Thơ Phạm Sư Mạnh - một trong những hồn thơ mang màu sắc đặt trưng của phong trào thơ đương đại. Cũng như những nhà thơ cùng thời, thơ Phạm Sư Mạnh cũng luôn hướng đến cái bao la, rộng lớn của vũ trụ. Thơ ông luôn thể hiện được sự hùng hồn, lai láng mà rất thời sự, nóng hổi. Bởi thế mà đọc thơ ông có cảm giác gần gũi mà mang hơi hướng chính trị hơi sâu. Để hiểu hơn con người cũng như thơ của Phạm Sư Mạnh chúng ta hãy cùng điểm qua một vài tác phẩm tiêu biểu của ông trong bài viết hôm nay nhé.
6 Đăng Hoàng Lâu tẩu bút thị Bắc sứ thị giảng Dư Gia Tân
Thanh sơn điệp điệp vi Bành Thành,
Xâm vân sáp Hán thanh ngọc bình.
Hoàng Hà thao thao tẩm khôn trục,
Khiêu ba tiện mạt đông nam khuynh.
Hoàng Lâu khởi xuất bán thiên lý,
Bằng cao nhất vọng tam thiên lý.
Hạng Vương đài tiền lạc nhật hồng,
Quán Quân mộ thượng bi phong khởi.
Thiên hoang địa lão cổ chiến trường,
Thiên tải anh hùng kim dĩ dĩ!
Ngã già viễn tại Giao Nam đầu,
Thủ trì ngọc tiết đăng Hoàng Lâu.
Ma sa thạch khắc Pha công tự,
Như kim bất phụ bình sinh du.
Dịch nghĩa
Núi xanh lớp lớp vây quanh đất Bành Thành,
Lấn vào mây, cắm vào nền trời như bức bình phong bằng ngọc xanh.
Nước Hoàng Hà cuồn cuộn ngấm vào lòng đất,
Sóng cồn tung toé, nghiêng dốc xuống miền đông nam.
Hoàng Lâu nổi lên lưng chừng trời,
Lên cao trông suốt ba ngàn dặm.
Trước đài Hạng Vương mặt trời lặn đỏ rực,
Trên mồ Quán Quân trận gió buồn nổi lên.
Chiến trường xưa trong cảnh trời đất hoang vu,
Anh hùng ngàn xưa nay còn đâu.
Nhà ta ở tận cõi Giao Nam xa xôi,
Hôm nay cầm ngọc tiết lên Hoàng Lâu.
Sờ vào nét chữ của Pha Ông khắc trên đá,
Chuyến đi chơi này hẳn không phụ chí bình sinh.
7 Đăng Thiên Kỳ sơn lưu đề kỳ 1
Đông Triều đa hữu hảo giang san,
Khổ luyến minh thời cảm khất nhàn.
Lục ám hạc điền kim tái đáo,
Vân thâm long ngự liểu nan phan.
Phong hiên thuỷ hạm thương đài cổ,
Trúc kính hoa hề cẩm thạch ban.
Tằng thị tiên hoàng du thưởng địa,
Xuân lai sầu tứ tối tương quan.
Dịch nghĩa
Đông Triều có nhiều núi sông đẹp,
Luyến tiếc triều vua sáng suốt chẳng dám xin về sống nhàn.
Màu xanh che mộng chim hạc, nay lại đến thăm,
Mây phủ kín nơi rồng ngự, thật khó mà vin tới.
Hiên hóng gió, lan can bên giòng nước, rêu xanh mọc tự bao giờ,
Lối trúc đường hoa, đá cẩm thạch in màu loang lổ.
Đây chính là đất du thưởng của tiên hoàng,
Xuân về với nỗi buồn thường có mối liên quan.
8 Đăng Thiên Kỳ sơn lưu đề kỳ 2
Trường Dương tấu phú tạ vô năng,
Thứ địa tằng bồi ngọc liễn đăng.
Tích nhật trì đài kim thượng tại,
Mãn thôn hoa điểu hận nan thăng.
Sơn vi An Dã tình lam ái,
Thuỷ hối Trà Giang bạch lãng tằng.
Phục ngoại vạn đồn xuân tự cẩm,
Hiếu tư Thiên tử chính triều lăng.
Dịch nghĩa
Xin từ tạ không có tài dâng bài phú Trường Dương,
Đã từng theo hầu xe ngọc lên thăm đất này.
Ao, đài ngày trước nay còn đây,
Hoa, chim khắp xóm thôn, mối sầu khôn xiết.
Núi vây quanh An Dã, hơi bốc lên nghi ngút,
Nước chảy dồn về Trà Giang làn sóng bạc điệp trùng.
Nấp bên ngoài hàng vạn đồn binh, về xuân tựa gấm,
Chính lúc Thiên tử nghĩ về đạo hiếu, đang triều yết nơi lăng tẩm.
9 Đề Báo Thiên tháp
Trấn áp đông tây củng đế kỳ,
Khuy nhiên nhất tháp độc nguy nguy.
Sơn hà bất động kình thiên trụ,
Kim cổ nan ma lập địa chuỳ.
Phong bãi chung linh thời ứng đáp,
Tinh di đăng chúc dạ quang huy.
Ngã lai dục thử đề danh bút,
Quản lĩnh xuân giang tác nghiễn trì.
Dịch nghĩa
Trấn áp đông tây, giữ vững Kinh kỳ nhà vua,
Tháp đứng sừng sững cao trội hẳn lên.
Non sông vững chắc, nhờ cột chống trời,
Kim cổ khó mòn, cái dùi dựng trên đất.
Gió thổi vào chuông, thường phát ra những âm thanh ứng đáp nhau,
Sao đổi ngôi tựa đèn đuốc, làm đêm rực sáng.
Ta tới đây muốn dầm ngọn bút đề thơ nơi danh thắng,
Giữ cả giòng sông xuân làm nghiên mực.
10 Đề Cam Lộ tự
Hiểu nhiếp vân yên khấu thạch phi,
Tăng phòng Phật xá phủ liên y.
Tuyết xâm lưỡng mấn phong suy lệ,
Trùng độc Mục lăng đề tự thi.
Dịch nghĩa
Buổi sớm dẫm lên khói mây, gõ vào cửa đá,
Tăng phòng, Phật điện nhìn xuống giòng nước lăn tăn.
Tuyết điểm bạc hai bên mái tóc, gió thổi rơi lệ,
Đọc lại bài thơ của vua Trần Minh Tông đề ở chùa.
Previous post
next post