Âm nhạc là một thứ gì đó không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi người. Nhạc cụ các dân tộc Việt Nam có nhiều loại khác nhau. Những nhạc cụ đó dùng để đệm cho hát, múa, độc tấu, hoà tấu... Để tạo nên được một bài nhạc hoàn chỉnh thì không thể nào không thừa nhận sự góp mặt của các nhạc cụ âm nhạc. Nhưng hôm nay không phải là những nhạc cụ phương tây hiện đại và thân thuộc mà là nhạc cụ dân tộc có thể khá xa lạ với mọi người. Cùng tham khảo về 10 loại đàn dân tộc mà được sử dụng nhiều !
6 Đàn Bầu
Đàn bầu hay độc huyền cầm, là một loại nhạc cụ truyền thống của người Việt, thanh âm phát ra nhờ sử dụng que hay miếng gảy vào dây. Dựa theo cấu tạo của hộp cộng hưởng, đàn bầu chia hai loại là đàn thân tre và đàn hộp gỗ. Đàn bầu có mặt phổ biến ở các dàn nhạc cổ truyền dân tộc Việt Nam. Đàn bầu có mặt phổ biến ở các dàn nhạc cổ truyền dân tộc Việt Nam. Các nhạc sĩ Việt Nam đã biên soạn và chuyển soạn một số tác phẩm dạng concerto để nghệ sĩ sử dụng đàn bầu trình tấu cùng với dàn nhạc giao hưởng thính phòng như Vì Miền Nam, Ru con, Tình ca...
7 Đàn Nhị
Đàn nhị là nhạc cụ thuộc bộ dây có cung vĩ, do đàn có 2 dây nên gọi là đàn nhị, có xuất xứ từ Ấn Độ và vùng Trung Á, được du nhập vào Trung Quốc từ thế kỷ I đến thế kỷ III sau công nguyên từ người Hồ trong thời kỳ thịnh đạt của "Con đường tơ lụa". Đàn xuất hiện ở Việt Nam khoảng thế kỷ X. Tuy phổ biến tên gọi "đàn nhị", nhiều dân tộc tại Việt Nam còn gọi đàn bằng tên khác nhau. Người Kinh gọi là líu hay nhị líu (để phân biệt với "nhị chính"), người Mường gọi là "Cò ke", người miền Nam gọi là Đờn cò.
8 Đàn Tranh
Đàn tranh - còn được gọi là đàn thập lục hay đàn có trụ chắn, là nhạc cụ truyền thống của người phương Đông, có xuất xứ từ Trung Quốc. Đàn thuộc họ dây, chi gảy; ngoài ra họ đàn tranh có cả chi kéo và chi gõ. Loại 16 dây nên đàn còn có tên gọi là đàn Thập lục. Nay đã được tân tiến thành 21 - 25, 26 dây. Ngoài khả năng diễn tấu giai điệu, ngón chơi truyền thống của đàn tranh là những quãng tám rải hoặc chập và ngón đặc trưng nhất là vuốt trên các dây và gảy dây,ngoài ra có cả dạng dùng vĩ kéo hay dùng que gõ.
9 Đàn Tỳ Bà
Đàn tỳ bà là tên gọi một nhạc cụ dây gảy của người phương Đông được phổ biến nhất ở Trung Quốc, qua thời gian dài sử dụng nó đã được bản địa hóa khác nhau tuỳ theo từng vùng hoặc từng quốc gia Á Đông. Đàn tỳ bà có từ thời Trung Hoa cổ đại, theo một số ghi chép là khoảng hơn 2000 năm lịch sử.[2]. Truyền thuyết Trung Quốc cho rằng, xưa kia có một Tán Viên lực ngoại dùng ngọc thạch chôn hàng ngày năm mà luyện nên nhạc khí, không ngờ bị thất bại nên vứt bỏ. Lúc này có một Kiều Nữ đi ngang qua lấy về sửa lại và nó gọi là "tỳ bà".
10 Đàn Tam Thập Lục
Tam thập lục là nhạc khí dây trong âm nhạc Việt Nam, là chi gõ của nhạc cụ phương Tây du nhập tới các nước Châu Á, cải biến từ đàn dương cầm Trung Quốc. Đàn có 36 dây nên được gọi là Tam Thập Lục. Đàn Tam Thập Lục của Việt Nam có một chiều dài lịch sử bắt nguồn từ quốc gia Ba Tư có tên là santur được chế tác vào khoảng thể kỷ thứ XII. Đến khoảng thế kỷ XVIII nó du nhập vào Triều Tiên, Trung Hoa và Đông Nam Á. Đàn Tam Thập Lục du nhập vào Việt Nam khoảng thập niên 60 qua người Hoa ở Chợ Lớn, Sài Gòn.
Previous post
next post
bài viết cùng người đăng