Thông báo mới! TOP SHARE

Top 10 bài văn hay phân tích tình huống truyện đặc sắc trong truyện ngắn Làng của Kim Lân

  • 2,450 views
  • 4 likes
  • Add Favorite
  • Be a liked
  • Báo lỗi
  • Tài trợ

by Chanh 13-06-2022

Truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân là một trong những truyện ngắn có tình huống truyện độc đáo với những biến chuyển đầy bất ngờ nhưng vô cùng hợp lí. Tình huống truyện chính là những hoàn cảnh độc đáo mới lạ, trong đó hoàn cảnh và những nhân vật trong câu chuyện có thể bộc lộ những ý đồ nghệ thuật của tác giả một cách ấn tượng và riêng có nhất. Tình huống truyện thể hiện ý tưởng cốt lõi của tác phẩm, và cũng là sự phát triển những khoảnh khắc ấn tượng từ chất liệu cuộc sống. Chính vì thế, nhìn vào cách xây dựng tình huống truyện cũng có thể đánh giá được tài năng của những người cầm bút. Để hiểu hơn về tình huống truyện nói chung và sự độc đáo trong tình huống truyện ngắn Làng, hãy cùng đến với những bài phân tích được tham khảo và sưu tầm dưới đây bạn nhé!

6 Bài phân tích số 5
Vote
0%

4

by Chanh 13-06-2022

Nếu như nhà văn Nam Cao thành công với nhân vật Chí Phèo, Ngô Tất Tố gây tiếng vang với nhân vật chị Dậu thì không thể không nhắc đến sự thành công của Kim Lân với nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng. Kim Lân là nhà văn sống gắn bó và gần gũi với nông thôn và người nông dân nên những đề tài mà ông viết cũng xoay quanh người nông dân.

Kim Lân thành công với nhiều tác phẩm và một trong những tác phẩm đặc sắc nhất đó chính là truyện ngắn Làng. Truyện ngắn Làng được viết năm 1948 trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Đây là một câu chuyện về tình yêu làng yêu nước của ông Hai và tất cả những người nông dân nghèo khổ.

Mỗi một truyện ngắn mà nhà văn xây dựng đều có những câu chuyện và tình huống truyện rất kịch tích. Đó cũng chính là yếu tố thu hút người đọc người nghe. Và tình huống truyện trong truyện ngắn Làng cũng rất đặc sắc. Đó là nhân vật ông Hai vì chiến tranh nên phải đi tản cư rời xa cái làng Chợ Dầu mà ông yêu quý. Ông yêu làng sâu nặng đi đến đâu ông cũng khoe về làng của mình. Ông hay “nghĩ về làng của ông, nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em”.

Nhưng với khả năng xây dựng tình huống truyện tài tình Kim Lân đã tạo nên kịch tích cho câu chuyện “bỗng một ngày ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo Tây”. Tin ấy như sét đánh với một người vốn dành tình yêu rất lớn cho làng cái nơi được gọi là “chôn nhau cắt rốn”. Chính tình huống truyện éo le ấy đã tạo nên đấng bi kịch dằn vặt đau khổ trong nội tâm ông Hai.

Vì chiến tranh, vì bọc giặc tràn vào làng mà cả gia đình ông Hai phải đi tản cư. Nhưng dù đi đến vùng đất mới ông vẫn thường hay khoe về làng, khoe về bề dày lịch sử mà làng ông có được. Đến khi gặp một người ở Gia Lâm gần làng Chợ Dầu đi tản cư lên mà ông còn tự tin mà hỏi rằng: “Nó…Nó vào làng Chợ Dầu hở bác?

Thế ta giết được bao nhiêu thằng?” Với cách hỏi như thế cho thấy ông Hai lúc nào cũng tin tưởng và rất tự hào về làng Chợ dầu quý. Ngay lúc ấy có thể thấy tâm lí nhân vật ông Hai qua ngòi bút của Kim Lân vẫn rất vui. Nhưng bi kịch đã thật sự xảy ra khi ông nghe tin làng Chợ Dầu theo Tây

Khi nghe “người đàn bà ẵm con cong môi lên đỏng đảnh: có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa.” Trời ơi! Tin ấy làm ông Hai như chết lặng: “Cổ ông lão nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặn đi, tưởng như đến thở không được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ…”. Để miêu tả tâm lí và nội tâm nhân vật sắc sảo như thế có thể nói Kim Lân đã rất nhập tâm vào nhân để miêu tả chân thật và từng li từng tí như thế.

Bạn hãy thử đặt mình vào ông hai lúc ấy thì xem mình có thể còn đau khổ hơn cả ông. Biết bao tình yêu và niềm tự hào ông đều đặt vào làng Chợ Dầu. Nhưng bỗng một ngày ông nghe tin làng mình Việt gian theo Tây, theo một thứ mà mọi người đều ghét, đó là thứ bán nước. Với cái tin sốc ấy ông Hai vẫn chưa tin đó là sự thật, ông còn gắng gượng mà hỏi rằng: “Liệu có thật không hở bác? Hay chỉ là…” Ông mong tin ấy không phải là sự thật!

Trên đường đi về nhà ông Hai ngổn ngang tâm trạng “ông cúi gằm mặt mà đi” rất hổ thẹn. Nhưng phút chốc “ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà”. Liệu một người như mụ chủ nhà có chịu chấp nhận cho gia đình ông ở tiếp khi nghe tin này chăng? Với tâm lí phức tạp giằng xé nội tâm dữ dội đã tạo nên tính cách nhân vật ông Hai đúng như cách mà Kim Lân xây dựng.

Với người nông nghèo khổ ấy khi chiến tranh cuộc sống họ đã vốn khở sở lầm than lắm rồi nhưng hôm ấy nghe tin dữ như thế liệu họ có còn tinh thần mà tiếp tục lao động sản xuất phục vụ cuộc sống tiếp hay không? “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu.” Ông Hai đã khóc, ông khóc trong nỗi đau khổ tột cùng. Vừa hổ thẹn vừa đau khổ, thật sự nội tâm ông lúc này đang giằng xé dữ dội.

Lòng ông vừa tức vừa thét lên rằng: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Người nông dân vốn dĩ quanh năm chỉ gắn bó với việc đồng áng, ruộng vườn nên tình yêu làng quê của họ rất sâu đậm. khi biết tin dữ ấy ông Hai thật sự rối bời đau khổ tột cùng. Bởi, tình yêu làng của ông luôn trước sau như một. Ông là người yêu làng nhưng không mù quáng mà nói: “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.

Nhưng lúc rối rắm nhất lòng ông lại “ngờ ngợ như lời mình nói không được đúng lắm”. “Ông đã điểm lại từng người trong óc” họ đều là những người một lòng một dạ theo kháng chiến theo Cụ Hồ lẽ nào lại đi làm cái chuyện Việt Gian bán nước ấy. Kim Lân quả thật đã rất thành công trong việc miêu tả tâm lí nhân vật từ vui sướng cho đến giằng xé đau khổ tột cùng.

Ông Hai lúc ấy thoáng nghĩ hay là cả nhà cùng về lại làng nhưng làng theo Tây mất rồi. Nhưng rồi ông lại nghĩ chín chắn hơn: “Ông Hai nghĩ rợn cả người. Cả cuộc đời đen tối, lầm than cũ nổi lên trong ý nghĩ ông. Ông không thể về cái làng ấy được nữa”. Song ông không thể vứt bỏ tình yêu làng nên ông Hai càng đau xót, tủi hổ.

Trong tâm trạng bị dồn nén, không biết giải tỏa như thế nào, ông Hai chỉ còn biết trút lòng mình với đứa con nhỏ. Cuộc đối thoại giữa ông và đứa con trai đã bộc lộ thật cảm động tấm lòng gắn bó sâu sắc với làng quê, với đất nước và với kháng chiến của ông Hai. Ông nói với con mà như tự nói với chính mình, tự mình oan, tự chiêu tuyết cho mình.

Đoạn thoại, vừa chất chứa nỗi đau đớn, xót xa, lại vừa thể hiện tấm lòng thủy chung, son sắt với kháng chiến, với cách mạng, với cụ Hồ. Qua đó, có thể thấy sự thành công vượt bậc của nhà văn Kim Lân không chỉ thành công trong việc miêu tả nội tâm nhân vật mà còn rất thành công trong miêu tả đối thoại nhân vật. Tài năng của một nhà văn lớn rất đáng khâm phục

Sau những ngày âm u đen tối thì cuộc đời ông Hai khi nghe tin làng được cải chính có lẽ đã thấy được cầu vồng. Ngày hôm ấy: “Ông Hai đi mãi đến sẫm tối mới về. Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu,cặp mắt hung hăng đỏ, hấp háy,…” Vẻ ngoài nhân vật ông Hai ngày hôm ấy đặc biệt được Kim Lân miêu tả rất tỉ mỉ chi tiết và sống động như thật. Ông Hai vui lắm! Vui như vừa chết đi sống lại!

Vốn dĩ, người nông dân trước năm 1945 có tấm lòng yêu nước nồng nàn và rất ghét những con người bán nước. Có thể nói tác giả Kim Lân đã rất nhân đạo khi xây dựng cốt truyện cho truyện ngắn Làng. Ông đã không phụ lòng tin yêu của người nông dân nghèo về làng quê của họ. Chính vì thế mà nhà văn Nam Cao từng nói rằng: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thế chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp sống lầm than…” là như vậy ấy!

Với việc xây dựng tình huống truyện đặc sắc, thành công trong việc miêu tả tâm lí nhân vật,… Có thể nói truyện ngắn Làng của Kim Lân đã mang lại tiếng vang lớn trên bầu trời văn học nghệ thuật thời kháng chiến chống Pháp! Qua truyện ngắn Làng của Kim Lân ta còn có thể thấu hiểu được tinh thần yêu làng, yêu quê hương đất nước sâu đậm của những người nông dân nghèo khổ. Nhân vật ông Hai chính là đại diện cho nét tâm lí và tinh thần yêu nước sôi nổi ấy của người nông dân thôn quê thời kháng chiến chống Pháp!

7 Bài phân tích số 6
Vote
0%

4

by Chanh 13-06-2022

Nói về những nhân vật có lòng yêu nước sâu sắc trong các tác phẩm vãn học, không thể không kể đến nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân. Chính cách tạo ra tình huống truyện độc đáo để bộc lộ tính cách nhân vật là yếu tố nghệ thuật góp phần vào thành công của truyện.

Đối với mỗi tác phẩm văn xuôi thì việc xây dựng cốt truyện luôn là cần thiết và qua đó nhân vật có thể bộc lộ tâm trạng, hành động của mình. Trong tác phẩm Làng, Kim Lân đã xây dựng được cốt truyện khá là hợp lí và đặc sắc. Diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai gắn liền với diễn biến cốt truyện. Trước khi ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, ông rất yêu làng, luôn tự hào, thích khoe làng.

Nhưng khi ông nghe tin làng Dầu theo giặc, ông như biến thành một con người khác ; thay vào tình yêu làng mạnh .mẽ, lòng tự hào về làng là sự chua xót đắng cay và tủi nhục. Cái tin thất thiệt làm đau xé lòng ông Hai. Cuối cùng, tâm trạng ông Hai trở lại vui vẻ bởi tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính. Ông kể về nhà ông bị đốt với niềm vui lổn, điều này trái với quy luật tâm lí thông thường nhưng lại hợp với lô-gíc tâm lí nhân vật ông Hai, hợp với mạch truyện. Thật là một sự kết hợp đột ngột và hay.

Nghệ thuật xây dựng cốt truyện Làng đặc sắc bởi sự phát triển của cốt truyện hợp lí, nó đã diễn tả được chính xác tâm lí người nông dân Việt Nam trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp và cụ thể ở đây là nhân vật ông Hai.

Sự phát triển của cốt truyện cũng là sự phát triển tâm trạng của nhân vật chính – ông Hai trong tình huống đặc biệt. Hơn nữa cốt truyện được diễn tả rất sinh động, thành câu chuyện có giá trị nghệ thuật bằng những biện pháp nghệ thuật như độc thoại nội tâm và đối thoại,… với ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ của nhân vật rất đặc sắc. Có lẽ vì vậy mà truyện đã xây dựng được một nhân vật tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trong những ngày đầu chống thực dân Pháp với tình yêu làng, yêu nước mạnh mẽ và sâu sắc.

Tất cả tâm tư, tình cảm của ông Hai đều hướng về làng, về đất nước. Đấy là điều mà ta nhận thấy rõ nhất qua diễn biến tâm trạng trong những tình huống khác nhau của câu chuyện. Trước khi nghe được cái tin “thất thiệt” làng Chợ Dầu theo giặc, ông Hai yêu làng biết bao; ông luôn tự hào về làng và hay khoe khoang là làng mình giàu có. Nào là có nhà ngói san sát, sầm uất như trên tỉnh; đường làng lát toàn bằng gạch đá xanh; khi kháng chiến bùng nổ, cả làng Chợ Dầu tham gia rất tích cực, có phòng thông tin rất lớn.

Ông là người rất yêu làng, vốn là người rất sôi nổi, tháo vát cho nên việc đi tản cư khiến ông tù túng bó buộc trong cảnh sống đơn điệu, tẻ nhạt và bưng bít. Ông nhớ cái làng của mình hơn, cái làng đã gắn bó một đời với ông, với những kỉ niệm vui buồn riêng. Ông luôn nghĩ về cái làng của mình, nghĩ đến những ngày tháng vui vẻ làm việc với anh em. Ông rất muốn về làng để được tham gia vào kháng chiến để cùng anh em làm việc nhưng giờ đầy những công việc ấy chỉ trong tưởng tượng.

Niềm vui duy nhất của ông là ra phòng thông tin nghe ngóng. Cái nắng gay gắt lại làm ông vui: “Nắng này là bỏ mẹ chúng nó!”. Đúng vào lúc tâm trạng ông đang phấn khởi thì nhận được một tin sét đánh: cả làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây. Quá bất ngờ, ông Hai choáng váng, cái điều không bao giờ ngờ tới đã xảy ra.

Ông vẫn chưa tin làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây, cố hỏi lại với hi vọng là tin đồn: “Liệu có thật không hở bác? Hay chỉ lại…”. Cái tin thất thiệt làm đau xé lòng ông: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi như đến không thở được.”. Bình thường ông vốn là người vui tính, hay chuyện, hay nói, vậy mà giờ đây ông như biến thành người khác. Bao nhiêu căm giận, chua xót, tủi nhục cứ chực ào ra trong ông.

Làng không còn là những làng thôn ngõ xóm đẹp đẽ nữa mà là cái gì đó lớn lao hơn, là danh dự. Hiện giờ trong tâm trí ông chỉ còn hai chữ “Việt gian; bán nước”. Nhìn lũ con ông càng tủi thân: “nước mắt ông lão cứ giàn ra”, “các con ông cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư….”. Một không khí căng thẳng bao trùm đè nặng gia đình ông.

Suốt mấy ngày ông không dám ló mặt ra đường, trong lòng nóng như lửa đốt. Rồi đây người ta sẽ xua đuổi, sẽ căm hờn, ông và gia đình sẽ muôn đời chịu tiếng xấu, ông càng căng thẳng hơn khi bà chủ nhà báo tin người làng Chợ Dầu sẽ bị đuổi. Mâu thuẫn nội tâm bị đẩy đến tột cùng với sự đấu tranh khá tàn nhẫn trong con người ông. Có lúc ông muốn trở về làng nhưng lập tức phản đối ngạy: “Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.

Ông là người nông dân có tình yêu nước lớn lao. Quá đau buồn, ông nói chuyện với con nhưng thực ra là để giãi bày tâm sự của lòng mình. Tâm trạng ông Hai được thể hiện gián tiếp qua ngôn ngữ đối thoại với đứa con, nói với con nhưng chính là đang nói với mình. Mỗi lần nói ra đôi câu như thấy nỗi khổ trong lòng ông vơi đi bội phần. Ông Hai yêu làng, luôn hướng về làng dù xa cách và tấm lòng ông luôn thuỷ chung với Cụ Hồ, với kháng chiến.

Niềm hạnh phúc lớn nhất của ông là khi nghe tin làng được cải chính. Sự sung sướng của ông lên đến tột độ. Ông trở về với con người bình thường: “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy…”. Ông bô bô báo tin làng không theo giặc “Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.”. Ông còn khoe cả tin làng mình bị giặc đốt. Ngôi nhà đối với người nông dân là vô cùng quan trọng, nó là tất cả tài sản, là của cải cả một đời chân lấm tay bùn, mồ hôi nước mắt.

Lẽ ra khi nghe tin nhà bị đốt ông phải vô cùng buồn và tiếc, thế nhưng ông Hai lại vui đến cực độ. Có lẽ niềm vui lớn về danh dự của làng đã át hẳn nỗi buồn riêng tư. Vì thế mà ông Hai cứ-múa tay lên mà khoe cái tin làng không phải Việt gian, nhà ông bị đốt nhẵn. Ông Hai là người yêu lầng tha thiết, sâu sắc, tình yêu làng của ông gắn bó với tình yêu quê hương đất nước.

Qua truyện ngắn Làng ta thấy được hình ảnh một người nông dân thuần phác, nhiệt thành, trong trái tim nhân hâu của ông luôn có làng quê đất nước. Tình cảm trung hậu và sâu sắc ấỵ chính là phẩm chất của người nông dân ở nhân vật ông Hai.

8 Bài phân tích số 7
Vote
0%

4

by Chanh 13-06-2022

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi

Không biết tự bao giờ mà tình yêu đất nước quê hương đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận dành cho các nhà văn nhà thơ. Nó như một kim chỉ nam xuyên suốt các tác phẩm xưa và nay. Và thật là thiếu sót nếu như lướt qua nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “làng” của nhà văn Kim Lân. Đây chính là một điển hình tiêu biểu cho tình yêu đất nước quê hương, thứ tình cảm thiêng liêng cao quý nhất trên đời.

Cốt truyện được ví như xương sống của một con người, nó chi phối mạch nguồn cảm xúc của toàn bộ tác phẩm. Ở đó nhân vật thể hiện những suy nghĩ, hành động của mình từ đó thể hiện toàn bộ tư tưởng chủ đề mà người viết muốn gửi gắm. Ở trong truyện ngắn Làng nhà văn Kim Lân đã xây dựng một cốt truyện vô cùng đặc sắc, nó gắn liền với diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai.

Trước khi nghe tin dữ làng chợ Dầu theo giặc ông là một người lạc quan yêu đời, luôn một lòng tự hào về quê hương bản xứ của mình. Thế nhưng khi nghe tin làng mình theo Tây tâm trạng ông bỗng chốc thay đổi từ chỗ tự hào dần chuyển sang mặc cảm và phẫn uất, thậm chí tủi nhục cay đắng. Để rồi cuối cùng khi có tin cải chính ông quay lại trở về là một người vui mừng khôn xiết. Diễn biến này vô cùng hợp lí và logic lại phù hợp với mạch truyện và tâm lí nhân vật.

Nghệ thuật xây dựng cốt truyện hợp lí và đặc sắc nó khắc họa hết tâm lí người nông dân trong xã hội cũ mà cụ thể là ông Hai. Sự phát triển của tâm lí nhân vật trùng khớp với sự phát triển của cốt truyện. Đặc biệt nghệ thuật xây dựng tình huống độc thoại nội tâm và đối thoại nội tâm bằng những ngôn ngữ vô cùng đặc sắc đã phần nào để độc giả hình dung được một bức tranh người nông dân trong những ngày đầu chống thực dân Pháp.

Tất cả tâm tư tình cảm của ông Hai đều hướng về làng về nước. Điều đó thể hiện rất rõ thông qua những tình huống khác nhau. Trước khi nghe cái tin dữ làng chợ Dầu theo giặc ông Hai là một người luôn tự hào và khoe về cái làng của mình. Nào là đường làng ông lát đá xanh, nhà ngói san sát sầm uất như trên tỉnh, nào là có cái cột phát thanh cao bằng ngọn tre chiều chiều cả làng lại thi nhau nghe tin đánh giặc….

Ông cũng vô cùng yêu nơi mình chôn nhau cắt rốn nên mặc dù có lệnh tản cư ông vẫn khăng khăng muốn bám đất giữ làng cùng bộ đội nhưng vì hoàn cảnh riêng nên ông phải đi. Những năm tháng sống trên vùng tản cư niềm vui duy nhất của ông đó là nhớ lại quãng thời gian gắn bó với mảnh đất quê hương, nhớ lại những ngày chiến đấu cùng anh em và chạy lên phòng thông tin nghe tin tức về làng chợ Dầu.

Thế nhưng đúng lúc niềm vui đến thì cũng là lúc ông nghe tin đồn thất thiệt “Cả làng chợ Dầu Việt gian theo Tây”. Ông cố gắng xác minh lại trong cái tin ấy xem có phải là thất thiệt không. “liệu có thật không hở bác? Hay chỉ là….” nhưng đáp lại ông chỉ là cái gật đầu xác nhận và những lời nói gay gắt “ Cả làng nó theo Tây từ thằng chủ tịch trở xuống”. Mặt ông lão như tái đi, cổ họng nghẹn ắng lại ông như lặng đi đến không thể nổi.

Bình thường ông là người hay nói vui tính nhưng hôm nay ông trở về lầm lũi rồi nằm vật ra giường. Lũ con thấy vậy cũng chẳng dám hó hé chào hỏi cười đùa. Trong đầu ông bây giờ chỉ còn tồn tại hai chữ “việt gian”, “bán nước”, “theo Tây”…. Ông gắt gỏng ngay cả với người đầu ấp tay gối với mình khi được hỏi về cái tin theo tây ấy. Nỗi đau dường như càng xéo xắt khi bà chủ nhà cũng có ý muốn đuổi cả nhà ông đi.

Ông như lặng người nhìn đàn con mà đau xót, “ừ thì ra nó là con làng Việt gian đấy”. Suốt mấy ngày ông chẳng dám vác mặt ra đường vì sợ sẽ gặp phải những cái nhìn soi mói, những cải chỉ chỏ chỉ vì là dân làng Việt gian. Nỗi đau đớn xé lòng đã đẩy ông đi đến một quyết định đầy đau xót “làng thì yêu thật nhưng nếu làng theo tây thì phải thù”. Ông nói chuyện với các con nhưng thực ra đó là cuộc đối thoại nội tâm đầy cắn rứt. Mỗi câu nói ra ông cảm thấy mình như nhẹ đi bội phần. Ông yêu làng hướng về làng dù có muôn trùng xa cách.

Niềm vui như trở về với con người ấy, gia đình ấy khi ông nghe tin làng chợ Dầu theo tây được cải chính bởi chính ông chủ tịch xã. Ôi cái cuộc đời này sao mà đẹp đến thế nó như khiến ông hồi sinh thêm một lần nữa. Cái mặt buồn thỉu mấy ngày nay đã rạng rỡ hẳn lên. Ông mua kẹo chia cho các con rồi lại chạy khắp nơi để thanh minh rằng làng mình không bán nước. Ông còn khoe cái tin làng mình bị giặc đốt. Dường như sự mất mát về của cải không làm ông đau đớn bằng việc đánh mất đi niềm tin chỗ dựa dẫm về tinh thần.

Sự lặp đi lặp lại của tâm lí nhân vật ông Hai cũng vô cùng hợp lí nó là đại diện cho suy nghĩ của tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội cũ trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Bằng tài năng của mình, Kim Lân đã tạo nên một cốt truyện vô cùng đặc sắc và thú vị. Nó chính là cái tài mà không phải nhà văn nào cũng có thể làm được.

9 Bài phân tích số 8
Vote
0%

4

by Chanh 13-06-2022

Kim Lân là một trong những nhà văn luôn hướng các tác phẩm của mình vào cuộc sống ở làng quê Việt Nam. Có người đã cho rằng chính từ những bức tranh nông thôn bình dị ấy, ông đã tìm ra phong cách cho riêng mình và đã thể hiện tài năng sáng tạo của một cây bút văn xuôi xuất sắc trong văn học hiện đại Việt Nam.

Những trang viết mộc mạc của ông đã gợi cho chúng ta biết bao điều sâu sắc, để ta thêm yêu mến, trân trọng những người dân lao động trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định. Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng là một điển hình như vậy. Có theo dõi diễn biến sự phát triển của cốt truyện hấp dẫn, đặc sắc này mới hiểu được vì sao người đọc yêu mến và khâm phục Kim Lân!

Cũng viết về tình yêu quê hương đất nước trong chiến tranh nhưng tác phẩm của Kim Lân không có bom rơi đạn nổ, không có đổ máu mà đơn thuần chỉ có con người với một tấm lòng và những tình cảm thiêng liêng, sâu sắc. Diễn biến tâm lí và sự phát triển tính cách của ông Hai đã làm nên toàn bộ cốt truyện. Ớ nhân vật này, tình cảm chủ đạo xuyên suốt tác phẩm là lòng yêu làng xóm quê hương tha thiết, lòng yêu nước sâu nặng!

Ngay từ đầu, tình cảm của ông Hai đã được khắc hoạ khá đậm nét đó là tình yêu làng quê mang đậm tính truyền thống. Làng Chợ Dầu của ông Hai là nơi ông sinh ra và lớn lên, nơi ông đã gắn bó bằng một thứ tình cảm máu thịt. Ông đã từng tự nhủ lòng “mình sinh sống ở làng này từ tấm bé đến bây giờ. Ông cha cụ kị mình xưa kia cũng ở cái làng này bao nhiêu đời nay…”.

Cho nên, ông không thể không yêu từng con đường đất, từng nếp nhà tranh đơn sơ, từng thửa ruộng, từng ngọn cỏ, cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay hay con đường làng lát toàn đá tảng. Ông tự hào và hãnh diện về làng mình ở vô cùng. Tình cảm đó trải qua nhiều biến cố lịch sử đã trở thành những thử thách của “lửa thử vàng”, tôi luyện phẩm chất con người.

Trước Cách mạng tháng Tám, vì yêu làng quê mình quá ông đâm biến thành người hay khoe. Nghe những lời giới thiệu đầy vẻ khoe khoang của ông khiến bà con bên ngoại “mắt tròn mắt dẹt” vì kinh ngạc, chúng ta thấy vừa buồn cười lại vừa đáng quý tấm lòng của ông. Ông cứ hồn nhiên coi làng mình là nhất ở trên đời này, dù rằng những thứ để khoe đâu có phải của riêng ông, đâu có đem lợi lại cho bà con dân làng ông…!

Phải cho đến khi Cách mạng về, ý thức được người dân làng ông quá khổ vì bị áp bức nay được đổi đời, có cơm ăn áo mặc, không còn bị nô lệ thì những phẩm chất đáng quý trước kia nay được thể hiện khác lạ hẳn. Ông vẫn thích kể chuyện làng, vẫn thích khoe một cách say sưa về làng mình.

Nhưng mỗi lời của ông lúc này chứa đầy sự giác ngộ về cách mạng, về ý thức giai cấp mà ông là người trực tiếp tham gia trong đó. Lúc này đây, lòng yêu quý làng quê của người nông dân làng Chợ Dầu đã trở thành một phẩm chất đáng quý, một tính cách đáng trân trọng của nhân vật.

Từng bước một, câu chuyện dẫn dắt chúng ta tới mảnh đất miền trung du, nơi ông Hai cùng bà con dân làng đã đến tản cư. Xa làng, tình cảm đối với quê nhà của người dân tản cư, rõ nhất là qua ông Hai, càng làm nổi bật sự phát triển của cốt truyện. Vì kháng chiến mà họ rời làng đi xa, nhưng có phút giây nào lòng họ không ngóng về quê hương. Nỗi nhớ cồn cào, da diết của họ đã chứa đựng trong câu ca xưa:

Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương…

Đến nơi mới này cái bệnh “khoe làng” của ông Hai vẫn không thay đổi. Nó càng sâu sắc hơn để biến thành nét tính cách riêng biệt. Ngày bận rộn sản xuất thì thôi chứ chiều tối ông không sao chịu đựng nổi sự gặm nhấm của nỗi lòng, của tiếng rì rầm đếm tiền hàng của bà vợ. Hình như được chia sẻ đã trở thành nhu cầu bức thiết, làm vơi đi những tâm tư đang chất chứa trong lòng của ông lão vốn quen cởi mở, giãi bày.

Ông lại sang hàng xóm khoe về cái làng nhỏ như để vơi đi phần nào sự mong nhớ. Chỉ có lúc ấy ông mới trở nên có khí sắc, mới thực sự được sống với bao kỉ niệm đẹp đẽ, với niềm tự hào của một tình yêu làng tha thiết, nồng nàn nhất. Sự phát triển của câu chuyện khiến ta xúc động vô cùng trước tình cảm trong sáng, thuần khiết và hồn hậu của một người nông dân chân chất, ít học!

Như vậy, Cách mạng về, kháng chiến bùng nổ không chỉ đem lại sự đổi đời cho nhân vật mà nó còn tạo cơ hội để nhân vật bộc lộ tấm lòng và tình cảm của mình với quê hương, đất nước. Trước, cái sinh phần viên tổng đốc làng ông lúc nào cũng khiến ông hãnh diện. Tình yêu làng của ông lão nhà quê bây giờ đầy kiêu hãnh, vì làng Chợ Dầu không chỉ đẹp mà còn đánh giặc rất hăng.

Có thế, ông với bà con dân làng mới phải đi tản cư để dân quân du kích làng ông còn chiến đấu với lũ đầu trâu mặt ngựa đó chứ! Phải chăng, khi phải rời quê đi tản cư, bao chuyện vui buồn của quá khứ và hiện tại cứ chất chứa tràn đầy và nồng ấm trong ông!

Cái tin thất thiệt làng Chợ Dầu theo giặc và tin đó được cải chính sau này là những tình huống bất ngờ đầy kịch tính của truyện. Ngòi bút của Kim Lân đã đẩy cốt truyện phát triển đến đỉnh điểm. Hai tình huống trên được đặt vào phần sau của truyện tựa như có một sức hút lạ kì, lôi cuốn người đọc theo dõi sự phát triển tính cách của một người đã yêu làng bằng cả trái tim mình. Hình ảnh “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân” như nói lên được tấm lòng đầy nghĩa tình của ông với kháng chiến, với Cụ Hồ.

Nỗi buồn khổ vì tin làng phản bội như một nhát dao cứa vào tim ông, làm sụp đổ bao niềm kiêu hãnh về làng quê của mình. Ông thấy tủi hổ cho bản thân ông, cho gia đình ông, cho cái làng Chợ Dầu và cả dân làng nơi đó nữa. Nhà văn diễn tả tâm trạng của nhân vật chính này như một sự bất lực, tuyệt vọng. Và cũng chính lúc này, ông nhận ra vẻ đẹp của lòng yêu nước ẩn chứa trong tâm hồn những người khác nữa.

Từ mụ chủ nhà xấu người xấu nết mà hễ cứ thấy mặt là ông lại ghét cay ghét đắng, hay người đàn bà tản cư ngồi cho con bú với câu chửi đổng bâng quơ và còn bao người dân khác nữa. Tất cả họ đều sẵn sàng nhường cơm sẻ áo, chia nhà chia cửa cho đồng bào của mình khi có hoạn nạn, khó khăn, nhất là khi có hoạ ngoại xâm. Nhưng cũng chính họ đã phản ứng quyết liệt trước sự phản bội và không nhân nhượng với bất cứ ai hèn nhát đầu hàng hay chỉ cần là dân của một làng đã đi theo giặc.

Mong nhớ và chờ đợi từng ngày từng giờ được trở về làng vậy mà lòng ông thắt lại, và đã dứt khoát với chính mình: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Phải chăng, đến đây diễn biến của chuyện đã để cho tình yêu Tổ quốc rộng lớn thực sự vượt lên trên tình yêu làng xóm, quê hương vốn nhỏ bé trong trái tim nhân hậu, giàu tình cảm của ông Hai.

Lời tâm sự của ông với cậu con trai út, nhất là những giọt nước mắt cứ trào ra, chảy dài trên khuôn mặt một người vất vả, đã sống qua mấy chế độ, từng trải cũng nhiều. Ông khóc như thế “để ngỏ lòng mình, minh oan lại cho mình”. Bản chất tốt đẹp của chế độ, ý nghĩa cao cả của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã khiến cho tình cảm truyền thống của người nông dân có nhiều biến chuyển sâu sắc.

Câu chuyện còn đưa ta đến với một chi tiết rất thú vị, độc đáo. Đó là niềm vui sướng, hoan hỉ của ông khi rối rít đi khoe “Tây nó đốt làng tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn.”. Có lỗ ông Hai là người duy nhất trên thế giới này vui sướng khi bị đốt nhà cửa, làng xóm. Phải đặt vào hoàn cảnh lịch sử của câu chuyện mới hiểu việc mất mát đó chứng tỏ được tinh thần chống giặc của làng Chợ Dầu quyết liệt như thế nào.

Niềm hạnh phúc của người nông dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp là được đánh đổi tất cả để đất nước được độc lập, người dân được sống yên bình, êm ả nơi quê cha đất tổ của mình. Không khí thiêng liêng của thời khắc lịch sử đã xóa bỏ được những gì vốn nhỏ hẹp, tư hữu có từ lâu đời ở người nông dân.

Phải chăng, Ê-ren-bua đã nói đúng trong trường hợp này, tình cảm của các nhân vật trong truyện khác nào “dòng suối đã đổ ra sông, dòng sông lại đã đổ ra biển” để tình yêu làng xóm quê hương mở rộng ra hòa vào tình yêu Tổ quốc, tình yêu cách mạng lớn lao.

Toàn bộ tác phẩm đã nêu lên một ý nghĩa sâu sắc, đó là sự thay đổi lớn lao về nhận thức của người nông dân trong thời kì đầu kháng chiến chống thực dân Pháp. Cốt truyện không phức tạp, dài dòng, ngược lại rất đơn giản, dễ hiểu nhưng đầy bất ngờ, lôi cuốn.

Từ những việc tưởng như bình thường nhỏ bé nhờ sự phát triển hợp lí và tài tình của diễn biến cốt truyện mà chứa đựng bên trong những ý nghĩa hàm ẩn sâu sắc, lớn lao. Để cốt truyện phát triển song hành cùng diễn biến tâm lí nhân vật là một thành công trong phong cách sáng tác của nhà văn. Phải nói rằng, Kim Lân rất giỏi trong việc “đãi cát” để “lấy được vàng”.

Làng khép lại trong một dư âm nhẹ nhàng của sự hòa quyện giữa tình yêu làng quê với tình yêu đất nước của người nông dân nói riêng và người Việt Nam nói chung.

10 Dàn ý phân tích chi tiết
Vote
100%

4

by Chanh 13-06-2022

I. Mở bài phân tích tình huống truyện Làng:

  • Giới thiệu tác phẩm Làng của Kim Lân.
  • Giới thiệu nội dung cần phân tích – tình huống truyện là yếu tố nghệ thuật góp phần chính vào thành công của tác phẩm Làng.

II. Thân bài phân tích tình huống truyện Làng:

-Cốt truyện của truyện ngắn Làng của Kim Lân gắn với tâm trạng ông Hai.

–Diễn biến cốt truyện:

+Tình yêu làng của ông Hai trước Cách mạng:

  • Đi tản cư nhưng luôn nhớ và tự hào về những năm tháng được cùng anh em, dân làng mình đắp đập, xây ụ chống giặc.
  • Nôn nao, náo nức khi nghĩ về những hầm đường bí mật của làng, những chòi gác những chòi gác đầu làng.
  • Dẫu xa quê nhưng bóng hình làng ông vẫn luôn nâng niu, trân trọng và dõi theo

+Khi nghe tin làng theo giặc:

  • Không tin vào tai mình, cố trấn an rồi lắp bắp, giọng lạc hẳn như để cố kiểm tra lại cái tin ấy một lần nữa.
  • Cố lảng tránh sang chuyện khác để ra về
  • Về đến nhà, ông nằm vật ra trên giường chẳng buồn nói năng gì
  • Suốt mấy ngày không ra khỏi nhà, chột dạ khi nghe người khác bàn tán
  • Đấu tranh tâm lý có nên quay về làng
  • Quyết tâm không trở về để giữ trọn lòng trung thành với cách mạng, với cụ Hồ

+Khi tin làng theo giặc được cải chính:

  • Hạnh phúc vỡ oà
  • Mặt buồn thiu mọi ngày bỗng vui hẳn lên
  • Đi khắp nơi khoe nhà bị đốt, kể những chiến công của làng

-Nghệ thuật dựng cốt truyện Làng:

  • Sự phát triển của cốt truyện hợp lí: diễn tả được chính xác tâm lí người nông dân Việt Nam những ngày đầu chống Pháp.
  • Sự phát triển của cốt truyện cũng là sự phát triển tâm trạng nhân vật chính (ông Hai) trong tình huống đặc biệt.
  • Cốt truyện được diễn tả sinh động thành câu chuyện có giá trị nghệ thuật bằng biện pháp độc thoại nội tâm, bằng đối thoại. Ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật đặc sắc.
  • Nhờ đó, truyện đã xây dựng được một nhân vật tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam những ngày đầu chống Pháp với tình yêu làng, yêu nước sâu sắc.

III. Kết bài phân tích tình huống truyện Làng:

  • Truyện ngắn Làng của Kim Lân đã thể hiện tài năng kể chuyện của Kim Lân.
  • Truyện cũng cho ta hiểu về tình yêu làng gắn với tình yêu nước cao cả của người nông dân Việt Nam.
Trên đây là một số phần tóm tắt ngắn gọn và phân tích chi tiết tình huống truyện độc đáo trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân. Hy vọng những nội dung trên có thể giúp ích cho bạn trong quá trình tìm hiểu tác phẩm bạn nhé!

Tears in Heaven