục được mở ra ba chiều rộng lớn:

“Sông dài, trời rộng bến cô liêu”

Trong không gian ba chiều mênh mông bát ngát, hình ảnh của bến sông hiện lên đã nhỏ bé, đơn độc lại càng cô độc hơn. Huy Cận gọi đó là “bến cô liêu” diễn tả đến tận cùng sự chơ vơ, lạnh lẽo, buồn vắng. Thủ pháp tương phản giữa “sông dài, trời rộng” với bến cô liêu" được Huy Cận sử dụng rất thành công, gây ấn tượng đậm nét với người dọc về dòng trường giang hoang vu, bát ngát, quạnh hiu, buồn vắng và nỗi buồn của tâm hồn thi nhân. Phải chăng, hình ảnh bến cô liêu trong không gian rộng lớn cũng là bến cô liêu của tâm hồn nhà thơ giữa sự bao la, rợn ngợp của cuộc đời? Có lẽ Huy Cận và Xuân Diệu đã đồng điệu khi gọi hồn mình là “bến cô liêu” hay “Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề”.

Vẫn là nỗi buồn thương ấy, một lần nữa nó lại được khắc họa da diết hơn qua hình ảnh cánh bèo trôi dạt, lênh đênh vô định:

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”

Hình ảnh “Bèo dạt về đâu” gợi sự chìm nổi, lênh đênh, phiêu dạt, vô định, mất phương hướng. Hai chữ “về đâu” càng gợi sự tan tác, chia lìa và nỗi buồn thấm thía, xót xa. Chúng tạo thành “hàng nối hàng” trên sông như trải dài theo sóng nước tràng giang. Thi sĩ như đang nhìn vào lòng mình, tự hỏi chính mình vậy: Những đám bèo dạt trên sông sẽ đi đâu, về đâu? Câu thơ đã gợi tả chân thực toàn cảnh sông Hồng vào mùa nước lũ. Sau những ngày nắng hạ, nước trên thượng nguồn chảy về, bèo trôi dạt thành hàng trên sông, nối nhau đến vô tận.

Nam Cao đã từng nói: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Phải thế chăng, khung cảnh đâu chỉ có thiên nhiên thường nhật? Từ ý thơ da diết kia, thân phận con người lại một lần nữa ăn sâu vào trong cảnh vật. Trong thơ ca cổ điển, hình ảnh mặt nước cảnh bèo mang ý nghĩa biểu tượng cho cuộc đời chìm nổi, lênh đênh phiêu dạt. Trong Truyện Kiều, ông đã gửi gắm tất cả niềm yêu thương, xót xa và kỳ vọng vào hình tượng nàng Kiều, một phụ nữ đa tài, đa sắc, lại thánh thiện và nhân ái. Thế nhưng cuộc đời của nàng lại đồng nhất thân phận với cảnh bèo chìm nổi trên sóng nước:

"Nghĩ mình mặt nước cảnh bèo

Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân"

Cùng với hình ảnh thuyền và nước như củng trôi về cõi vô biên, hình ảnh một cành củi khô lạc giữa mấy dòng nước, đến khổ thơ này, ấn tượng chia lìa, tan tác lại một lần nữa khắc sâu thêm nỗi buồn mênh mang.

Tầm mắt nhà thơ như được mở rộng, vui sướng khi thấy “chuyến đò ngang” - một tín hiệu của sự sống, sự gặp gỡ, giao hòa. Thế nhưng toàn cảnh trời rộng, sông dài tuyệt nhiên không có bóng dáng con người.

“Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng"

Chuyến đò ngang để con người qua lại. Cây cầu bắc ngang qua sông để nối đôi bờ là tín hiệu giao hòa, gợi sự thân mật, ấm cúng. Nhưng trong “Tràng giang” tất cả đều không có. Không một chuyến đò, không một cây cầu. Hai từ “không” hai lần phủ định “không đò” “không cầu” trong hai câu thơ như hai tiếng thở dài đầy vô vọng. Chỉ có con người đơn độc giữa không gian vô tình vô cảm. Nhìn đâu cũng chỉ thấy “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.Như vậy, sự cô quạnh, hoang vu, hiu hắt của tràng giang được thi sĩ đặc tả độc đáo bằng chính cái không tồn tại. Thái độ phủ nhận thực tại nằm ngay trong kết cấu bài thơ và nỗi buồn ở bài thơ này không chỉ là nỗi buồn trước sông dài trời rộng mà còn là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn cuộc đời, nỗi buồn thế hệ của những con người sống trong cảnh nước mất nhà tan.

“Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư.” Khổ thơ cuối là sự kết hợp giữa sự mờ ảo và xa dần của thiên nhiên trong nỗi niềm thầm kín của một thi nhân. Hai câu thơ đầu là bức tranh chiều thu với nhiều hình ảnh:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”

“Thu là thơ của đất trời, thu là thơ của lòng người”. Mùa thu đến với tâm hồn các nghệ sĩ trong phong trào thơ mới cũng chính là mùa nở rộ của thơ ca hiện đại Việt Nam. Bởi cái khoảnh khắc tuyệt mỹ này của đất trời tràn đầy sức quyến rũ. Nó như thổi sự sống vào tâm hồn các thi nhân, để rồi gợi nhớ, gợi thương, gợi vui, gợi buồn, làm thức dậy cả một chân trời khao khát trong lòng người nghệ sĩ.

Ta đã bắt gặp tình cảm tha thiết lãng mạn của nhạc sỹ Ngô Thụy Miên qua khung cảnh mùa thu:

“Anh có nghe mùa thu mưa giăng lá đổ

Anh có nghe nai vàng hát khúc yêu đương…”

Hay ta lại thầm nhớ lại những vần thơ của Đỗ Phủ trong cảnh rừng mùa thu lạnh lẽo, bạt ngàn, đầy dữ dội chất chứa hiu quạnh:

“Lác đác rừng phong hạt móc sa

Ngàn năm hiu hắt khi thu lòa”

Và khi đến với Huy Cận, thu không lãng mạn da diết như những câu tình ca của Ngô Thụy Miên, cũng không trầm uất, bi tráng như những vẫn thơ của Đỗ Phủ. Hình ảnh thiên nhiên vào một buổi chiều thu thật đẹp, thật buồn nhưng cũng thật tráng lệ. Vào chiều thu, những đám mây trắng đùn lên trùng trùng điệp điệp ở phía chân trời. Ánh dương phản chiếu vào lớp lớp mây trắng trông như những núi bạc lấp lánh. Đây là một vẻ đẹp rất đặc trưng của mùa thu. Vì thế, hình ảnh “mây cao đùn núi bạc”, nhìn từ ngoại cảnh là hình ảnh hùng vĩ, sống động, một hình ảnh đẹp, nhưng nhìn từ tâm trạng nhà thơ ta thấy có sự rợn ngợp. Chữ “đùn” và “lớp lớp” gây ấn tượng mây chồng chất, không gian rộng mở đối lập với con người đơn chiếc, nhỏ nhoi, bất lực.

Trước cảnh sông nước mây trời bao la hùng vĩ ấy bỗng hiện lên một cánh chim bé nhỏ đang nghiêng cánh như nâng đỡ cả sức nặng của bầu trời đang đè nặng xuống đôi cánh bé bỏng của mình:

“Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”

Thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa “chim nghiêng cánh nhỏ” với “lớp lớp mây đùn” và “bóng chiều sa” làm nổi bật sự nhỏ bé, cô đơn của cánh chim nhỏ nhoi trước bóng chiều sắp tắt. Thủ pháp nghệ thuật này làm cho cảnh thiên nhiên rộng hơn, hùng vĩ hơn nhưng cũng buồn hơn, ám ảnh hơn. Đặc biệt, dấu hai chấm giữa dòng thơ như khoảng lặng không lời cũng gợi lên biết bao suy tưởng. Dường như cánh chim bé nhỏ, cô đơn kia đã gắng gượng, nâng đỡ cả trời chiều nhưng nó quá bé nhỏ trước sự hùng vĩ, mênh mông của bầu trời, nên đành bất lực, nghiêng cánh cho bóng chiều đổ xuống. Thơ là sự lên tiếng của thân phận. Và cánh chim nhỏ trong chiều thu đẹp mà buồn cũng là thân phận con người, thân phận của một cái tôi trong thơ mới, thân phận con người trong bất kì con người nào trong số chúng ta khi phải đối mặt với sự nhỏ bé của kiếp người và sự mênh mông của trời đất.

Nỗi "buồn điệp điệp" triền miên lan tỏa xuyên suốt bài thơ và cồn cào, day dứt nhất ở nỗi nhớ ở cuối bài:

"Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"

Vào buổi chiều thu, một mình đối diện với không gian trời mây sông nước bao là đó là lúc con người đối diện với nỗi buồn, nỗi cô đơn trong cõi lòng. Trong niềm xúc cảm ấy, nhà thơ lại nhớ nhà, nhớ quê hương da diết như nhớ một côi bình yên nhất của tâm hồn. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê đã trở thành mạch nguồn tình cảm trong trẻo và sâu lắng muôn đời trong văn chương và cuộc sống thường nhật.

“Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có phong cách nổi bật, tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình”. Tình cảm buồn nhớ quê hương muốn đời vẫn vậy, nhưng Huy Cận lại có cách diễn đạt mới, đầy ám ảnh và sâu lắng. Dường như đọc xong lời thơ mà xúc cảm chân thành trong thơ vẫn còn đọng lại và ngân vang mãi trong hồn người bởi chiều sâu khôn cùng của ngôn ngữ và tư tưởng. Hai chữ “dợn dợn” là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận chưa từng thấy trước đó. Từ “dợn dợn” vừa nói được cảnh nước trời, sóng gợn, vừa nói được cảm giác rợn ngợp trong lòng bởi nỗi nhớ nhà, nhớ quê luôn thường trực trong lòng. Câu thơ vừa nói được cảm giác cô đơn của con người cả nhân vừa nói được nỗi nhớ quê khắc khoải và niềm mong mỏi được che chở, được sống trong quê hương thân thuộc. Quả thật, nỗi buồn của Huy Cận miên man không dứt như sóng nước mênh mông bất tận, theo sóng nước lan tỏa rất xa, buồn hơn nhiều so với Thôi Hiệu (Đời Đường – Trung Quốc): "Yên ba giang thượng sử nhân sầu" (Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?).

Hai chữ “nhớ nhà” vừa cụ thể vừa trừu tượng. Huy Cận không nhìn thấy "khói" nhưng vẫn nhớ nhà da diết. Đó không chỉ là một mái nhà, một quê hương cụ thể nào đó mà còn là nỗi khát khao tìm một chỗ dựa cho tâm hồn cô đơn, trống vắng của tác giả.

Qua bức tranh thiên nhiên tràng giang hoang sơ, hùng vĩ Huy Cận kín đảo gửi gắm nỗi buồn triền miên, vô tận. Nỗi buồn của cái tôi luôn thấy mình cô đơn, bé nhỏ trước không gian trời rộng, sông dà và lắng đọng, kết tụ thành nỗi nhớ nhà da diết trong cõi lòng. Nỗi buồn ở bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của cả thế hệ, cả dân tộc trong những năm ngột ngạt dưới thời thuộc Pháp.

Với “Tràng giang”, Huy Cận đã tạo dựng một bức tranh thiên nhiên cổ kính, hoang sơ với tầm vóc mênh mang, vô biên đậm chất Đường thi. Bên cạnh đó, nghệ thuật dùng từ láy "điệp điệp", "song song" cũng có hiệu quả nhất định gợi âm hưởng cổ kính. “Tràng giang” có cách ngắt nhịp truyền thống. Đoạn thơ mang âm điệu buồn, vừa dư vang vừa sâu lắng. Đó là nỗi buồn sầu ngấm sâu trong lòng tạo vật và trong tâm hồn nhà thơ. Và màu sắc cổ điển và hiện đại đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của bài thơ. Một trong những đặc điểm về nghệ thuật thơ ca cổ điển là bút pháp tả cảnh ngụ tình, nhưng trong Tràng giang, có nhiều câu nhà thơ bộc lộ trực tiếp cái tôi nội cảm của mình mà không cần nhờ đến ngoại cảnh. Đây là đặc điểm rất hiện đại của thơ mới.

"Ta là ai" Như ngọn gió siêu hình

Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt.

"Ta vì ai?" Khẽ xoay chiều ngọn bấc

Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh"

Những vần thơ của Chế Lan Viên có thể xem như một tuyên ngôn nghệ thuật khái quát được sự chuyển biến trong tư tưởng. Và hồn thơ Huy Cận chính là sự giao thoa của màu sắc thi ca cổ điển phương Đông với một cái tôi sáng tạo độc đáo thể hiện trong những khám phá mới của nhà thơ từ trong nội dung – tư tưởng đến hình thức – nghệ thuật. Thật đúng với những gì Shelly từng nhận định: “Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử.” Đến với “Tràng Giang”, Huy Cận đã đem đến một nỗi niềm chan chứa những tâm tư về tình yêu quê hương, đất nước, con người của chính mình. Một cảm xúc rất chân thật trước một bầu trời thiên nhiên mênh mông, bao la đến bất tận.

14 Bài văn phân tích Tràng giang - Bài mẫu 14
Vote
0%

11

by Toàn Trần 02-08-2023

Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận xét rằng: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng, ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu, càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta say đắm cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Và bài thơ Tràng Giang sẽ là tác phẩm điển hình mang nỗi buồn mang mác, u hoài của nhà thơ.

Trong phong trào thơ mới 1930 – 1945, nhà thơ Huy Cận có thể nói là nhà thơ đã có dấu ấn và khẳng định được tên tuổi của mình. Cù Huy Cận là tên thật của nhà thơ, ông mang một giọng thơ rất riêng, cá tính mang dấu ấn Huy Cận. Thơ của ông trước Cách Mạng tháng tám mang một nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật trong đó Tràng Giang là tác phẩm tiêu biểu trong tập thơ “Lửa Thiêng”. Bài thơ được ra đời khi tác giả đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, Lòng vời vợi ông buồn cho kiếp người nhỏ bé, trôi nổi lênh đênh giữa dòng đời vô định khi nhìn cảnh mênh mông sông nước. Do đó thơ của ông chứa đựng nỗi u hoài, buồn man mát tạo nên những vần thơ vừa mang nét cổ điển lại vừa chứa đựng một chút gì đó hiện đại, một nét đặc trưng mang tên thơ Huy Cận.

Người đọc sẽ được nhà thơ dẫn dắt, mở ra vẻ đẹp vừa mang nét cổ điển xen lẫn hiện đại ngay ở khổ thơ đầu tiên. Đọc vài dòng thơ ta như lạc vào một miền sông dài rộng mênh mang đầy cuốn hút:

“Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Khung cảnh sông nước được gợi tả qua những vần thơ hết sức chân thực mà cũng rất giàu sức gợi, khiến người đọc hình dung được rõ ràng. Những gợn sóng nhẹ nhàng, lăn tăn lan tỏa vô cùng tượng trưng cho nỗi buồn miên man. Nhà thơ không vẽ ra dòng sông ồn ào, mạnh mẽ, náo nhiệt mà thay vào đó là gợi mở bằng gợn sóng, chuyển động nhẹ, chậm rãi. Một không gian im ắng, tĩnh lặng của miền sông nước tác giả đang gợi tả chỉ qua một hình ảnh sóng nhưng vô cùng rõ nét. Sự tinh tế trong việc lấy động tả tĩnh thật tài tình, linh hoạt và cũng rất Huy Cận. Vẽ ra một đợt sóng nối tiếp nhau liên hồi, đi kèm với đó là những đợt sóng lòng cuộn vào nhau da diết qua cách đưa chi tiết nghệ thuật là từ láy “điệp điệp”. Những câu thơ sau được gợi tả hình ảnh con thuyền thấp thoáng, trôi lãng đãng, vô định không có điểm dừng, bến đỗ. Từ đó “buồn điệp điệp” càng hiện lên rõ nét hơn. Ở đây tác giả thì “thuyền về, nước lại” thật ngược với tự nhiên ta thường thấy là nước đẩy thuyền trôi và chúng không bao giờ tách rời nhau. Sự đối lập, vô lý trong đó đan xen một tầng nghĩa sâu xa, một nỗi lòng của người lữ khách miền sông nước. Hình ảnh đúc kết nỗi buồn vô vàn của nhà thơ người đọc cảm nhận rõ ràng hơn qua hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng”, củi để chỉ những số kiếp lênh đênh, trôi nổi bé nhỏ, vô định giữa dòng đời.

Nối tiếp mạch thơ ở khổ đầu, đến khổ thơ thứ hai nổi bật một sự đìu hiu, vắng lặng của cảnh chiều tà:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Sông dài, trời rộng, bến cô liu”

Ngay ở câu đầu của khổ thơ đã được sử dụng phép đảo ngữ gây ấn tượng cùng từ láy “lơ thơ” mang giá trị biểu cảm cao. Tác giả đã chuyển tải sâu sắc về con người khi càng đứng trước không gian ấy sẽ càng cô đơn, khao khát được nghe âm thanh của cuộc sống, con người ở ba tính từ liên tiếp xuất hiện trong câu thơ “xơ xác, nhỏ bé, lẻ loi”. Hình ảnh cuộc sống sinh hoạt được tái hiện ở đây là chợ chiều đã thưa thớt, vãn người và cách lựa chọn này cho thấy sự đặc sắc của nghệ thuật. Miền quê sông nước lúc này chỉ còn lại sự hoang tàn, xơ xác, hiu quạnh lồng vào đó là nỗi lòng vô hạn của thi sĩ. Hai câu cuối không gian mở ra nhiều chiều: cao, sâu, rộng, dài. Sông nước đã bao la, rợn ngợp nay lại rộng lớn hơn nhiều lần. Tâm điểm của bức tranh vẽ ra là bóng dáng nhỏ bé, đơn độc giữa vũ trụ vì thế nỗi buồn thi nhân tăng lên gấp bội.

Nối tiếp mạch cảm xúc ở khổ thứ ba:

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng

…bờ xanh tiếp bãi vàng”

Sự lênh đênh, vô định chưa dừng lại, ở khổ thơ này sự hiện hữu trước mắt là hình ảnh “bèo dạt về đâu”, “bờ xanh tiếp bãi vàng” tiếp tục gợi về sự tĩnh lặng, cô liu khiến thi sĩ khao khát tìm kiếm một sự đồng điệu, một chuyến đò ngang là cây cầu dường như là một sự phủ định qua điệp từ “không”. Nhà thơ đã cảm thức được sự cô đơn, lạc loài trước khung cảnh sông nước rộng dài đang bủa vây ngay đứng giữa khung cảnh sông nước. Nhà thơ khát khao được thấy sự thân mật, giao lưu của con người với con người nhưng tất cả như bị mọi thứ ngăn cách. Một nỗi buồn về nhân thế, cuộc đời chất chứa sâu trong nhà thơ.

Khép lại bài thơ với khổ thơ cuối là một cái nhìn cao hơn, thi vị hơn mà nhà thơ đưa người đọc tìm đến:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

… Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Khổ thơ cuối toát lên một màu sắc của Đường thi khá rõ, từ những hình ảnh ước lệ cho đến cách dùng thi liệu thơ Đường. Hình ảnh được lấy từ câu thơ của Đỗ Phủ đã cho thấy nét hùng vĩ của thiên nhiên, tuy nhiên với Huy Cận không sao chép nguyên văn, ở ông có sự kế thừa nhưng cách miêu tả của ông thiên nhiên trở nên lấp lánh, tráng lệ độc đáo riêng. Hai câu thơ cuối hiện ra với ngôn ngữ mang màu sắc cổ điển nhưng cảm xúc lại rất hiện đại nói lên nét cô đơn, bơ vơ, rợn ngợp trước cuộc đời. “Chim nghiêng cánh nhỏ” là một sự chới với, mông lung giữa không gian mênh mông. Hơn nữa trong tác giả dội lên nỗi nhớ nhà, khát khao tìm một điểm tựa cho tâm hồn trống vắng của mình.

Một trong những tác phẩm thơ Mới da diết, đầy sầu muôn mang phong cách hiện đại nhưng vẫn có nét cổ điển, lãng mạn chỉ có thể nói đến Tràng giang của Huy Cận. Nhà thơ đã rất tinh tế trong việc sử dụng yếu tố nghệ thuật miêu tả thiên nhiên qua đó toát lên một cái tôi lãng mạn đương thời rất hiện thực.

15 Bài văn phân tích Tràng giang - Bài mẫu 15
Vote
100%

11

by Toàn Trần 02-08-2023

Trước Cách mạng tháng Tám, thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường thấm đượm nỗi buồn - nỗi buồn tiêu biểu cho cả một thế hệ Thơ mới. Bài thơ Tràng giang (1939 - trích từ tập Lửa thiêng) thể hiện cái tôi buồn miên man của nhà thơ trước cảnh trời rộng, sông dài; nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Bài thơ còn thể hiện tình yêu đất nước thầm kín của nhà thơ

Tràng giang nghĩa là sông dài, từ tràng cũng đọc là trường. Nhưng từ tràng giang với âm hưởng mênh mang của nó, gợi cảnh bao la, bát ngát hơn (tràng giang đại hải). Tác giả dùng từ Hán - Việt đã tạo ra vẻ cổ kính, vĩnh viễn của dòng sông. Mở đầu bài thơ là cảnh sông nước:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Câu thơ đầu gợi tả cảnh dòng sông mênh mang, những con sóng gợn lô nhô gối nhau tới chân trời tạo cảm giác êm ả trong không gian quạnh vắng như chứa đựng sẵn nỗi buồn: buồn điệp điệp. Nỗi buồn lớp lớp nối nhau tỏa theo con nước đi về trăm ngả: sầu trăm ngả. Cảnh tràng giang trong bài thơ mang một màu cổ kính;

Xanh om cổ thụ tròn xoe tán.

Trắng xóa tràng giang phẳng lặng lờ.

                                                       (Thuyền đi)

Hình ảnh bổ sung cho con thuyền là cành củi khô chìm nổi lênh đênh giữa cảnh bát ngát của dòng sông: Củi một cành khô lạc mấy dòng. Từ rừng thẳm, cành củi qua bao sông suối mà trôi về đây, dập dờn giữa chốn sông nước bao la, gợi liên tưởng đến cảnh đời lạc loài, bơ vơ. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng bị dòng đời cuốn trôi không biết về đâu.

Khổ thơ gợi tả cảnh với không gian sông nước mênh mông với những đường nét: song song, điệp điệp, nhưng lại: sầu trăm ngả, lạc mấy dòng nên không hứa hẹn gì hội tụ, gặp gỡ mà chia tan, xa rời. Thủ pháp tương phản giữa hình ảnh dòng sông rộng lớn với cảnh củi khô và chiếc thuyền nhỏ bé, càng làm nổi bật cảnh bát ngát, vô tận của dòng sông và thân phận lẻ loi, bé nhỏ của con người.

Âm điệu chung cho cả bài thơ, buồn vì thân phận con người cô đơn, lạc loài trong cuộc đời cũ. Khổ thơ thứ hai tiếp tục mạch thơ khổ đầu nhưng không gian được mở rộng ra và đẩy lên cao hơn.

Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Cồn nhỏ đơn côi giữa dòng sông, lại thêm ngọn gió đìu hiu làm cho cảnh càng hoang vu, hiu hắt, chìm khuất. Dòng nước lũ trên thượng nguồn đổ về nhấn chìm cồn nhỏ giữa sông chỉ còn nhô lên vài ngọn cỏ lưa thưa gợi liên tưởng đến những thân phận bị dòng đời nhấn chìm xô dạt.

Không gian mở rộng sang bên bờ: cảnh chợ chiều đã vãn càng tô đậm cái vắng vẻ, xa lìa.. Cảnh chợ chiều có gợi đến cuộc sống, quê nhà nhưng chỉ là âm thanh xao xác rồi mất hút dần trong cảnh mênh mang vắng lặng của dòng sông. Dòng sông và. nhà thơ như bị tách ra khỏi cuộc đời nên đứng trong cảnh ấy lòng người càng thêm thương nhớ cuộc sống quê hương.

Bầu trời hiện ra cũng làm tăng thêm vẻ lạc lõng: Nắng xuống trời lên sâu chót vót. Câu thơ giàu hình tượng, gợi tả không gian có hình khối đường nét và màu sắc: từng vạt nắng trên cao rơi xuống tạo nên khoảng không sâu thẳm trên bầu trời, độ sâu của bầu trời như ở ngọn cót vót. Cách dùng từ sâu gợi không gian bầu trời như mở rộng và đẩy lên cao hơn, sâu hơn, tạo ra không gian thăm thẳm, khôn cùng vô biên của vũ trụ và nỗi buồn của nhà thơ dường như vô tận, mênh mông:

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Dòng sông, bến bãi, đến bầu trời đều rời rạc và được khỏa lấp nỗi buồn của nhà thơ, buồn vì thiếu vắng cuộc sống nên mong tìm về với cuộc sống. Nhưng cảnh càng xuất hiện càng lạc lõng, hờ hững:

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu một chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Các sự vật được bên nhau: bèo dạt nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng nhưng tạo ra một thế giới không liên hệ, chia lìa. Trong khung cảnh ấy hồn thơ muốn tìm đến dấu vết của cuộc sống nhưng tất cả đều mênh mông xa vắng được nhấn mạnh bởi hai lần phủ định:

Mênh mông không một chuyển dò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Không một con đò, không một chiếc cầu tri âm, không có bóng người hay cái gì gợi đến tình người để mà gặp gỡ giao tiếp. Chỉ có mặt nước mênh mông vắng lặng.

Tới ngã ba sóng nước bốn bề,

Nửa chiều gà lạ gáy bên đê

                                       (Em về nhà)

Trong cảnh ấy, tình người càng buồn hơn, buồn vì sự thiếu vắng cuộc sống. Nhà thơ đứng ngay giữa quê hương mình mà cảm thấy bơ vơ, trơ trọi nên càng khao khát gắn bó với con người, cuộc sống, với quê hương:

Thuyền không giao nối đây qua đó

Vạn thuở chờ mong một cánh buồm

(Đảo)

Bài thơ khép lại với cảnh hoàng hôn kì vĩ nơi chân trời xa:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Khung cảnh mở ra với hình ảnh núi bạc được kết tạo bằng mây trắng lấp lánh ánh nắng trời. Tác giả bình: “Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao. Ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp”. Một vẻ đẹp kì thú, ngời sáng, hùng vĩ.

Hình ảnh này gợi nhớ đến một ý thơ dịch từ thơ Đường: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa” (Đỗ Phủ) nhưng lại có vẻ đẹp rạng rỡ hơn. Một cánh chim chiều xuất hiện làm cho bức tranh thêm sinh động, thơ mộng, đẹp đẽ nhưng nhỏ bé, mông lung. Cánh chim nhỏ như bị nắng chiều đè xuống, chỉ nghiêng cánh lá bóng chiều đổ xuống làm cho không gian như có hình khối, trọng lượng và thiên nhiên có vẻ như trĩu nặng nỗi buồn của thi nhân. Cảnh mông lung xa vắng ấy càng gợi thêm lòng thương nhớ quê hương:

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Con sóng lòng nhớ quê của nhà thơ đã tỏa ra nhập vào con sóng nước. Con nước cảm thông đã mang tình quê mênh mang đi sóng nước. Con nước cảm thông đã mang tình quê mênh mang đi về mọi nẻo. Ý thơ cuối mượn từ tứ thơ của Thôi Hiệu đời Đường:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng aI

                                        (Hoàng Hạc Lâu)

Người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà, còn Huy Cận không cần khói sóng vẫn nhớ quê hương. Vì mối tình ấy luôn khắc khoải trong lòng. Đó là nguyên nhân chính của nỗi buồn trải dài suốt bài thơ. Một con người buồn nhớ quê hương khi đúng ngay giữa quê hương mình càng thấy bơ vơ tội nghiệp làm sao! Bài thơ kết thúc là cảnh hoàng hôn trên sông nước và mở ra một tình quê bát ngát.

Tóm lại, nỗi buồn sông nước, trời mây trong Tràng giang của Huy Cận cũng là nỗi đau cuộc đời, nỗi sầu nhân thế. Nhà thơ gởi gắm vào đó một tấm lòng tha thiết yêu quê hương đất nước, sự nâng niu đối với tiếng Việt. Vì vậy, Xuân Diệu đánh giá: “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang san, Tổ quốc”.

Bài thơ thể hiện cái buồn chung của một thời đại trong Thơ mới. Nhưng nỗi buồn toát ra từ cái đẹp của thiên nhiên thiếu liên lạc thiếu tình người chứ không phải cái buồn vì cảnh tù túng ngột ngạt trong Nhớ rừng của Thế Lữ. Bài thơ mang phong vị cổ điển ở hình ảnh, giọng điệu nhưng vẫn mang nét đặc sắc của thơ hiện đại ở không gian sắc màu, từ ngữ đến tứ thơ.

Trên đây là top 15 bài phân tích Tràng giang chọn lọc hay nhất. Hy vọng rằng với những bài phân tích trên đã có thể giúp các bạn hiểu thêm về nhà thơ Huy Cận và bài thơ Tràng Giang cũng như đã biết cách triển khai các ý thành một bài văn hoàn chỉnh rồi nhé!

Tears in Heaven