Thông báo mới! TOP SHARE

Top 10 phương ngữ tiếng Trung nổi tiếng nhất

  • 7,284 views
  • Add Favorite
  • Be a liked
  • Báo lỗi
  • Tài trợ

by Thế Vũ Phạm 11-03-2021

Tiếng Trung, hay tiếng Trung Quốc, Hán ngữ là ngôn ngữ vô cùng phổ biến và có tầm ảnh hưởng rộng rãi trên khắp thế giới. Theo thông kê của nhiều tổ chức uy tín, tiếng Trung là ngôn ngữ mẹ đẻ của gần 1,5 tỷ người và là một trong các ngôn ngữ chính thức của Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, nhiều người nhầm tưởng tiếng Trung chỉ là tiếng Quan Thoại, mà thực ra còn rất rất nhiều những phương ngữ Hán ngữ thú vị khác mà chúng ta chưa biết. Sau đây, chúng ta hãy cùng tìm hiểu top 10 phương ngữ Hán ngữ vô cùng thú vị nhé!

6 Tiếng Tương
Vote
0%

by Thế Vũ Phạm 11-03-2021

Tiếng Tương giao tiêp

Tiếng Tương (chữ Hán giản thể: 湘语, phồn thể: 湘語, Hán-Việt: Tương ngữ), còn gọi là tiếng Hồ Nam (chữ Hán: 湖南话, Hán-Viêt: Hồ Nam thoại), là một trong những nhóm ngôn ngữ chính của các ngôn ngữ Hán, được dùng chủ yếu tại tỉnh Hồ Nam, cũng như tại phía bắc tỉnh Quảng Tây và một số nơi tại Quý Châu, Hồ Bắc. Các học giả chia tiếng Tương thành 5 nhóm là Lâu Thiệu, Trường Ích, Thần Tự, Hành Châu và Vĩnh Toàn.

Tiếng Tương có vai trò quan trọng trong lịch sử Trung Quốc hiện đại, đặc biệt như phong trào Tự Cường (自强運動), một trăm ngày Duy Tân (百日維新), Cách mạng Tân Hợi, Quốc-Cộng nội chiến lần thứ hai. Một số nhân vật nói tiếng Tương (tiếng Hồ Nam) nổi tiếng như Mao Trạch Đông, Tả Tông Đường, Hoàng Hưng,...

Tiếng Tương bị ảnh hưởng bởi tiếng Quan thoại khá mạnh. Bên cạnh đó, nó bị chia làm tiếng Tương mới (màu xanh lam) với phương ngữ đại diện là tiếng Trường Sa; tiếng Tương cũ (màu vàng đậm) với phương ngữ đại diện là tiếng Song Phong.

Huyện Toàn Châu ở địa cấp thị Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây xưa kia thuộc tỉnh Hồ Nam. Thời Minh, huyện này bị chia sang tỉnh Quảng Tây, khiến Toàn Châu trở thành huyện có nhiều người nói tiếng Tương ở Quảng Tây.

7 Tiếng Khách Gia
Vote
0%

by Thế Vũ Phạm 11-03-2021

Người Khách Gia ở Việt Nam

Tiếng Khách Gia hay tiếng Hẹ, (chữ Hán giản thể: 客家话, chữ Hán phồn thể: 客家話, âm tiếng Hakka: Hak-ka-fa/-va, bính âm: Kèjiāhuà, âm Hán-Việt: Khách Gia thoại) là ngôn ngữ giao tiếp của tộc người Khách Gia sống chủ yếu ở vùng Đông Nam Trung Quốc và hậu duệ của họ sống rải rác khắp khu vực Đông Á và Đông Nam Á, cũng như trên toàn thế giới.

Tên gọi Khách Gia có nghĩa là "những người khách" (từ nơi khác đến). Bản thân người Khách Gia gọi ngôn ngữ của chính họ là Hak-ka-fa (-va) 客家語 (Khách Gia ngữ), Hak-fa (-va) (Khách ngữ), 客語, Tu-gong-dung-fa (-va) 土廣東話 (Thổ Quảng Đông thoại).

Trong số các thổ âm của tiếng Khách Gia thì thổ âm Moi-yen/Moi-yan (梅縣, âm tiếng Hán phổ thông: Méixìan, âm Hán-Việt: Mai huyện) ở vùng Mai huyện, đông bắc tỉnh Quảng Đông, thường được coi là dạng chuẩn của tiếng Khách Gia.

Sở Giáo dục tỉnh Quảng Đông năm 1960 đã tạo ra hệ chữ viết Latinh chính thức cho phương ngữ này, một trong 4 thứ tiếng đạt được quy chế này ở Quảng Đông.

Ngôn ngữ Khách Gia có nhiều thổ âm sử dụng ở các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, Giang Tây, Tứ Xuyên, Hồ Nam, Quý Châu và các đảo Hải Nam và Đài Loan. Tiếng Khách Gia và hầu hết các tiếng (phương ngữ) khác cùng thuộc Hán ngữ như tiếng Quan thoại, tiếng Quảng Đông, tiếng Mân không thể hiểu lẫn nhau.

8 Tiếng Tấn
Vote
0%

by Thế Vũ Phạm 11-03-2021

Nghe thử tiếng Tấn

Tiếng Tấn (giản thể: 晋语; phồn thể: 晉語; bính âm: jìnyǔ) là một tập hợp các dạng tiếng Trung Quốc ở miền Bắc Trung Quốc, với chừng 63 triệu người nói. Phân bố địa lý của nó trùm lên hầu hết tỉnh Sơn Tây (trừ thung lũng sông Phần), phần lớn miền trung Nội Mông cùng những vùng lân cận của Hà Bắc, Hà Nam, và Thiểm Tây. Những nhà ngôn ngữ học có ý kiến trái chiều về bản chất tiếng Tấn: một bộ phận coi nó như một phần của Quan thoại, phần khác tách nó ra thành nhánh riêng.

Không như hầu hết dạng Quan thoại, tiếng Tấn có một âm tắc thanh hầu cuối từ: dấu vết của các âm tắc cuối từ trước đó (/p/, /t/ và /k/). Đây là nét chung có với Quan thoại cổ thời nhà Nguyên (chừng thế kỷ XIV) và một số dạng tiếng Trung miền nam. Trong tiếng Trung trung đại, âm tiết kết thúc bằng âm tắc không có thanh điệu; tuy vậy, những nhà nghiên cứu tiếng Trung ưa xếp những từ có kiểu âm tiết như vậy vào một lớp thanh riêng, gọi là "nhập thanh". Âm tiết kết bằng âm tắc thanh hầu trong Tấn vẫn không có thanh điệu, hay, nói cách khác, tiếng Tấn đã giữ lại nhập thanh.

Không như hầu hết dạng Quan thoại, tiếng Tấn có một âm tắc thanh hầu cuối từ: dấu vết của các âm tắc cuối từ trước đó (/p/, /t/ và /k/). Đây là nét chung có với Quan thoại cổ thời nhà Nguyên (chừng thế kỷ XIV) và một số dạng tiếng Trung miền nam. Trong tiếng Trung trung đại, âm tiết kết thúc bằng âm tắc không có thanh điệu; tuy vậy, những nhà nghiên cứu tiếng Trung ưa xếp những từ có kiểu âm tiết như vậy vào một lớp thanh riêng, gọi là "nhập thanh". Âm tiết kết bằng âm tắc thanh hầu trong Tấn vẫn không có thanh điệu, hay, nói cách khác, tiếng Tấn đã giữ lại nhập thanh.

9 Tiếng Huy Châu
Vote
0%

by Thế Vũ Phạm 11-03-2021

Phim nói tiếng Huy Châu

Tiếng Huy Châu (giản thể: 徽州话; phồn thể: 徽州話; bính âm: Huīzhōu-huà) hoặc tiếng Huy (giản thể: 徽语; phồn thể: 徽語; bính âm: Huīyǔ), là một nhóm các ngôn ngữ Hán được nói ở khu vực Huy Châu, trong khoảng mười huyện miền núi miền nam An Huy, và một vài khu vực lân cận ở Chiết Giang và Giang Tây.

Mặc dù khu vực nói tiếng Huy nhỏ hơn so với các nhóm phương ngữ khác của tiếng Hán, nhưng nó có mức độ đa dạng nội tại rất cao. Gần như mọi huyện đều có phương ngữ riêng không thể thông hiểu với người nói từ huyện khác. Vì lý do này, người nói tiếng Huy thường nói song ngữ hoặc đa ngữ. Ước tính có khoảng 4,6 triệu người nói tiếng Huy Châu.

Trong triều đại nhà Minh và nhà Thanh, nhiều người nói tiếng Giang Hoài đã di cư đến khu vực nói tiếng Huy.

Một số tác phẩm văn học được xuất bản tại Dương Châu, như cuốn tiểu thuyết Thanh Phong Sạp, được sáng tác bằng Quan thoại Giang Hoài. Người dân ở Dương Châu nói phương ngữ riêng, trái ngược với người di cư nói các phương ngữ khác như tiếng Huy Châu hoặc tiếng Ngô. Điều này dẫn đến sự hình thành bản sắc dựa trên phương ngữ. Thời xưa, một số lớn thương nhân từ Huy Châu sống ở Dương Châu, giúp giữ ổn định nền kinh tế nơi đây. Vào hậu kỳ thời đế quốc, những thương nhân như vậy cũng giúp hoạt động nhạc, kịch tiếng Huy phát triển

10 Tiếng Bình
Vote
100%

by Thế Vũ Phạm 11-03-2021

Tiếng Bình Thoại

Tiếng Bình hay Bình thoại (giản thể: 平话; phồn thể: 平話; bính âm: Pínghuà; Yale: Pìhng Wá; đôi khi được gọi là 廣西平話/广西平话) là một nhóm phương ngữ tiếng Trung Quốc được nói ở chủ yếu tại Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, với một số người nói tại Vân Nam. Tiếng Bình là ngôn ngữ giao thương tại vài vùng thuộc Quảng Tây. Một bộ phận người nói tiếng Bình được xác định là người Tráng và có những điểm khác biệt với người Hán chiếm đa số.[2] Nhóm phương ngữ bắc tiếng Bình tập trung tại Quế Lâm và nhóm nam tập trung tại Nam Ninh. Nam Bình thoại có nhiều đặc điểm đáng chú ý như có 4 nhập thanh khác nhau (入声), nhiều từ mượn tiếng Tráng, và từ wei ở cuối câu mệnh lệnh.

Vì đã được công nhận là một nhóm phương ngữ riêng, Bình Thoại ngày một được tập trung nghiên cứu. Năm 2008 một báo cáo của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc ghi nhận sự tăng lên về số lượng tài liệu nghiên cứu và thẩm tra Bình Thoại, từ 7 trước khi phát hành Trung Quốc Ngữ Ngôn Địa Đồ Tập năm 1987, đến 156 trong thời gian từ đó đến 2004

Nghiên cứu tại Quảng Tây vào thập niên 1950 đã ghi nhận những phương ngôn mà khi đó được gộp vào nhóm Việt (Yue, tiếng Quảng Đông), song khác biệt với các phương ngôn nói tại Quảng Đông. Bình thoại được xác định là một nhóm phương ngữ riêng, tách biệt với Việt ngữ, bởi Viện Khoa học xã hội Trung Quốc vào thập niên 1980 và từ đó được nhìn nhận như thế từ đó đến nay.

Trên đây là 10 phương ngữ vô cùng nổi tiếng tại Trung Quốc. Quả thật, Trung Quốc là một quốc gia có văn hóa đa dạng phải không nào. Bạn còn chần chừ gì nữa mà không học ngay một thứ tiếng Trung để đi du lịch quốc gia này nào! Bạn ấn tượng với phương ngữ nào nhất? Hãy để lại ý kiến bằng cách Vote nhé. Xin chào và hẹn gặp lại.

bài viết cùng người đăng

Tears in Heaven