Truyện đa dạng với nhiều thể loại trong đó truyện ngắn là một loại truyện được khá nhiều người biết và thích đọc. Truyện ngắn với cốt truyện ngắn gọn. lời văn sắc sảo đưa đến độc giả những ý nghĩa nhân văn trong từng câu truyện. Bạn là người yêu thích đọc truyện, nhất là những câu truyện ngắn. Thì không nên bỏ qua bài viết sau đây là một số những truyện ngắn dân gian hay nhất mà bạn nên đọc qua mà top share muốn chia sẻ đến bạn đọc. Hy vọng sẽ mang tới bạn đọc những câu truyện hay và thú vị nhất.
1 Phơi sách, phơi bụng
Làng Quỳnh có một lão trọc phú. Lão này đã dốt lại thích học làm sang, thỉnh thoảng mò đến nhà Trạng, đòi mượn sách. Tất nhiên lão có mượn được sách về thì cũng biết gì đâu đọc. Quỳnh bực lắm, một bận, thấy lão lấp ló đầu cổng, Quỳnh vội vác ngay chiếc chõng tre ra sân, cởi áo nằm phơi bụng. Lão trọc phú bước vào, thấy lạ, hỏi:
– Thầy làm gì thế?
Quỳnh đáp:
– À! Có gì đâu! Hôm nay được cái nắng tôi đem phơi sách cho khỏi khô mốc
– Sách ở đâu?
Quỳnh chỉ vào bụng:
– Sách chứa đầy trong này!
Biết mình bị đuổi khéo, trọc phú lủi thủi ra về.
Bận khác, lão cho người mời Quỳnh đến nhà. Để rửa mối nhục cũ, lão bắt chước, đánh trần, nằm giữa sân đợi khách…
Quỳnh vừa bước vào, lão cất giọng con vẹt, bắt chước…
– Hôm nay được cái nắng tôi nằm phơi sách cho khỏi mốc
Bất ngờ Quỳnh cười toáng, lấy tay vỗ bình bịch vào cái bụng phệ mà nói;
– Ruột nhà ông toàn chứa những của ngon chưa tiêu hết phải đem phơi, chứ làm cóc gì có sách mà phơi!
Lão trố mắt kinh ngạc:
– Sao thầy biết?
Quỳnh lại cười toáng lên, lấy tay lắc lắc cái bụng béo ụ ị của lão:
– Ông nghe rõ chứ? Bụng ông nó đang kêu “Ong óc” đây này! Tiếng cơm, tiếng gà, tiếng cá, lợn… Chứ có phải tiếng chữ, tiếng sách đâu. Thôi ngồi dậy, mặc áo vào nhà đi.
Lão trọc phú lủi thủi làm theo lời Quỳnh, và ngồi tiếp khách một cách miễn cưỡng.
2 Sự tích Cao Lãnh
“Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh
Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm”
Đồng Tháp Mười ngoài ruộng lúa phì nhiêu và cá tôm lấp lánh, sen nở bạt ngàn, còn có sự tích về một địa danh mà không hẳn ai cũng biết, đó là: Cao Lãnh. Hồi trước có cặp vợ chồng Đỗ Công Tường, tục danh là Lãnh, từ miền trung đến đây lập nghiệp. Sau mấy năm chí thú làm ăn, gia cư ông Lãnh khá khang trang. Tính tình ông chính trực ngay thẳng nên được dân làng cử làm chức câu đương, một chức danh để phân xử những vụ tố tụng trong làng.
Ông bà Lãnh trồng một vườn quít. Hàng xóm thường tụ tập đến đây để đổi chác, mua bán. Lâu ngày chỗ ấy thành chợ. Đó là chợ Cầu Ông Lãnh ngày nay.
Đến năm Canh Thìn (1820), nạn dịch tả hoành hành rất dữ. Dân chúng trong lành bị bệnh , chết rất nhiều. Xóm làng chợ búa trở nên vắng vẻ, ảm đạm. Thuở ấy, chưa có thuốc men như bây giờ nên người ta cho rằng bệnh dịch tá là do trời đất, thần thánh gây ra để quở phạt dân làng. Ông Lãnh cũng không suy tư gì hơn quan niệm đương thời nên ông lập bàn thờ giữa sân chợ để khấn vái xin trời đất, thần thánh giúp dân thoát khỏi tình cảnh chết chóc bệnh hoạn ấy. Điều đáng nói là hai ông bà nguyện thế mạng mình để cầu cho dân chúng thoát cảnh đau thương.
Cúng xong, hai ông bà ăn chay ba bữa. Đến sáng hôm thứ tư thì bà Lãnh mắc bệnh. Đến tối bà qua đời. Đang lo việc an táng cho bà thì ông lại phát bệnh và cũng ra đi đột ngột. Nhân dân trong làng lo việc chôn cất ông bà xong thì bệnh dịch tá cũng tự dứt luôn. Mọi người trở lại cuộc sống an nhàn như cũ. Do vậy, họ cho rằng nhờ vợ chồng ông Lãnh thế mạng nên cứu được chúng dân. Để tưởng nhớ công ơn, dân làng lập miếu ngay trên ngôi mộ của hai ông bà, tại làng Mỹ Trà bên bờ kinh Thầy Khâm để thờ phụng, gọi là miếu ông Chủ Chợ.
Chợ vườn quít từ đó được gọi theo tên ông. Vì tên tục của ông là Lãnh, lại làm chức cầu đương, nên dân chúng thường gọi là Câu Lãnh và chợ gọi là chợ Câu Lãnh, chợ Câu Lãnh ngày càng thịnh vượng và người đến mua bán lại đọc trệch Câu Lãnh thành Cao Lãnh nên tên Cao Lãnh được dùng từ đó.
3 Khỉ và châu chấu
Từ ngày mới có mặt đất và muôn loài, các loài vật cùng nói một thứ tiếng như loài người. Chúng sinh sống với nhau rất hòa thuận, không loài nào bắt nạt, chèn ép loài nào. Duy có khỉ là hay ngỗ ngược, chúng cậy mình vừa chạy được ở dưới mặt đất vừa nhảy được ở trên ngọn cây nên hay bắt nạt các loài nhỏ hơn. Lần ấy khỉ đến một nơi nọ thấy một đàn châu chấu đang bay đi nhảy lại trên bãi cỏ xanh rờn. Nhìn đàn châu chấu bay nhảy vui vẻ, khỉ nổi lòng ghen và bỗng nảy ra một ý tinh nghịch.
Một hôm chẳng biết từ nẻo rừng nào, đàn khỉ kéo nhau đến bãi cỏ. Chúng lăn qua lăn lại quần nát bãi cỏ rồi phóng uế bừa bãi ra đấy. Lũ châu chấu non đang tập bay, chưa cứng cánh bị khỉ đè chết vô kể. Khoàng Tý châu chấu bèn đến gặp Khoàng Tý khỉ để kiện. Khoàng Tý khỉ không những không thèm nghe mà còn dọa dẫm:
– Bọn mày chưa bằng cái lông bọn tao mà dám láo xược à? Chúng mày muốn yên thân thì cút khỏi đây ngay. Rừng này là của tao, bãi cỏ này cũng là của chúng tao.
Khoàng Tý châu chấu nghe mà tức đến tận đuôi cánh, nhưng vẫn phân trần:
– Đầu các bác nhớ sai, miệng các bác nói không đúng rồi! Đây chính là đất đai của chúng tôi đấy! Từ lúc sinh ra chúng tôi đã ở đây. Bố mẹ cụ kỵ chúng tôi cũng ở đây, chết ở đây. Các bác ở trên rừng kia chứ!
Đàn khỉ chừng mắt quát:
– Lấy gì làm chứng mà bọn bay dám láo!
Khoàng Tý châu chấu chỉ vào một mô đất cao giữa bãi cỏ nói:
– Kia! Các bác xem, mô đất là mồ mả tổ tiên chúng tôi. Chúng tôi ở đây để giữ phần mộ thiêng đó.
Đàn khỉ re lên cười. Chúng hè nhau nhảy lên mô đất cào bới. Lòng Khoàng Tý châu chấu đau như lá han xát. Khoàng Tý châu chấu không chịu nổi, mắng lũ khỉ:
– Bớ khỉ! Chúng mày quá lắm! Đưng cậy to xác mà bắt nạt, hà hiếp chúng tao. Chúng tao bé người thật đấy nhưng không sợ chúng mày đâu! Muốn đánh nhay thì đánh!
Khỉ vẫn nhe răng cười khục khục:
– Dám thách đánh nhau với bọn tao à? Mỗi đứa chúng mày liệu có chịu được một cái phẩy tay của chúng tao không?
Khoàng Tý châu chấu cứng cỏi đáp lại:
– Trưa mai chúng tao sẽ gặp chúng mày ở chỗ này.
Đàn khỉ lại nhe răng cười ròi lăn mình ra bãi cỏ ngủ khì.
Khoàng Tý châu chấu trở về liền gọi ngay tất cả bầu đàn thê tử châu chấu lại để bàn việc đánh nhau vởi khỉ rửa nhục. Khi nghe Khoàng Tý của mình nói tơi chuyện đi đánh nhau với khỉ, lúc đầu có nhiều con run sợ. Có con bàn lui:
– Khoàng Tý à! Ta lớn không bằng một ngón chân của khỉ, đánh chúng không nổi đâu. Ta chạy đi nơi khác nhường chúng đồng cỏ này thôi!
Nhưng tiếng nói đó chưa kịp dứt thì cả đàn đã nhao nhao phản đối:
– Không được! Đồng cỏ xanh tốt này là của tổ tiên ta, là của chúng ta, không thể để cho bọn khỉ muốn làm gì thì làm. Cái lý nó không thế. Đất đai của ai người ấy ở chứ. Ta đi mãi được à! Kẻ khác muốn cướp, ta phải đánh nhau thôi!
Một con châu chấu già bị lũ khỉ giẫm què một chân, cũng tham gia:
– Tuổi tôi đã gần hết nhưng thù này chưa trả thì chưa thể nhắm mắt được. Ta nhỏ người sức yếu phải biết cùng một bụng, họp cái sức lại cho lớn mới thắng được. Bụng già nghĩ kỹ rồi, chúng nó lớn xác nhưng ngu. Khi chúng đến, chúng ta chia nhay bay đến đậu lên trán, lên đầy chúng nó. Khi chúng thượng cẳng chân hạ cẳng tay nhằm đánh ta, ta nhanh chân nhảy đi, thế là chúng nó sẽ tự đánh nhau đến vỡ đầu. Chúng ta sẽ thắng cuộc dễ dàng mà!
Đàn hò reo thích thú. Khoàng Tý châu chấu liền chọn những con khỏe nhất để đi đánh trước. Mọi việc đã sắp đặt xong, tất cả cùng một bụng nghĩ. Ngay đêm ấy, bác châu chấu già bay đến lũ khỉ:
– Này các loài khỉ ơi! Tôi đã già, sức lại yếu, Khoàng Tý châu chấu đã đuổi tôi đi, không cho tôi nhập đoàn. Tôi nghe nói các bác sắp khởi quân đánh nhau với lũ chúng nó. Tôi xin hiến kế để các bác giết hết chúng đi cho hả giận. Các bác là người tốt bụng nên tôi xin mách điều này: cùng loài tôi biết, họ hàng nhà tôi có cánh, bay đến chỗ nào cũng được, nhưng đánh nhau lại rất sợ gậy gộc. Các bác muốn thắng nhanh mà lại không tốn sức thì cứ kiếm mỗi bác một đoạn gậy cứng. Khi chúng nó đến, các bác cứ mang gậy ra khua, bay mỏi cánh, hễ chúng đậu đâu, cứ đập một nhát là nát tan như đập một giọt nước. Chỉ loáng mắt là chết hết mà!
Châu chấu già nói xong rồi chỉ vào cái chân què nói tiếp:
– Đây các bác coi, một chân tôi què vì bị đàn cáo dùng gậy quật đấy! May mà tôi chưa mỏi cánh còn bay thoát.
Đàn khỉ ngốc nghếch nnghe châu chấu già nói vậy liền tin ngay. Sáng hôm sau từ lúc ông mặt trời chưa dậy, đàn khỉ đã chí chéo kéo đến bãi cỏ. Con nào cũng mang theo một đoạn gậy. Chờ mãi vẫn không thấy con châu chấu nào, Khoàng Tý khỉ sai quân đến gặp Khoàng Tý châu chấu.
Lần thứ nhất, Khoàng Tý châu chấu bảo:
– Chúng tao còn đang bận ngủ!
Lần thứ hai, Khoàng Tý châu chấu lại bảo:
– Chúng tao còn đang bận ăn! Muốn chết chúng mày sẽ được chết! Giục gì!
Châu chấu cứ nấn ná cho đến khi ông mặt trời đính giữa đỉnh đầu, khi cánh châu chấu đã cứng và cũng là lúc bụng khỉ đói meo. Bất chợt đàn châu chấu mới rào rào bay tới. Lũ khỉ bị đánh úp bất ngờ đâm hốt hoảng. Châu chấu thi nhau nhảy lên đầu lũ khỉ, vừa đá vừa phóng uế bừa.
Đàn khỉ tức khí cứ thất châu chấu ở đâu là nhè đánh tới tấp. Lũ khỉ đánh lộn nhau, kêu chí chóe. châu chấu càng bay lung tung, đậu lung tung như trêu tức lũ khỉ. Bọn khỉ càng phang lẫn nhau khỏe hơn. Chỉ loáng mắt, xác khỉ đã la liệt trên bãi cỏ, con nào cũng lòi mắt, nhe răng trắng nhởn!
Thế là hết đời bọn ác, cậy thế hà hiếp bắt nạt kẻ yế. Từ đó đần châu chấu lại ngày ngày tụ tập ở bãi cỏ vui chơi, nhảy nhót như xưa.
4 Con vợ khôn lấy thằng chồng dại như bông hoa nhài cắm bãi cứt trâu
Xưa, có một người đàn bà làm nghề dệt vải. Nàng bản tính thông minh tháo vát, nhưng lấy phải người chồng đần độn không làm được nghề gì nên thân. Một hôm, vợ đưa cho chồng mấy tấm vải bảo mang ra chợ bán. Vợ dặn: – “Nếu không được bốn quan mỗi tấm thì đừng có bán, nghe!”
Chồng mang vải ra chợ đi khắp nơi, rao khản cả cổ mà chả có ai mua cả. Mãi về sau có một ông cụ già mua cho hai tấm. Nhưng ông ta lại không mang tiền theo. Ông cụ bảo hắn:
– Chốc nữa anh đến nhà tôi lấy tiền nhé! Nhà tôi cũng ở trong xã này thôi.
Hắn hỏi:
– Nhà ông ở đâu?
– Tôi ở chỗ: “chợ đông không ai bán, chỗ kèn thổi tò le, chỗ cây tre một mắt”. Đến đó tôi sẽ trả tiền ngay.
Đến chiều hắn đi tìm người mua hàng chịu của hắn. Gặp ai hắn cũng hỏi thăm “chỗ chợ đông không ai bán, chỗ kèn thổi tò le, chỗ cây tre một mắt” là ở đâu, nhưng chẳng một ai biết thế nào mà trả lời. Người ta chỉ nói với hắn:
– Thôi rồi, anh mắc phải tay bịp bợm nào đấy thôi!
Hắn đi loanh quanh mãi đến tối mịt không tìm được nhà, đành phải trở về ôm mặt hu hu khóc.
Vợ hắn hỏi tại sao thì hắn kể cho vợ nghe tất cả câu chuyện. Người vợ bảo:
– Cũng dễ tìm thôi! “Chỗ chợ đông không ai bán” là cái nhà trường, “chỗ kèn thổi tò le” là bụi lau vì khi gió thổi nghe như tiếng kèn sáo, “chỗ cây tre một mắt” là bụi hành hay tỏi gì đó. Vậy anh phải kiếm người đó ở một cái trường học, gần đó có bụi lau, trước cửa có vườn trồng hành tỏi.
Qua ngày sau, anh chồng lại cất bước đi tìm. Quả đúng như lời người vợ nói, hắn gặp ông lão hôm qua. Đó là một thầy đồ dạy học trò. Thấy hắn đến, ông đồ liền hỏi xem nhờ ai mách cho mà biết được chỗ ở của mình. Hắn đáp: – “Tôi tìm ông suốt cả một buổi chiều hôm qua. May nhờ có vợ tôi mách cho đấy”. Ông thầy nghĩ: -“Người đàn bà này hẳn là một cô gái thông minh tài trí, ít người sánh kịp”. Hôm đó nhân nhà có giỗ, ông đồ mời hắn ngồi lại ăn cỗ. Hắn ta cắm đầu chén một bữa no nê lại được ông đồ gửi phần về biếu vợ. Nhưng khi trả tiền, ông đồ còn gửi hắn một gói khác bảo đưa cho vợ. Trong đó chỉ có một cục phân trâu ở giữa có cắm một cánh hoa nhài. Hắn ta chẳng hiểu gì cả cứ việc cầm lấy về nhà.
Người vợ trông thấy, hiểu ý ông thầy muốn mỉa mai mình:
Con vợ khôn lấy thằng chồng dại
Như bông hoa lài cắm bãi cứt trâu
Càng ngẫm nghĩ về “gói quà”, nàng càng buồn bực, trách chồng dốt nát để mang về cho mình một lời trêu chọc chua cay, rồi nghĩ tới duyên phận hẩm hiu, nước mắt nàng lã chã. Nàng vứt cái thoi, bụng bảo dạ: – “Thân thế ta thật chả ra gì. Trên đời có bao nhiêu người khôn ngoan tài giỏi, còn ta thì lấy nhầm phải một thằng chồng u mê đần độn!”. Trong một cơn phiền muộn, nàng chạy ra bờ sông, toan nhảy xuống dòng nước trẫm mình cho rồi một đời.
Lại nói chuyện ông thầy dạy học, sau khi tiễn chân anh chàng bán vải ra khỏi cửa, nghĩ đi nghĩ lại thấy sự trêu chọc ác nghiệt của mình thật là không phải. Ông đâm ra lo câu chuyện đưa tới một kết quả không hay: – “Không biết chừng người đàn bà ấy phẫn chí liều thân hoại thể thì ta sẽ có tội rất lớn với danh giáo”. Nghĩ thế, ông đồ bèn đi mượn một cái giỏ đựng cá thủng trôn, rồi mang ra bờ sông cùng với chiếc cần câu làm bộ câu cá. Ông cứ men theo dọc bờ sông gần làng, đi lại trông chừng. Khi thấy một người đàn bà ngồi trên bờ vắng đang ôm mặt khóc thút thít, ông biết ý vội tiến đến gần, có ý chìa giỏ cho nàng thấy và nói:
– Chị này ngồi tránh đi chỗ khác cho tôi câu cá nào.
Người đàn bà đó đúng là vợ anh chàng bán vải. Nàng ngước mắt trông lên thấy có một người đàn ông đầu đã hai thứ tóc mà lại mang chiếc giỏ rách đi câu. Nàng tự nghĩ: – “Người nào đây ngu quá là ngu. Chồng mình tuy khờ dại nhưng cũng chưa đến nỗi này”. Rồi nàng kết luận: – “Vậy ra chồng mình vẫn còn có những chỗ hơn người”. Nghĩ vậy, nàng bỏ ý định tự tử mà trở về nhà.
5 Nàng tiên cóc
Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân hiếm hoi, cầu Trời khấn Phật mãi người vợ mới có thai, nhưng đến khi sinh ra, không phải là người mà lại là một con cóc.
Con cóc lớn lên, biết nói tiếng người, song hình thù sần sùi, xấu xí, khiến cha mẹ nó lấy làm buồn phiền, thường than thở với nhau: “Vợ chồng mình già cả, hiếm hoi, tưởng sinh được mụn con nối dòng, trông nom đỡ đần mình, ngờ đâu oan gia nghiệp báo lại sinh ra cóc, còn trông mong gì nữa”!
Cóc nghe thấy thế, khuyên cha mẹ đừng lo. Rồi ngay hôm sau cóc nhảy đi coi ruộng cho cha mẹ, và từ khi nó trông nom đồng áng thì chẳng có ai lấy trộm lúa ruộng nhà nó như trước nữa.
Một hôm, có mấy thư sinh đi qua ruộng nó, dẫm lên lúa, bỗng nghe có tiếng lanh lảnh như giọng con gái bảo rằng: “Xin các cậu đi cho có ý tứ kẻo làm nát lúa nhà em”. Lũ thư sinh nhìn vào ruộng lúa, chẳng thấy ai, chỉ thấy một con cóc đang ngồi đó. Tiếng nói dịu ngọt làm cho một anh trong bọn đâm ra có cảm tình. Chàng thư sinh này bấy lâu đọc sách đạo thần tiên, tin tưởng có sự mầu nhiệm ở đời, nên về nhà nói với cha mẹ xin hỏi cóc làm vợ.
Ban đầu cha mẹ thư sinh tưởng con mình hóa dại, song anh ta cứ một mực đòi lấy cóc làm vợ cho kỳ được, nếu không thì thề quyết chẳng lấy ai. Người cha bèn kiếm cớ từ khước, bảo chỉ có một mình anh ta là con trai, cưới cóc về có sinh ra được con cái để nối dòng không? Thư sinh tin là sẽ có sự nhiệm màu xảy đến trong ngày cưới cóc về, Tiên Phật sẽ giúp cho cóc thành người có đức hạnh, nhan sắc hơn đời. Thấy con đã nhất quyết như vậy, cha mẹ anh ta cũng đành phải chiều theo, đem trầu cau đi hỏi cóc.
Đến ngày cưới, bên nhà trai mang đủ lễ vật, đồ nữ trang, quần áo cho cô dâu như người thường, chàng rể hy vọng Tiên Phật hóa phép cho cóc thành một cô gái xinh tươi như chàng vẫn mộng tưởng. Cả hai họ cũng trông mong như vậy, nhưng đến khi rước dâu, mọi người phải tức cười và xấu hổ vì đưa đón một con cóc nhảy về nhà chồng.
Cha mẹ chồng vừa rầu, phiền cho con trai, vừa chua xót vì con dâu cóc, liền cấp ruộng cho đôi lứa đi ở riêng. Thư sinh cũng buồn lòng, cặm cụi học hành, nghiên cứu các khoa học thần bí, hy vọng gỡ rối cho gia đình, nhất là đối với cha mẹ già đang khát khao có cháu bế. Cóc thì siêng năng công việc ở nhà, thức khuya dậy sớm khuyên chồng chăm chỉ bút nghiên.
Ngày ngày anh ta đi học về thì đã thấy cơm nước sẵn sàng, nhà cửa sạch sẽ ngăn nắp, mới nghĩ bụng rằng trong lúc vắng mình, chắc vợ trút lốt cóc thành người, chứ một con cóc thì làm sao lo việc nội trợ khéo léo được thế kia? Mấy bận anh ta thử rình, ra đi rồi thình lình trở về bất ngờ, hy vọng bắt gặp vợ là một cô gái xinh đẹp, song chỉ thấy một con cóc sần sùi ở nhà. Anh van nài cóc hóa thành người đẹp cho mình được sung sướng, nhưng cóc vẫn thản nhiên không tỏ vẻ gì cả.
Một tối, anh cho cóc hay tin mình được bổ đi dạy ở trường tỉnh, ngỏ thật rằng mình không thể đưa vợ đi theo nếu vợ vẫn giữ lốt cóc. Từ ngày cưới về anh ta đã chịu biết bao lời chế diễu của hàng xóm, bè bạn. Hơn nữa, cha mẹ vẫn thúc dục anh lấy thêm vợ khác để có con nối nghiệp tông đường. Cóc lặng yên nghe chồng than thở, khuyên chồng chớ nên quá buồn phiền, và xin phép hôm sau về nhà thăm cha mẹ.
Sáng ngày, cóc đi theo chồng, được một quãng thì nhảy vào một cái bụi bên đường. Thư sinh dừng bước lại thì thấy ở bụi cây đi ra một cô gái xinh đẹp lạ lùng, quá sức ước mong của anh bấy lâu. Anh sung sướng ngẩn ngơ nhìn người vợ đẹp lại gần, say đắm ngắm nghía vợ từ đầu đến chân rồi thiết tha xin vợ từ đây cứ giữ hình người. Biết là vợ đã trút lốt cóc ra trong bụi, anh ta kiếm cớ đi lùi lại sau rồi chạy lẻn đến bụi tìm lốt cóc mà dấu vào mình.
Đến nhà, cha mẹ thư sinh mừng rỡ thấy con dâu cóc đã hóa ra người xinh đẹp, dịu dàng. Anh chồng hân hoan thừa lúc mọi người không để ý đến, đem lốt da cóc bỏ vào bếp lửa cho tiêu tan. Hai vợ chồng ở lại nhà cha mẹ cả đôi bên luôn mấy ngày, vui vẻ tiệc tùng liên tiếp rồi mới trở về nhà.
Trên đường về vợ kiếm cớ vào bụi cây để tìm lại lốt cũ, không thấy, chồng mới cho hay là mình đã lấy đốt đi rồi. Vợ đành phải giữ nguyên hình người để về với chồng.
Hai vợ chồng ăn ở với nhau đằm thắm vui vẻ, vợ sinh được nhiều con cái, chồng học thi đỗ cao làm nên chức lớn, sống một đời sung sướng.
- Tiêu diệt mãng xà
- người đàn và tiết liệt
- cái cân thủy ngân
- mẹo trảy kinh
- đầu to bằng cái bồ
- nàng tiên cóc
- con vợ khôn
- lấy thằng chồng dại
- khỉ và châu chấu
- phơi sách
- phơi bụng
- sự tích cao lãnh
- Top
- top 10
- truyện
- truyện ngắn
- truyện dân gian
- truyện ngắn dân gian
- truyện mới
- truyện hay
- truyện ý nghĩa
- truyện cho bé
- hay nhất
- nhất
Previous post