Top 2 trong Top 10 bài văn hay và chi tiết nhất phân tích khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang.
"Huy Cận nhặt những chút buồn rơi rắc để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thì người lại có thể đúc thành bao châu ngọc. Ai có ngờ những bước chân đã tan trên đường kia còn ghi lại trong văn thơ. Những dấu tích không bao giờ tan được". Quả thực là như vậy trong tác phẩm Tràng Giang khi đứng trước thiên nhiên rộng lớn ông đã bày tỏ cái tôi nhỏ bé cô đơn những nỗi buồn man mác.
Huy Cận quê ở Hà Tĩnh, đây là một trong những đại diện tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới. Nếu như thơ của Xuân Diệu thể hiện sự trẻ trung sáng tạo, thì Huy Cận với những tiếng thơ trầm ngâm sâu sắc, mang nhiều nỗi niềm bâng khuâng vui buồn của một hồn thơ đa cảm của diễn đàn văn học Việt Nam. Huy Cận được mệnh danh là một nhà thơ đa tài. Giáo sư Hà Minh Đức nhận xét: "Huy Cận không chỉ là một nhà thơ, ông còn là một nhà văn hóa, nhà hoạt động chính trị, xã hội với những dấu ấn quan trọng trong suốt cuộc đời sự nghiệp của mình". Nhà thơ đã trực tiếp góp mặt trong nhiều sự kiện trọng đại của đất nước, đồng hành cùng nhiều bước ngoặt quan trọng của lịch sử dân tộc với những cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng và thơ ca Việt Nam. Huy Cận đã được Đảng Nhà nước trao tặng huân chương Sao vàng, huân chương Hồ Chí Minh, giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Bên cạnh vai trò là một nhà thơ, nhà văn hóa Huy Cận còn là một nhà hoạt động chính trị xã hội với nhiều dấu ấn quan trọng Ông tham gia cách mạng từ rất sớm, tham gia mặt trận Việt Minh hoà mình vào đời sống đấu tranh của quần chúng nhân dân. Ông từng đảm nhận nhiều trọng trách quan trọng trong bộ máy của Đảng và nhà nước.
Tràng Giang được viết vào mùa thu năm 1939 với cảm hứng được khơi gợi từ hình ảnh sông Hồng mênh mông sóng nước bốn bể bao la vắng lặng. Bài thơ là nỗi buồn của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, bao la trong đó thấm đẫm tình người, tình đời lòng yêu nước thầm kín và thiết tha.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Khổ thơ cuối của Tràng Giang vẽ lên khung cảnh thiên nhiên với không gian hùng vĩ, choáng ngợp nhưng cũng đượm buồn. "Lớp lớp", "mây cao", "núi bạc". Đây là những hình ảnh chúng ta thường thấy trong thơ cổ điển, nhưng trong thơ Huy Cận nó trở nên thật mới mẻ. Điểm đặc biệt của Huy Cận đó là kết hợp cái cổ điển và cái hiện đại đưa cái cũ biến hóa chúng bằng tư duy thơ hiện đại của mình. Hình ảnh mây và núi gợi nhớ cho ta đến câu thơ trong thơ của Đỗ Phủ
Mặt đất mây đùn cửa ải xa
Hai câu thơ của hai nhà thơ cách nhau nhiều thế kỷ nhưng đều có một điểm chung đó là gợi nên không gian buổi chiều, một buổi hoàng hôn đẹp nhưng buồn. Đồng thời gợi lên chất hùng vĩ, khoáng đạt của cảnh vật. "Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa", cánh chim nghiêng như đỡ cả buổi hoàng hôn trên đôi cánh bé nhỏ của mình. Với thủ pháp đối lập cánh chim nhỏ nhoi đơn độc giữa chân trời với hình ảnh thiên nhiên bóng chiều rộng lớn mênh mông. Dấu hai chấm chính là dụng ý nghệ thuật mà Huy Cận đặt vào dòng thơ, dấu hai chấm không chỉ thể hiện cảm giác cô đơn trong tâm hồn mà ngay cả trên trang giấy cánh chim ấy vẫn đơn côi, đang gồng gánh mang trong mình cả bóng chiều. Khi đứng trước không gian rộng lớn nhân vật trữ tình bồi hồi
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Từ "dợn dợn" gợi nỗi nhớ cồn cào khắc khoải trong lòng người, vừa cho thấy sự day dứt trong thâm tâm của một kẻ đang đứng trên quê hương mà vẫn cảm thấy thiếu quê hương. Câu thơ cuối giúp ta hiểu hơn về cảm giác của nhân vật trữ tình. Nếu như Nguyễn Du viết tâm trạng con người buồn sẽ ảnh hưởng tới cảnh vật:
"Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"
Còn trong thơ Huy Cận không cần một sự gợi tả từ cảnh mà nhân vật trữ tình vẫn có thể nhớ quê hương tha thiết. Đó là cảm giác trống vắng thiếu thốn của cái tôi trong thơ mới thời kỳ lúc ấy. Phải chăng giữa thiên nhiên và con người không có sự gắn kết nên nhân vật trữ tình cảm thấy bơ vơ cô quạnh và lạc lõng. Nỗi nhớ quê hương trong thơ Huy Cận giống với hai câu thơ của Tô Hiệu thời Đường:
Quê Hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Đây cũng là tâm trạng của Huy Cận với nỗi nhớ quê sâu sắc, nhớ nhà, nhớ những người ruột thịt.
Thơ Huy Cận hàm xúc cổ điển và thấm đẫm màu sắc triết lý tư tưởng. Với một hồn thơ bơ vơ, sầu não luôn hướng tới sự giao hòa giữa con người và tạo hóa trên một không gian mênh mông, phẳng lặng. Trong tràng giang cảnh sắc tươi đẹp mà buồn. Đó là những vần thơ mãi mãi vấn vương lòng người. Với thể thơ thất ngôn, tràng giang mang vẻ đẹp cổ kính trang trọng thể hiện sâu sắc những cảm hứng và tác giả đã viết. Cảnh sắc hoàng hôn và lòng quê được nói đến trong đoạn thơ mãi khơi gợi trong ta hình bóng quê hương yêu dấu. Sự kết hợp hài hòa giữa nét cổ điển và hiện đại vẽ lên bức tranh thiên nhiên mênh mông, quạnh hiu, hoang vắng ở đó ta thấy một cái tôi bơ vơ lạc lõng giữa đất trời bao la. Ẩn sâu trong đó là tình yêu quê hương đất nước kín đáo sâu lắng.
Đọc xong khổ thơ cuối cùng của Tràng Giang có hai thứ ấn tượng để lại trong lòng người đọc đó là: không gian rộng lớn và nỗi buồn cô đơn của lòng người. Vượt lên trên hết bút pháp đặc trưng, giữa chất cổ điển và hiện đại đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên tốt đẹp có buồn nhưng người đọc vẫn nhìn thấy một tình yêu quê hương đất nước thầm kín hiện diện trong Tràng Giang.
- tràng giang
- bài thơ tràng giang
- khổ cuối bài thơ tràng giang
- phân tích khổ thơ cuối tràng giang
- cảm nhận khổ thơ cuối bài thơ tràng giang
- thơ huy cận
- tác giả huy cận
- văn mẫu tràng giang
- soạn bài tràng giang
- bài văn nghị luận xã hội hay nhất
- đề văn nghị luận xã hội
- nghị luận xã hội thptqg
- soạn văn lớp 11
- phân tích nhân vật truyện ngắn
- văn mẫu lớp 7
- ngữ văn 7
- văn mẫu thpt
- ngữ văn 9
- ngữ văn 11
- ngữ văn 12
- ngữ văn thpt
- văn hay
- văn mẫu hay
- văn mẫu hay nhất
- bài văn mẫu chi tiết nhất
- đề văn hay
- dàn ý văn mẫu
- văn mẫu thcs
- chương trình giáo dục mới
- ôn luyện ngữ văn